Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng tới nhận thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng dân cư tại thành phố tân an, tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.42 KB, 99 trang )

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hiện nay, loài người chúng ta đang đứng trước sự khan hiếm dần và ngày
càng cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên do sự khai thác và sử dụng quá
mức. Từ đó ảnh hưởng đến môi trường sống của chúng ta ở hiện tại và cả trong
tương lai. Vì thế, vấn đề môi trường đang là một trong những mối quan tâm hàng
đầu của nhiều quốc gia trên thế giới.
Đảng và Nhà nước Việt Nam ta từ nhiều năm nay đã có những chủ trương,
biện pháp để giải quyết các vấn đề về môi trường. Ngoài ra, công tác giáo dục, đào
tạo và nâng cao nhận thức về môi trường cũng rất được quan tâm. Đặc biệt là công
tác giáo dục môi trường trong cộng đồng.
Trên thực tế, giáo dục môi trường đã và đang được lồng ghép giảng dạy ở
hầu hết các môn học trong các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông, đại học, cao đẳng, và được tuyên truyền rộng rãi trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, mức độ quan tâm, hiểu về môi trường của các
đối tượng được giảng dạy và tuyên truyền này như thế nào; cũng như kỹ năng và
thái độ của họ đối với môi trường là ra sao thì vẫn chưa thể đánh giá được.
Trong xã hội có rất nhiều tầng lớp với những độ tuổi khác nhau, môi trường
sống, học tập, lao động của họ cũng khác nhau. Từ đó dẫn đến nhận thức và thái độ
của con người về môi trường sẽ bị chi phối bởi nhiều yếu tố.
Trên cơ sở đó, đề tài “ Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng tới nhận thức
bảo vệ môi trường trong cộng đồng dân cư tại thành phố Tân An, tỉnh Long An”
được thực hiện để tìm ra các yếu tố chi phối nhận thức bảo vệ môi trường của người
dân nơi đây. Từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của
cộng đồng.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
− Khảo sát và đánh giá về nhận thức bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư
tại Tp Tân An, tỉnh Long An.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002


1
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
− Tìm ra được các yếu tố ảnh hưởng tới nhận thức bảo vệ môi trường trong
cộng đồng dân cư trên.
− Từ đó có những đề xuất nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường phù hợp
với điều kiện sống và phát triển của dân cư địa phương.
3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
− Tìm hiểu về GDMT.
− Lập phiếu thăm dò ý kiến.
− Thu thập tài liệu về điều kiện tự nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội, giáo dục,
hiện trạng môi trường của Tp Tân An, tỉnh Long An.
− Phát phiếu điều tra, tổng hợp ý kiến.
− Ghi nhận về điều kiện sống, làm việc; điều kiện giáo dục, truyền thông về
môi trường mà các đối tượng khảo sát được tiếp nhận.
− Đưa ra kết quả và nhận xét.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
a) Phương pháp lý thuyết:
Thu thập, tổng hợp các tài liệu có liên quan theo phương pháp tập hợp và chọn
lọc:
− Tài liệu tổng quan về GDMT, về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, giáo
dục của địa phương.
− Tài liệu từ các giáo án, bài giảng, sách giáo khoa, ….
b) Phương pháp thực nghiệm:
• Lập phiếu điều tra:
Phiếu điều tra được xây dựng dưới hình thức đặt câu hỏi, bao gồm các phần
kiểm tra về: kiến thức, kỹ năng, thái độ.
• Tiến hành điều tra thực tế: với tổng số phiếu điều tra là 520.
• Đối tượng khảo sát:
Tiến hành khảo sát trên năm loại đối tượng. Cụ thể là:
+ Học sinh tiểu học với độ tuổi từ 6-11 tuổi.

SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
2
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
+ Học sinh trung học cơ sở với độ tuổi từ 12-15 tuổi.
+ Học sinh trung học phổ thông với độ tuổi từ 16-18 tuổi.
+ Sinh viên đại học với độ tuổi từ 19-23 tuổi.
+ Người lao động với độ tuổi từ 23 tuổi trở lên.
• Quan sát, phỏng vấn, trò chuyện.
c) Phương pháp phân tích số liệu:
Thống kê, xử lý, tổng hợp và phân tích các số liệu thu thập được bằng phần
mềm microsoft office Excel 2003.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Do hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu, khảo sát tại:
- Một trường tiểu học.
- Một trường trung học cơ sở.
- Một trường trung học phổ thông.
- Một trường đại học.
- Và một số cơ quan, công ty, cửa hàng, tiệm buôn bán nhỏ.
Trên địa bàn Tp Tân An, tỉnh Long An.
6. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Do giới hạn thời gian nên đề tài chỉ được thực hiện trong vòng 03 tháng.
Từ tháng 11/2011 đến tháng 02/2012.
7. Ý NGHĨA KHOA HỌC, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA ĐỀ TÀI
- Tìm ra được một số yếu tố ảnh hưởng tới nhận thức bảo vệ môi trường trong một
cộng đồng dân cư nhỏ.
- Góp phần vào công tác bảo vệ môi trường của cộng đồng.
- Góp phần vào công tác giáo dục môi trường.
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Gồm 6 chương với nội dung như sau:

