Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Khoai mài - vị thuốc bổ quý pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.32 KB, 5 trang )

Khoai mài - vị thuốc bổ quý
Đông y gọi vị thuốc này là hoài sơn, có
tác dụng bổ tỳ rất tốt. Hoài sơn được
sử dụng trong các bài thuốc chữa chán
ăn, rối loạn tiêu hóa, đi tiêu lỏng do tỳ
yếu.
Khoai mài là loại cây leo, thân rễ phình
thành củ dài 0,5-1 m, đường kính 2-10 cm, có
nhiều rễ con. Lá đơn mọc đối hoặc có khi mọc
so le, đầu lá nhọn, phía cuống hình tim, kẽ lá có
những củ con. Phiến lá dài 8-10 cm, rộng 6-8
cm. Hoa đực, hoa cái khác gốc. Quả khô có ba
cạnh và có rìa. Cây mọc hoang khắp miền rừng
núi, hiện được trồng ở nhiều nơi.
Từ rất xa xưa, các nhà y học cổ đã quy chức
năng tiêu hóa của cơ thể cho một cơ quan gọi là
tạng Tỳ. Tài liệu xưa nhất về lâm sàng là 2 cuốn
Thương hàn và Kim quỹ (khoảng thế kỷ 2-3)
xác định bệnh của tạng Tỳ chủ yếu là đi tiêu
lỏng, sợ lạnh Cách chữa là dùng các vị thuốc
nóng nhất như can khương (gừng khô), nhục

Cây
khoai
mài.
quế (quế loại tốt), phụ tử Dần dần qua thực tế,
thầy thuốc đời sau ghi nhận các mức độ bệnh
khác nhau của Tỳ, đưa ra nhiều bài thuốc có các
vị thuốc bổ dưỡng hoặc kích thích tiêu hóa như
đảng sâm, bạch truật, trần bì, sa nhân.
Từ thực tế Tỳ bị bệnh sẽ sinh ra các triệu chứng


như đi tiêu lỏng, sợ lạnh, để chữa bệnh phải
dùng các vị thuốc nóng, hầu tiếp thêm “lửa” cho
Tỳ; một quan niệm đã hình thành: Tỳ là dương
và thuốc vào Tỳ cần phải ấm nóng. Lối phân
tích trên phù hợp với đa số bệnh Tỳ. Nhưng còn
một số trường hợp có các triệu chứng trái
ngược, điều trị bằng các bài thuốc cũ tỏ ra
không hiệu quả. Đó là các trường hợp Tỳ có
bệnh, cũng chán ăn chậm tiêu, nhưng trong
người không thấy lạnh, trái lại còn thấy nóng,
khát nước; phân chỉ hơi lỏng, thậm chí có khi
còn táo bón. Điều đó chứng tỏ Tỳ có cả âm và
dương. Khi Tỳ âm bị suy tổn sẽ sinh ra khô
khát, nóng trong, đại tiện bí, nặng hơn có thể thổ
huyết, gây chán ăn, chậm tiêu, gầy mòn Để
chữa bệnh, ngoài các vị thuốc bổ Tỳ, cần dùng
thêm các vị thuốc mát nhằm đồng thời nâng đỡ
âm và dương. Có một vị thuốc độc đáo đảm
nhiệm được cả hai nhiệm vụ nêu trên: đó là
Hoài sơn.

Trong dân gian, nhiều người vẫn cho Hoài sơn
là vị thuốc vô thưởng vô phạt, ăn cả một gánh
cũng không chết. Các thầy thuốc thì chỉ khoe
giỏi dùng phụ tử, thục địa, chứ không ai dám
thú nhận vẫn dùng Hoài sơn hằng ngày. Thế
nhưng ai cũng phải công nhận Hoài sơn là một
trong những vị thuốc cổ nhất, được ghi trong
sách từ cách đây 2.000 năm, và ngày nay vẫn
được dùng phổ biến. Đông y cho rằng Hoài sơn

vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ Tỳ bổ âm, trị
tiêu khát, cầm tiêu chảy, mạnh Tỳ, Phế, Thận.
Hoài sơn bổ Tỳ mà không làm khô ráo, bổ âm
mà không làm đầy trệ.
Người xưa dùng Hoài sơn trong bài Lục vị để
bổ âm, trị chứng nóng trong, người gầy, đổ mồ
hôi trộm: Thục địa 32 g, phục linh 12 g, sơn thù
16 g, trạch tả 12 g, hoài sơn 16 g, đan bì 12 g.
Hoài sơn cũng được dùng trong bài Sâm linh
bạch truật tán để bổ Tỳ, trị chứng tiêu chảy kéo
dài, cơ bắp teo nhão, chán ăn, mệt mỏi không có
sức: Đảng sâm, hoài sơn, bạch truật, bạch linh,
cam thảo mỗi thứ 80 g; biển đậu, hạt sen, ý dĩ,
cát cánh, sa nhân mỗi thứ 40 g; trần bì 30 g, tán
bột, ngày uống 12 g.

Ngày nay, Hoài sơn được dùng để trị các
chứng suy dinh dưỡng trẻ em, tiểu đường, ho
đàm nhiều do viêm phế quản mãn, tiêu chảy kéo
dài, suy nhược cơ thể ở phụ nữ có thai, người
mới ốm dậy Có thể dùng phối hợp trong bài
thuốc hoặc dùng đơn độc. Một số đơn thuốc đơn
giản:

- Trị suy dinh dưỡng trẻ em: Hoài sơn 15 g, ý dĩ
10 g tán bột; gan gà 1 cái thái nhỏ. Hấp chín,
ngày ăn 2 lần.

- Trị tiểu đương type 2 thể nhẹ và trung bình:
Hoài sơn 20 g, hoàng kỳ 16 g, sinh địa 16 g,

mạch môn đông 12 g, thiên hoa phấn 12 g, sắc
uống ngày một thang. Có thể chỉ dùng 100 g
hoài sơn, nấu thành cháo, ăn hàng ngày để trị
viêm phế quản mãn, tiểu đường, suy nhược

×