Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phản ứng nôn do hóa trị liệu chống ung thư pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.53 KB, 5 trang )

Phản ứng nôn do hóa trị liệu
chống ung thư
Các thuốc dự phòng và điều
trị
Buồn nôn và nôn là tác dụng phụ thường gặp của hoá liệu
pháp chống ung thư đối với nhiều bệnh nhân, đó là nguyên
nhân chính dẫn đến bỏ thuốc. Khi đã trải qua, nôn có thể
xảy ra ngay khi bệnh nhân nhìn thấy nhân viên y tế, nhìn
thấy kim tiêm và đó là vấn đề nghiêm trọng căn bản thực
hiện các chăm sóc sau này.
Các thuốc gây nôn
Các thuốc chống ung thư hay chất độc với tế bào, kích thích gây
nôn qua 2 tác dụng: tác dụng vào vùng tiếp nhận kích thích hoá
học và tác dụng ngoại biên trên dạ dày - ruột. Vỏ não có thể có
trách nhiệm trong việc nôn trước (khi mới nhìn thấy kim
tiêm…). Cơ chế liên quan đến các thụ thể 5-HT3 là quan trọng
trong bệnh sinh nôn cấp tính do cisplatin, còn nôn muộn hơn có
thể có những cơ chế khác .
Tiềm năng gây nôn của các thuốc chống ung thư được đánh giá
theo mức độ nghiêm trọng và tỷ lệ gây nôn. Nôn có thể rất
nghiêm trọng với cisplatin, dacarbazin, dactinomycin, mustin,
cyclophosphamid liều cao, streptozocin và nôn xảy ra ở đa số
bệnh nhân. Nôn mức độ vừa thể hiện ở các thuốc doxorubicin và
cyclophosphamid liều thấp hơn, methotrexat liều cao. Còn các
thuốc như alcaloid của vinca fluorouracil, metrotrexat liều thấp,
chlorambucil, bleomycin, etoposid hiếm khi gây nôn ở mức độ
đáng kể. Khả năng gây nôn phụ thuộc nhiều vào liều lượng,
đường dùng thuốc, thời gian dùng thuốc. Kết hợp nhiều thuốc
làm tăng tỷ lệ nôn so với từng chất dùng riêng.
Thời gian bắt đầu nôn và độ dài triệu chứng nôn khác nhau giữa
các thuốc. Với cisplatin, nôn xuất hiện sau 4-8 giờ sau khi dùng


thuốc, kéo dài tới 48 giờ hay lâu hơn. Một cảm giác buồn nôn
dai dẳng, thỉnh thoảng lại nôn, có trường hợp kéo dài trong
nhiều ngày và phải dùng thuốc chống nôn kéo dài. Khi dùng
thuốc mustin, nôn xuất hiện sau nửa giờ đến 2 giờ, còn với
cyclophosphamid thì nôn chỉ xuất hiện sau 9 - 18 giờ và cả hai
trường hợp sau nôn không kéo dài như trường hợp dùng
cisplatin. Nôn cấp tính (xuất hiện trong vòng 24 giờ sau khi
dùng thuốc) thường dễ kiểm soát còn nôn muộn (xuất hiện sau
24 giờ) khó kiểm soát hơn.
Dự phòng và điều trị

Khi dùng thuốc chống ung thư
thường gây nôn.
Điều quan trọng là phải dùng thuốc dự phòng chống nôn có hiệu
quả lần đầu dùng hoá liệu pháp, để tránh bị nôn. Với các thuốc
chống nôn đã có hiện nay, có thể kiểm soát được nôn cấp tính.
Nôn muộn khó chữa hơn. Các thuốc dùng chống nôn gồm có:
- Các thuốc đối kháng với dopamin: metoclopramid,
domperidon, droperidol và một số phenothiazin.
- Các corticosteroid như dexamethason.
- Các chất đối kháng 5-HT3 như ondansetron.
- Các cannabinoid như nabilon.
- Các kháng histamin như diphenylhydramin.
Việc chọn thuốc tùy thuộc vào tính chất của hoá liệu pháp và
một số yếu tố khác như: tuổi bệnh nhân, đường dùng thuốc và
liều lượng tùy thuộc vào mức độ gây nôn của hoá liệu pháp.
Metoclopramid liều cao hay dùng nhất và có hiệu quả, các thuốc
khác thường được đánh giá lấy thuốc này làm chuẩn. Trị nôn do
cisplatin cần có một nồng độ là 850ng/ml huyết tương nhưng
những tác dụng phụ ngoại tháp hay xảy ra với liều cao và ở bệnh