Chương I – Tổng quan.
Chương II – Tổ chức hoạt động giáo dục môi trường.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
3
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
Chương III – Điều kiện tự nhiên và môi trường kinh tế xã hội của Tp. Tân An hiện
nay.
Chương IV – Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Chương V – Kết quả thăm dò ý kiến của cộng đồng.
Chương VI – Một số giải pháp nhằm nâng cao và mở rộng việc giáo dục nhận thức
về môi trường.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
4
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1 Giáo dục môi trường (GDMT) là gì?
Hiện nay có nhiều định nghĩa GDMT, tuy nhiên, trong phần lớn các tài liệu
rất hiếm thấy một nỗ lực nhằm “định nghĩa” GDMT theo kiểu ‘GDMT là… “điều
này cho thấy rằng GDMT không nhất thiết là một môn học chứa đựng các hệ thống
khái niệm khoa học. GDMT mang đặc tính một chương trình hành động, GDMT
được tiếp cận theo hướng thực tiễn; theo đó, người ta quan tâm đến mục tiêu, các
chính sách và chiến lược thực hiện trong nhà trường, các chương trình hành động,
các sản phẩm giáo dục, đánh giá các tác động, xây dựng các nguồn lực.
Dưới đây là một số ví dụ:
GDMT giúp con người hiểu biết về thế giới tự nhiêm và biết sống hòa hợp
với thiên nhiên (cứu lấy trái đất).
GDMT cố gắng:
 Thúc đẩy nhận thức rõ ràng và quan tâm đối với mối quan hệ phụ thuộc

giữa kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội trong các vùng đô thị và nông thôn.
 Mang lại cho mọi người cơ hội đạt được tri trước, các giá trị, thái độ, cam
kết và kỹ năng cần thiết để bảo vệ và cải thiện môi trường.
 Tạo ra những mẫu mực mới trong hành vi của các cá nhân, nhóm và xã hội
như là một tổng thể hướng về môi trường (USESCO).
GDMT là một quá trình liên tục suốt đời.
Theo tài liệu của cục bảo vệ môi trường TP HCM: “Giáo dục môi trường là
một quá trình thông qua các hoạt động chính quy và không chính quy nhằm giúp
con người có được sự hiểu biết, kỹ năng và giá trị tạo điều kiện cho họ tham gia và
phát triển một xã hội bền vững về sinh thái”.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
5
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
Không nhất thiết phải kết luận rằng quan niệm nào là đúng hay sai. Mỗi nền
văn hóa và thể chế xã hội có quyền xác định cho mình một hướng tiếp cận tối ưu,
cùng với sự tiếp thu thế mạnh của các khuynh hướng khác nhau.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của việc GDMT thông qua các môn học ở nhà
trường có thể hiểu GDMT theo định nghĩa là một quá trình tạo dựng cho con người
những nhận thức và mối quan tâm đến môi trường và các vấn đề về môi trường.
GDMT gắn liền với việc học kiến thức, rèn luyện luyện kỹ năng, hình thành thái độ
và lòng nhiệt tình để hoạt động một cách độc lập hoặc phối hợp nhằm tìm ra giải
pháp cho những vấn đề môi trường hiện tại và ngăn chặn những vấn đề mới có thể
xảy ra trong tương lai.
1.2 Mục đích của GDMT:
Mục đích của GDMT nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào gìn
giữ, bảo tồn, sử dụng môi trường theo cách thức bền vững cho cả thế hệ hiện tại và
tương lai. Nó cũng bao hàm cả việc học tập cách sử dụng những công nghệ mới
nhằm tăng sản lượng và tránh những thảm họa môi trường, xóa nghèo đói, tận dụng
các cơ hội và đưa ra những quyết định khôn khéo trong sử dụng tài nguyên. Hơn

nữa, nó cũng bao hàm cả việc đạt được những kỹ năng, có những động lực và cam
kết hành động, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, để giải quyết những vấn đề môi
trường hiện tại và phòng ngừa những vấn đề mới nảy sinh.
1.2.1 GDMT trong nhà trường nhằm đạt đến mục đích cuối cùng là người
học được trang bị:
Một ý thức trách nhiệm sâu sắc đối với sự phát triển bền vững của Trái Đất.
Một khả năng cảm thụ, đánh giá vẻ đẹp của nền tảng đạo lý môi trường.
Một nhân cách được khắc sâu bởi nền tăng đạo lý môi trường.
Là một thực thể mang tính xuyên suốt trong các môn học, GDMT mang lại
cơ hội cho người học cơ hội khám phá môi trường và hiểu biết về các quyết định
của con người liên quan đến môi trường, GDMT cũng tạo cơ hội để hình thành, sử
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
6
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
dụng các kỹ năng liên quan đến cuộc sống hôm nay và ngày mai của người học. Tất
cả điều này cho chúng ta niềm hy vọng người học có nhiều ý tưởng sáng tạo và
tham gia tích cực vào quá trình phấn đấu cho một thế giới phát triển lành mạnh.
1.2.2 Năm mục tiêu có quan hệ tương hỗ trong GDMT:
Tại hội nghị Liên chính phủ về GDMT do UNESCO và UNEP tổ chức tháng
10/1997 đã đề ra những mục tiêu cụ thể cho GDMT như sau:
Nhận thức: Giúp cho các đoàn thể xã hội và cá nhân đạt được một nhận thức
và sự nhạy cảm đối với môi trường và những vấn đề có liên quan.
Kiến thức: Giúp cho các đoàn thể xã hội và cá nhân tích lũy được nhiều kinh
nghiệm khác nhau và có được sự hiểu biết cơ bản về môi trường và những vấn đề
có liên quan.
Thái độ: Giúp cho các đoàn thể xã hội và cá nhân hình thành được những giá
trị và ý thức quan tâm vì môi trường, cũng như động cơ thúc đẩy trong việc tham
gia tích cực vào việc bảo vệ và cải thiện môi trường.
Kỹ năng: Giúp cho các đoàn thể xã hội và cá nhân có được những kỹ năng

trong việc xác định và giải quyết các vấn đề môi trường.
Tham gia: Tạo cơ hội cho các đoàn thể xã hội và cá nhân tham gia mội cách
tích cực ở mọi cấp trong việc giải quyết những vấn đề môi trường.
1.2.3 GDMT mong hình thành điều gì cho học sinh.
Về kiến thức hiểu biết.
Các hoạt động GDMT sẽ được thiết kế và thực hiện nhằm giúp học sinh làm
quen với các khai niệm sau đây:
 Bảo vệ và bảo tồn.
 Giảm tiêu thụ, tái sử dụng và tái chế.
 Các chu trình khép kín.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
7
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
 Cái cần có cái muốn có
 Sự phụ thuộc lẫn nhau.
 Chi phí và lợi ích thu được.
 Tăng trường và suy thoái
 Kiểm toán về tác động và sử dụng các nguồn cung cấp.
 Hình thành và duy trì quan hệ đối tác
 Các kiểu liên kết: Nguyên nhân – hậu, chuỗi – mạng.
Tư duy một cách toàn cầu và hành động một cách cục bộ.
Sự lựa chọn các khái niệm trên còn phải tính đến các mối quan hệ:
Phát triển – tác động Nguyên nhân – kết quả
Chất lượng – số lượng Vấn đề - giải pháp
Suy nghĩ – hành động Chi phí - lợi ích
Quốc tế - khu vực Quốc gia – địa phương
Trong thực tiễn sư phạm, mỗi ngôi trường cụ thể phụ thuộc về một vùng địa
lý cụ thể, nằm trong một bối cảnh văn hóa cụ thể, sẽ có một nhu cầu giáo dục môi
trường cụ thể. Điều này quyết định việc lựa chọn những nội dung và phương thức

hiện thực hiện phù hợp. Việc xác định, chọn lựa những vấn đề môi trường có liên
quan trực tiếp sẽ thu hút học sinh tham gia giải quyết bằng một thái độ tự nguyện và
bằng những hành động có trách nhiệm.
Về kỹ năng.
Các hoạt động GDMT sẽ được thiết kế và thực hiện giúp học sinh sử dụng
các kỹ năng đã có, hình thành và vận dụng các kỹ năng mới. Các kỹ năng có thể sắp
xếp theo các nhóm chủ yếu sau:
 Kỹ năng giao tiếp
 Kỹ năng tính toán
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
8
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
 Kỹ năng nghiên cứu
 Kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề
 Kỹ năng cá nhân và xã hội
 Kỹ năng công nghệ thông tin
Về thái độ và hành vi
Các hoạt động GDMT sẽn được thiết kế và thực hiện nhằm giúp học sinh
biết được giá trị của môi trường và vai trò cá nhân của mình trong việc gìn giữ môi
trường cho hôm nay và ngày mai. Điều này khích lệ một thái độ và hành vi tích cực
đối với môi trường, có thể nhìn thấy qua các biểu hiện dưới đây:
 Biết đánh giá, quan tâm và lo lắng đến môi trường và đời sống của các
sinh vật.
 Sự độc lập trong suy nghĩ trước vấn đề về môi trường.
 Tôn trọng niềm tin và quan điểm của người khác.
 Khoan dung và cởi mở.
 Biết tôn trọng các luận chứng và luận cứ đúng đắn.
 Có ý thức phê phán và thay đổi những thái độ không đúng về môi trường.
 Có mong muốn tham gia vào việc giải quyết các vấn đề môi trường, các

hoạt động cải thiện môi trường và truyền bá các ý tưởng tốt đẹp trong cộng đồng.
Việc thay đổi thái độ của học sinh trước các vấn đề môi trường là một dấu
hiệu mấu chốt cho phép đánh giá mức độ thành công của chương trình GDMT. Các
chương trình này không những chỉ đạt mục đích mục cung cấp các kiến thức, kỹ năng
và hiểu biết về môi trường, mà còn phải dấn bước vào “lãnh địa” đạo đức, nơi mà các
giá trị đạo lý môi trường có trong học sinh phải được bộc lộ ra bên ngoài bằng thái độ
và tình cảm, hành vi cụ thể. Quan sát thói quen của nhiều học sinh khác nhau có thể
phân biệt được nhân cách môi trường giữa chúng. Mà thói quen là do sự lặp đi lặp lại
(bằng cơ bắp) nhiều lần một công việc; do đó, việc học sinh có được một kiến thức,
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
9
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
hiểu biết nào đó về môi trường (ví dụ lợi ích của việc giảm thụ tiêu thụ năng lượng)
chưa hẳn là học sinh đó có được một hành vi tương xứng (biết tắt điện khi ra khỏi
phòng). Điều này giải thích vì sao xu hướng GDMT luôn nghiêng về các hình thức
hoạt động và thực hành.
Mặc dù có quan hệ mật thiết giữa các vấn đề môi trường toàn cầu và địa
phương, nhưng các hoạt động GDMT nên xuất phát từ các tình huống tại chỗ, nơi
mà học sinh đã từng trải nghiệm trong quá trình trưởng thành của mình. Trong hoàn
cảnh đó, những quan tâm và thái độ của các em đối với môi trường có cơ hội bộc lộ
một cách thành thực; và từ đó, nhu cầu của hiện trạng sẽ nảy sinh một cách tự
nhiên.
1.3 Phạm vi GDMT
- Tất cả mọi lĩnh vực: Tự nhiên, văn hóa, xã hội,…
- Tất cả các nghề nghiệp
- Tất cả mọi lứa tuổi, giới tính, dân tộc, mọi trình độ văn hóa.
Ý thức của giai đoạn đầu tiên là tập trung vào học sinh ở trường phổ thông,
vì GDMT cho học sinh ở trường phổ thông không những có kết quả trước mắt mà
còn đạt được những lợi ích lâu dài.