nhân dưới 30 tuổi. Thông thường metoclopramid được dùng
theo đường tiêm truyền liên tục khi hoá liệu pháp gây nôn mạnh
và còn tiếp tục dùng theo đường uống trong một số ngày. Thuốc
không đảm bảo được hoàn toàn, nhưng dexamethason làm tăng
thêm hiệu quả chống nôn. Metoclopramid còn được kết hợp với
lorazepam, dihenylhydramin. Dihenylhydramin làm giảm nguy
cơ có tác dụng phụ ngoại tháp.
Dexamethason có hiệu quả với mức độ nôn vừa, nhưng thường
được kết hợp với metoclopramid hay ondansetron, khi dùng hoá
liệu pháp gây nôn mạnh. Có thể dùng tiêm tĩnh mạch hay theo
đường uống và có thể là thuốc chống nôn muộn tốt nhất hiện
nay. Cơ chế tác dụng do ức chế sự tổng hợp prostaglandin ở
trung ương. Kết hợp metoclopramid và dexamethason có hiệu
quả trong chống nôn muộn do cisplatin gây ra, tốt hơn là dùng
riêng dexamethason, nhưng vẫn có một số bệnh nhân vẫn bị nôn
muộn.
Ondansetron hiệu quả hơn metoclopramid trong việc bảo vệ
chống buồn nôn và nôn cấp tính do cisplatin và không gây tác
dụng ngoại tháp. Thuốc được dùng theo đường uống hay tiêm
tĩnh mạch. Giống như metoclopramid, ondansetron chống nôn
cao của hoá liệu pháp, sẽ được tăng lên khi kết hợp với
dexamethason. Kết hợp ondansetron + dexamethason hiệu quả
hơn kết hợp metoclopramid + dexamethason hay metoclopramid
+ dexamethason + diphenylhydramin và tính dung nạp tốt hơn.
Nhưng nôn muộn do cisplatin thì ondansetron không hiệu quả
bằng dexamethason. Với những liệu pháp hoá học gây nôn ở
mức độ vừa phải, thì tác dụng của ondansetron so với các thuốc
chống nôn khác không rõ ràng. Ondansetron hay dexamethason
tiêm tĩnh mạch đều có hiệu quả trong việc kiểm soát nôn cấp
tính, nhưng dexamethason còn có thể sử dụng trong kiểm soát

nôn muộn. Kết hợp thuốc ondansetron với các chất đối kháng
dopamin, như metopimazin (cả hai thuốc đều dùng đường uống)
có tác dụng hơn ondansetron dùng riêng trong kiểm soát nôn cấp
tính và nôn muộn ở bệnh nhân ung thư vú dùng hoá liệu pháp
gây nôn vừa phải.
Các thuốc chống nôn khác
Domperidon dùng đường uống, đặt hậu môn cho bệnh nhân
dùng hoá liệu pháp gây nôn vừa phải. Thuốc ít gây tác dụng
ngoại tháp hơn so với metoclopramid. Loaepam là một
benzodiazepam tác dụng ngắn có tác dụng làm dịu và gây mất trí
nhớ, còn được dùng dự phòng chứng buồn nôn và nôn trước.
Nabilon hiệu quả hơn prochlorperazin, nhưng hay có tác dụng
phụ hơn. Phenothiazin đến nay ít dùng hơn trước nhưng vẫn có
vai trò trong việc chăm sóc các bệnh nhân ngoại trú dùng hoá
liệu pháp gây nôn mức nhẹ và vừa. Prochlorperazin là loại
phenothiazin được dùng nhiều hơn cả. Có thể dùng đường uống,
trực tràng hay tiêm. Tác dụng làm dịu yếu hơn chlorpromazin
nhưng hay gây loạn trương lực nặng, nhất là với trẻ em.

×