Xét về khía cạnh này, thế hệ trẻ rõ ràng là một bộ phận phù hợp nhất của xã
hội để tác động, vì:
- Họ vẫn đang trong quá trình phát triển các thái độ, nhận thức và hành vi
- Họ là thành viên của nhóm dân cư lớn nhất
- Sự thành đạt trong tương lai của họ phụ thuộc nhiều hơn vào phát triển bền
vững hiện nay hơn bất cứ nhóm nào khác.
Trường học là nơi hội tụ nhiều điều kiện nhất cho việc tác động vào ý thức
môi trường của thế hệ trẻ. Bởi vì trong nhà trường quá trình giáo dục được tiến
hành theo chương trình và kế hoạch chặt chẽ, với các phương pháp giáo dục khoa
học cho cho phép tác động đến từng cá thể học sinh. Điều đó đảm bảo rằng các
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
10
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
quyết định có ảnh hưởng tới môi trường sẽ chỉ được chỉ dẫn đầy đủ bởi sự hiểu biết
và kinh nghiệm.
1.4. Hiện trạng GDMT
1.4.1. Hiện trạng GDMT trên thế giới
Ở nhiều nước trên thế giới, việc giáo dục môi trường được thực hiện bằng sự
kết hợp giữa giáo dục trong nhà trường và các tổ chức trong xã hội. Trong nhà
trường, giáo dục môi trường được coi là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược bảo
vệ môi trường của đất nước.
Hoa Kỳ: Liên đoàn quốc gia bảo vệ cuộc sống hoang dã NWL đã giảng dạy
ở các trường 33 bài học về môi trường có thể áp dụng vào thực tế.
Pháp: “Chương trình hành động giáo dục” được đưa vào các trường tiểu học
và trung học.
Cộng đồng Châu Âu luôn tích cực trong cuộc thảo luận về giáo dục môi trường.
Vào tháng 5 năm 1958, hội đồng cộng đồng Châu Âu đã họp và thống nhất
rằng “Cần phải tiến hành từng bước cụ thể thông qua biện pháp toàn diện tăng
cường giáo dục môi trường trên khắp cộng đồng”. Một nghị quyết về giáo dục môi

trường đã được thông qua vời những mục tiêu và nguyên tắc manh tính hướng dẫn
sau:
Mục tiêu của giáo dục môi trường là nâng cao nhận thức của quần chúng về
các vấn đề trong lĩnh vực này cũng như các giải pháp có thể, đặt nền móng cho sự
tham gia tích cực với đầy đủ kiến thức của từng cá nhân trong việc bảo vệ môi
trường và sử dụng một cách hợp lý sáng suốt các tài nguyên thiên nhiên. Để đạt
được những mục tiêu trên, giáo dục môi trường cần phải tính đến các nguyên tắc
mang tính chỉ dẫn sau:
Môi trường phải được coi là tài sản của nhân loại.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
11
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
Nhiệm vụ chung được coi là sự đóng góp cho việc bảo vệ sức khỏe con
người và giữ gìn cân bằng sinh thái, duy trì và bảo vệ môi trường.
Sự cần thiết đối với việc sử dụng hợp lý, sáng suốt các tài nguyên thiên nhiên.
Đường lối mà mỗi cá nhân với tư cách là người tiêu dùng có thể đóng góp
cho việc bảo vệ môi trường bằng hành vi thái độ của mình.
Nghị quyết chỉ ra rằng các quốc gia cộng đồng sẽ cố gắng thực hiện các biện
pháp nhất định, bao gồm đưa GDMT vào tất cả các ban ngành giáo dục … cân nhắc
với mục đích cơ bản của GDMT khi soạn thảo chương trình … áp dụng các biện
pháp thích hợp để nâng cao kiến thức về môi trường trong bước đào tạo ban đầu và
đào tạo tại chức cho giáo viên … (Báo cáo chuyên đề của Hội đồng Châu Âu
6/7/1988).
Giáo dục môi trường ở Vương quốc Anh
Giáo dục môi trường được xác định là một môn học trong chương trình dạy
học phổ thông ở Anh trong khoảng vài ba thập kỷ. Các chức trách địa phương, các
tổ chức nhà nước, các trường tư và các giáo viên đã thực hiện được một khối lượng
công việc khổng lồ nhằm thúc đẩy tầm quan trọng của giáo dục môi trường, và phát
huy hiệu quả dạy học và chiến lược học tập. Trong những năm tiếp theo, “môi

trường” trở thành một từ được thảo luận rộng rãi trong giáo dục, và giáo dục môi
trường đã nhanh chóng phát triển thành một môn học. Năm 1968, Hội đồng giáo
dục môi trường CEE được thiết lập như là một trung tâm dành cho các tổ chức quan
tâm tới môi trường. Nó có 3 mục đích lớn:
Phát triển: CEE cố gắng tạo điều kiện phát triển giáo dục môi trường cả về
mặt lý thuyết lẫn thực hành.
Đẩy mạnh: CEE cố gắng phát huy khái niệm giáo dục môi trường và tạo
thuận lợi cho việc áp dụng nó ở mọi quy mô giáo dục.
Đánh giá: CEE cố gắng ghi lại sự tiến bộ của giáo dục môi trường và đánh
giá hiệu quả của nó.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
12
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
Bằng các cuộc gặp gỡ, các chuyên đề báo cáo và các sách báo xuất bản trong
đó có bản tuyên bố các mục đích (NAEE 1975, 1982, 1992) Hiệp hội giáo dục môi
trường quốc gia, Hiệp hội chuyên ngành UK dành cho tất cả các nhà giáo dục quan
tâm và hoạt động trong lĩnh vực này đã có những ảnh hưởng đáng kể.
Nghị quyết tháng 5/1988 của Hội đồng bộ trưởng của Cộng đồng Châu Âu
đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa giáo dục môi trường thành đề tài gia
thoa giữa các môn học của chương trình dạy học Quốc gia, phổ thông. Các cá nhân
và những người đứng đầu các tổ chức tiếp tục củng cố tầm quan trọng của giáo dục
môi trường.
Giáo dục môi trường tốt, giống như bất kỳ nền giáo dục tốt nào, phải đưa
học sinh, sinh viên từ nhận thức và kinh nghiệm trước mắt tới sự hiểu biết sâu rộng
hơn. Nó phát triển được khả năng biết đánh giá cái nghiêm trọng và đặc biệt không
có gì xảy ra một cách vô tình. Số lượng môn học và các phần của chương trình phổ
thông đề cập tới vấn đề này phải được tính tới sự tác động qua lại của con người và
môi trường … Tầm quan trọng của giáo dục môi trường là nó làm cho chúng ta cảm
nhận được nguyên nhân và hậu quả của những vấn đề mà lâu nay chúng ta chỉ nhận

thức được một cách lờ mờ. Môi trường là tương lai của con cái chúng ta và nhiều
người đã hiểu rằng chúng ta cần phải khuyến khích chúng suy nghĩ tích cực về nó
… Cần phải làm gì để giảm những hư hại mà chúng ta gây ra cho nó, cần phải có
những thời điểm hoàn cảnh nào để cải tạo môi trường quanh ta và để có được những
giải pháp thực tế, con cái của chúng ta phải biết sử dụng những kiến thức đã học ở
trường. (Trích diễn văn của Angela Rwbold, Bộ trưởng Giáo dục và Khoa học, ngày
27/7/1989. Kỳ họp khoa học quốc tế London) (trọng tâm nhấn mạnh).
Ở Châu Á và Đông Nam Á
Cũng như trên thế giới, các nước Đông Nam Á đang đứng trước một khó
khăn về giáo dục môi trường: giáo dục kiến thức môi trường các cấp học, trường
học và nâng cao dân trí môi trường. Đây là một nhu cầu cấp bách, nhất là ở cấp hệ
“hậu trung học”. Đông Nam Á đang thiếu hụt chuyên gia có đủ trình độ để giảng
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
13
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
dạy về cơ bản môi trường học, tiếp cận nguồn thông tin, tài liệu thích hợp giảng dạy
có định hướng chiến lược. Tuy vậy, mỗi nước vẫn có những thành tựu đáng kể và
một số trở ngại riêng.
Ở Indonesia, các trung tâm nghiên cứu môi trường đặt trong các học viện đã
hỗ trợ đắc lực cho việc quản lý môi trường. Các trung tâm này được thành lập nhằm
cung ứng những chuyên gia công nghệ cho việc nghiên cứu đào tạo và hàng loạt các
công việc khác liên quan đến vấn đề khoa học môi trường ở cấp độ quốc gia và khu
vực. Tuy nhiên, về dân trí môi trường ở một số đảo xa Jakarta như Kalimantan thì
vẫn chưa cao.
Hơn một thập kỷ qua, ở Malaysia, sở dĩ các trường đại học đã đạt được chất
lượng rất cao và rất mạnh trong giáo dục môi trường một phần là nhờ sự liên kết
chặt chẽ giữa các học viện trong nước và ngoài vùng. Các trường đại học như Đại
học tổng hợp Malaya ở Kuala Lumpua hay Đại học Benanh ở phía Bắc, đã tổ chức
cả những khóa học chính thức lẫn ngoại khóa về môi trường cho các sinh viên theo

học hầu hết ở các ngành khác nhau. Trình độ dân trí về môi trường và bảo vệ môi
trường ở Malaysia tương đối cao.
Đất nước Brunei nhỏ bé vậy mà giáo dục môi trường cũng được coi trọng
không kém. Ở đại học Tổng hợp tại thủ đô Bandar Seri Begawan có khoa môi trường
với đầy đủ trang thiết bị hiện đại, cứ 3 sinh viên có một người hướng dẫn thực hành
và 10 sinh viên có một người phụ trách lý thuyết. Ở trường phổ thông giáo dục môi
trường được bắt đầu từ lớp 4, lớp 5.
Ở Philippines, hầu hết các trường đại học đều có khoa học hay chí ít cũng có
một bộ môn môi trường. Ở đây đào tạo chuyên ngành môi trường tài nguyên, môi
trường sinh thái lẫn công nghệ môi trường. Đất nước nhiều thiên nhiên này rất chú
trọng giáo dục các sự cố môi trường và phòng chống. Ví dụ như sự cố bão hoặc núi
lửa. Đặc biệt giáo dục về quản lý môi trường ven biển
Ở Singapore, đất nước được coi là bảo vệ môi trường tốt nhất Đông Nam Á,
hàng loạt chương trình giảng dạy đã được các trường Đại học Tổng hợp, Đại học
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
14
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
Bách khoa, Học viện giáo dục công nghệ của nước này tiến hành mạnh mẽ. Có được
vị trí hàng đầu ấy là nhờ họ đã biết đưa giáo dục môi trường đi song song với xử
phạt. Các trường Đại học cũng đã bầu ra một ủy ban chung và cố vấn cho chính phủ
đưa ra những chính sách chủ trương kịp thời thích hợp.
1.4.2 Hiện trạng GDTM ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, giáo dục môi trường đã trở thành vấn đề cấp bách ở trường
học. Có thể nói, GDTM ở trường phổ thông trong những năm gần đây và nhất là
hiện nay đã thật sự được coi trọng và được xúc tiến bằng 2 con đường: con đường
trực tiếp thông qua giảng dạy các bộ môn văn hóa trong chương trình phổ thông và
con đường gián tiếp thông qua các trường sư phạm bao gồm cao đẳng và đại học là
nơi đào tạo ra các thầy cô giáo sẽ giữ trọng trách giáo dục môi trường cho học sinh
sau này.

Nhìn chung, việc đưa nội dung GDMT vào trường sư phạm và trường phổ
thông thông qua các chuyên đề trên mới chỉ dừng ở mức độ cung cấp một số kiến
thức và thông tin về môi trường cùng với những gợi ý phương pháp lồng ghép
GDMT vào một số bộ môn văn hóa ở trường phổ thông, chưa chú trọng đến việc
bồi dưỡng cho giáo viên năng lực GDMT để tạo cơ sở cho họ có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ GDMT cho học sinh của mình.
Trong chương trình của một số môn học trong trường phổ thông, nội dung
GDMT đã được đề cập từ những năm 1979 - 1980, qua nhiều lần chỉnh lý, đến nay đã
chính thức được đưa vào giảng dạy lồng ghép ở một số môn học được xem là thích
hợp như Sinh học, Địa lý, Hóa học, Giáo dục công dân (ở bậc trung học phổ thông),
Tự nhiên xã hội, Giáo dục sức khỏe, Đạo đức (ở bậc tiểu học).
Tuy nhiên, ở hầu hết các môn học trên, nội dung GDMT mới chỉ được đề
cập ở mức độ khiêm tốn.
Hiện nay, với cách nhìn mới nhất, GDMT được coi là một quá trình, về
nguyên tắc, không được coi là một môn học. Vì vậy mà mọi thành viên trong hệ
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
15
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
thống giáo dục đều có quyền tham gia, và việc thiết kế giáo trình giảng dạy về
GDMT ở trường sư phạm cũng như các trường phổ thông đều có thể triển khai
mọi môn học, từ khoa học tự nhiên, khoa học xã hội đến ngôn ngữ và nghệ thuật.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
16
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC MƠI TRƯỜNG
2.1. Mơ hình của việc dạy và học trong GDMT
Việc dạy và học trong GDMT đang diễn ra trên tồn cầu theo mơ hình sau:

Hình 2.1: Mơ hình của việc dạy và học trong GDMT
Trong mơ hình đó, ba khía cạnh GDMT ln tồn tại song song:
Giáo dục về mơi trường:
○ Kiến thức, hiểu biết
○ Kỹ năng
◘ Hình thành ở học sinh những kiến thức, hiểu biết cơ bản về những vấn đề
về mơi trường.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
17
GIÁO DỤC
VỀ
MÔI TRƯỜNG
QUAN
TÂM
PHÁT TRIỂN CÁ NHÂN
Tri thức. Nhận thức
Kỹ năng. Thái độ
Hành vi. Giá trò
GIÁO DỤC TRONG MÔI TRƯỜNG
(THÔNG QUA)
KINH
NGHIỆM
THỰC TẾ
HÀNH
ĐỘNG
GIÁO DỤC

MÔI TRƯỜNG
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến

◘Cung cấp lý thuyết về các quá trình tự nhiên, xã hội có liên quan đến môi
trường.
◘ Chú trọng đến thông tin, dữ liệu, sự kiện và hoạt động thực tế nhằm thu
hoạch tri thức và trao dồi kỹ năng.
Giáo dục vì môi trường
○ Phán xét
○ Thái độ, hành vi
○ Giá trị
◘ Hình thành khả năng suy nghĩ, nghe, nói, đọc, viết, có sự phán xét. Nhân
tố này hỗ trợ cho quá trình hình thành hành vi tốt, thái độ đúng với môi trường.
◘ Hình thành thái độ quan tâm đến môi trường, khuyến khích sử dụng hợp lý
môi trường hôm nay và ngày mai.
◘ Hình thành khả năng đánh giá, ra quyết định trước những vấn đề môi
trường. Phát triển khả năng lựa chọn những giải pháp có tính bền vững.
◘ Thiết lập những giá trị đạo lý môi trường căn bản mà các cá nhân sẽ phấn
đấu thực hiện suốt đời.
Giáo dục trong môi trường
○ Phát huy tiềm năng
○ Kinh nghiệm
○ Sự tham gia
◘ Mở ra nhiều cơ hội giúp học sinh tích lũy nhiều kinh nghiệm nhờ giáo dục
trực tiếp trong môi trường gần gũi (như trường học, cộng đồng địa phương hay các
địa bàn khác xa hơn).
◘ Đề cao quyền công dân của học sinh đối với công việc bày tỏ các quan tâm
chung về môi trường. Quá trình tham gia trực tiếp các hoạt động giáo dục thông qua
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
18
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
môi trường sẽ phát huy tiềm năng của mỗi học sinh bao gồm việc củng cố, phát

triển trí thức, kỹ năng nghiên cứu tích cực.
◘ Đối với việc học: Kích thích hứng thú và óc sáng tạo nhờ tiế xúc trực tiếp
với môi trường phong phú đa dạng.
◘ Đối với việc dạy: Môi trường cung cấp một nguồn tư liệu và sư phạm vô
tận.
2.2. Một số nguyên tắc thực hiện GDMT
2.2.1. Mười hai nguyên tắc chung đối với GDMT (Agenda XXI)
 Xem xét môi trường trong tổng thể của nó – môi trường tự nhiên và nhân
tạo, môi trường công nghệ và xã hội (kinh tế, chính trị, lịch sử, văn hóa, đạo đức,
thẩm mỹ).
 Là một quá trình liên tục suốt đời, bắt đầu từ bậc mầm non và tiếp tục qua
tất cả các giai đoạn tiếp theo cho dù chính quy hay không.
 Mang tính liên thông giữa các môn học trong mọi cách tiếp cân, rút ra nội
dung cụ thể ở từng môn học để làm cho các xu hướng hài hòa và cân bằng trở nên
hiện thực.
 Xem xét các vấn đề môi trường theo các quan điểm quốc tế, khu vực,
quốc gia và địa phương sao cho học sinh có được một sự thấu hiểu sâu sắc những
điều kiện môi trường trong các điều kiện địa lý khác nhau.
 Nhằm vào những tình huống môi trường tiềm tàng hiện nay, đồng thời
tính đến một viễn cảnh có tính chất lịch sử.
 Phát huy các giá trị và sự cần thiết của quá trình hợp tác quốc tế, quốc gia
và địa phương trong việc ngăn chặn và tìm giải pháp đối với các sự cố môi trường.
 Xem xét kỹ lưỡng các khía cạnh môi trường trong từng kế hoạch tăng
trưởng và phát triển.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
19
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
 Tạo điều kiện cho người học có một vai trò trong việc tập kế hoạch để rút
ra những kinh nghiệm học tập và tạo cơ hội cho việc quyết định cũng như biết chịu

trách nhiệm.
 Nên gắn sự nhạy cảm, nhận thức, kỹ năng giải quyết vấn đề và các giá trị
môi trường với từng độ tuổi; nhưng trong những năm đầu tiên nên nhấn mạnh đến
sự nhạy cảm môi trường trong nhóm riêng của người học.
 Giúp người học phát hiện được những dấu hiệu và nguyên nhân thực sự
của các vấn đề môi trường.
 Nhấn mạnh sự phức tạp của các vấn đề môi trường và do vậy cần hình
thành một lối suy nghĩ biết phán xét và các kỹ năng giải quyết vấn đề.
 Tận dụng các môi trường học tập đa dạng và một mảng rộng lớn các cách
tiếp cận giáo dục đối với việc dạy và học về môi trường và thông qua môi trường, trong
đó, nhấn mạnh đến các hoạt động thực tế và những kinh nghiệm trực tiếp.
2.3. Mô hình một hoạt động GDMT
Để thiết kế một hoạt động GDMT cần xác định rõ yếu tố cơ bản sau:
Mục tiêu: Hoạt động này được thiết kế nhằm giúp học sinh
1)…….
2)…….
3)…….
Thực hiện nhiệm vụ:
Hoạt động này được thực hiện theo trình tự sau:
1) Học sinh nghe giáo viên:
a) Nêu mục đích và mô tả toàn bộ hoạt động đã diễn ra
b) Giao nhiệm vụ cụ thể (cho cá nhân hoặc nhóm)
c) Hướng dẫn cách thực hiện
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
20
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
2) Học sinh thực hiện nhiệm vụ theo từng bước
3) Học sinh kiểm tra và điều chỉnh liên tục trong suốt quá trình thực hiện
nhiệm vụ.

4) Học sinh tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ
Các sản phẩm đạt được:
1) Học sinh đối chiếu kết quả công việc với nhiệm vụ được giao lúc đầu.
2) Học sinh trình bày kết quả công việc cho toàn nhóm nghe (hoặc đại diện
nhóm trình bày kết quả trước lớp)
Đánh giá
1. Học sinh tự xem xét lại quá trình thực hiện có đúng quy trình hay không.
2. Học sinh tự đánh giá chất lượng của kết quả đạt được
3. Học sinh tự phát hiện những điều mới thu hoạch được sau hoạt động (kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm…)
4. Các học sinh khác hoặc nhóm khác đánh giá
5. Giáo viên giúp học sinh tổng kết chung.
2.4 Các phương pháp dạy học GDMT. Nội dung của phương pháp và kỹ
thuật thực hiện.
2.4.1 Nghiên cứu (tìm tòi, khám phá hay giải quyết vấn đề).
Đây là phương pháp giúp em làm quen với quá trình tìm tòi, sáng tạo dưới
dạng các bài tập. Có nhiều dạng bài tập khác nhau đối với học sinh: bài tập giải
quyết nhanh ở lớp, bài tập đòi hỏi có thời gian dài (trong một tiết học, một tuần hay
một tháng ở nhà). Các bài tập ở nhà phải được tính toán sao cho các tài liệu liên
quan mà học sinh sử dụng không chứa đựng những lời giải sẵn, trực tiếp cho các bài
tập.
Phương pháp nghiên cứu được tiến hành theo các bước sau:
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
21
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
1. Đặt vấn đề
2. Tìm các giả thuyết giải quyết vấn đề
3. Thu thập các số liệu thống kê và tài liệu liên quan, xử lý số liệu, tài liệu và
xác minh các giả thuyết.

4. Kết luận
5. Vận dụng các kết luận, đưa ra cam kết hành động.
2.4.2 Làm việc nhóm.
Đây là phương pháp dạy học có nhiều khả năng tốt trong GDMT vì nó đề
cao sự hợp tác trên cơ sở hoạt động tích cực của từng cá nhân.
Trong thảo luận nhóm, cần chú ý:
Vai trò của nhóm trưởng cần phải được xác định rõ.
GV phải chuẩn bị chu đáo nội dung (hệ thống câu hỏi) cũng như tiến trình.
Nếu thấy HS thảo luận đi xa vấn đề thì cần phải uốn nắn ngay.
Cần khuyến khích các em tranh luận.
Hình dung trước những ý kiến và thái độ của HS để khi tổng kết, học sinh
nào cũng thấy mình có phần đóng góp vào những ý kiến thảo luận của nhóm,
lớp.
Phương pháp làm việc nhóm được tiến hành theo bốn bước: chuẩn bị, giao
nhiệm vụ, tiến hành thảo luận nhóm, tổng kết (đại diện các nhóm trình bày kết
quả).
2.4.3 Đóng vai:
Đây là phương pháp được đặc trưng bởi một hoạt động với các nhân vật giả
định, mà trong đó các tình thế trong thực tiễn cuộc sống được thể hiện tức thời
thành những hành động có tính kịch. Trong vở kịch này, các vai khác nhau do chính
học sinh đóng và trình diễn. Các hành động kịch được xuất phát từ chính sự hiểu
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
22
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
biết, óc tưởng tượng và trí sáng tạo của học sinh, không cần phải qua tập dượt hay
dàn dựng công phu vì đây là một quá trình thông tin với đặc điểm cơ bản là trình
diễn tức thời.
Phương pháp đóng vai được tiến hành theo các bước sau:
+ Bước 1: Tạo không khí để đóng vai. Việc đóng vai không phải bao giờ cũng

được học sinh chấp nhận, vì vậy bước này rất quan trọng. GV cần cho HS nhận
thức được rằng bất kỳ con người nào trong cuộc sống cũng có thể gặp các tình
huống cụ thể khác nhau.
+ Bước 2: Lựa chọn vai. GV có thể phân vai phù hợp với từng HS hoặc để HS
tự nguyện nhận vai trong vở kịch. Các HS còn lại sẽ đóng vai người quan sát. Người
quan sát cần phải chú ý xem diễn viên nhập vai như thế nào, tự đặt mình vào vai diễn
và hình dung về tính phù hợp và thực tế của các diễn viên và cách giải quyết vấn đề,
suy nghĩ xem có cách nào khác giải quyết vấn đề hay không.
+ Bước 3: Theo các vai diễn. Nếu thấy ý đồ của mình đã được thực hiện thì
GV có thể cho ngừng diễn. Sau đó hướng dẫn HS thảo luận về các cách giải quyết
vấn đề của vai diễn và đánh giá vở kịch.
+ Bước 4: Có thể yêu cầu các diễn viên khác trình diển vở kịch theo cách
khác, với các cách giải quyết vấn đề khác.
+ Bước 5: Hướng dẫn HS trao đổi kinh nghiệm và rút ra các kết luận cần thiết
về các vấn đề mà vở kịch nêu ra.
Phương pháp này có nhiều ưu điểm trong việc nêu lên các vấn đề của môi
trường dễ bị tổn thương (sử dụng vốn đất, khai thác tài nguyên rừng, bảo vệ đa dạng
sinh học,…). Chúng giúp HS có định hướng tích cực về hiểu biết, thái độ và hành vi
môi trường.
Nhược điểm: công phu, tốn nhiều thời gian để chuẩn bị.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
23
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
2.4.4. Quan sát, phỏng vấn:
Là phương pháp thường dùng, có mục đích thu thập các thông tin về một vấn
đề nào đó. Để tiến hành phương pháp này, việc quan sát cần phải có định hướng vào
những vấn đề cụ thể của môi trường (chặt phá cây, bụi, tiếng ồn, các bãi đổ rác
công cộng,…). Trong khi quan sát cần phải chú ý nhiều hơn đến những dấu hiệu nổi
bật bên ngoài để từ đó đi sâu tìm tòi, khám phá. Quan sát phải có ghi chép chính xác

địa điểm, thời gian, các tình trạng sự vật vào thời điểm tiến hành quan sát.
Phỏng vấn là giai đoạn tiếp theo của sự quan sát được thực hiện với những
người xung quanh như cha mẹ, hàng xóm.
Kết quả thu được từ những câu trả lời này sẽ được kết hợp cùng với những quan
sát thực địa để xác định tính xác thực vời người quan sát có cái nhìn thực tế trực diện,
cụ thể hơn.
2.4.5. Tranh biện:
Chia toàn thể số người tham gia thành hai bên với số lượng bằng nhau. Mỗi
bên cử một nhóm 3 – 5 người làm đại diện. Cuộc tranh biện sẽ diễn ra giữa hai
nhóm này. Số còn lại làm cử tọa gồm các cổ động viên cho nhóm mình. Cần một
trọng tài cân bằng.
Người điều khiển đưa ra một ý kiến (dưới dạng một mệnh đề), viết hẳn lên
bảng.
Bốc thăm để phân công một trong hai nhóm gọi là “nhóm ủng hộ” (bảo vệ ý
kiến trên), và “nhóm phản đối”, hai nhóm đưa ra ý kiến và lập luận bảo vệ cho
nhóm mình.
Vai trò trọng tài: giữ cho cuộc tranh biện xảy ra đúng luật. Vai trò cử tọa; quan
sát và bình chọn đội nào có lý lẽ vững vàng và có sức thuyết phục.
Kết thúc: Người dẫn chương trình nhận xét, đánh giá các nhóm, đánh giá sự
tham gia của cử tọa và kết luận về những bài học về môi trường.
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
24
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP GVHD: ThS Vũ Hải Yến
2.4.6. Thuyết trình:
Đây là phương pháp, trong đó HS tự thu thập tư liệu thông qua báo chí và các
phương tiện truyền khác, xây dựng thành một báo cáo và trình bày trước tập thể
(lớp hay nhóm người có chung mục đích, cùng có quan tâm đến vấn đề).
Phương pháp này dành cho HS ở các lớp lớn, thể hiện sự vận dụng tổng hợp
các kỹ thuật ở nhiều phương pháp khác nhau (khám phá, điều tra, thực địa, dự án,

quan sát – phỏng vấn). Sử dụng được phương pháp này, nghĩa là HS tự đặt mình
vào người vừa có hành động tích cực đối với môi trường, vừa thông tin, lý giải và
lôi cuốn mọi người quan tâm đến môi trường.
2.4.7. Tham quan, cắm trại, trò chơi:
Rất thuận lợi để phối hợp nhiều loại hoạt động GDMT có quan hệ liên kết với
nhau. Chỉ nên chọn tối đa hai đến ba chủ đề để thiết kế toàn bộ chương trình hoạt
động. Như vậy, có thể hình dung chương trình cho một ngày tham quan, hoặc cho
ba ngày cắm trại, hoặc cho bốn giờ trò chơi … sẽ là tập hợp các hoạt động (còn gọi
là mô-đun của chương trình).
Có nhiều trò chơi học tập có nội dung GDMT phù hợp với từng cấp học.
Các trò chơi học tập có tác dụng tốt ở trong GDMT. Tuy nhiên khi tổ chức trò
chơi cần lưu ý:
Các trò chơi phải có luật chơi, cách chơi.
Nội dung trò chơi phải là nội dung bài học, nội dung GDMT.
Không lạm dụng trò chơi, tránh để học sinh có thái độ cay cú hơn thua.
2.4.8. Lập dự án:
Đây cũng là phương pháp dành cho các học sinh ở lớp lớn.
Lập dự án là phương pháp mà trong đó cá nhân hay nhóm học sinh thử thiết
lập một dự án có nội dung môi trường và thực hiện nó. Phương pháp này tạo cho
học sinh một thói quen đặt mình vào vị trí của những người luôn quan tâm và có
SVTH: Lê Kim Anh
MSSV: 107108002
25

×