Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Thuốc trị tăng huyết áp gây ho: Vì sao và cách xử lý? ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.75 KB, 5 trang )

Thuốc trị tăng huyết
áp gây ho: Vì sao và
cách xử lý?
Người bị bệnh tăng huyết áp (THA) cần đi khám bệnh
để được bác sĩ chẩn đoán và giúp lựa chọn thuốc thích
hợp (hiện nay có đến 7 nhóm thuốc được dùng). Đặc
biệt, nếu người bệnh được bác sĩ chỉ định cho dùng
một trong 3 nhóm thuốc sau đây có thể bị tác dụng
phụ (TDP) gọi là ho khan.

Ảnh minh họa
Thuốc thứ nhất là thuộc nhóm ức chế men chuyển, gồm
có: captopril, enalapril, benazepril, lisinopril… Cơ chế
của thuốc là ức chế một enzym có tên là men chuyển
angiotensin (angiotensin converting enzyme, viết tắt
ACE). Chính ACE xúc tác mà chất sinh học có trong cơ
thể là angiotensin I biến thành angiotesin II và chính chất
sau này gây co thắt mạch làm tăng huyết áp. Nếu ACE bị
thuốc ức chế, tức làm cho không hoạt động được, sẽ
không sinh ra angiotensin II, sẽ có hiện tượng giãn mạch
và làm hạ huyết áp. Thuốc ức chế men chuyển gây ho
khan vì ACE không chỉ xúc tác biến angiotensin I thành
angiotensin II mà còn có vai trò trong sự phân hủy chất
sinh học khác có tên bradykinin, nếu thuốc ức chế ACE,
bradykinin không được phân hủy ở mức cần thiết sẽ thừa
gây kích thích ho ở đường hô hấp. Thuốc ức chế men
chuyển có thể gây ho khan và kéo dài ở 5 - 35% số bệnh
nhân dùng thuốc này. Đây là thuốc trị THA gây ho đáng
kể, không tùy thuộc liều lượng (tức uống liều thấp vẫn bị)
và thường làm cho người bệnh bỏ thuốc.
Thuốc thứ hai có thể gây ho khan thuộc nhóm thuốc chẹn


bêta, gồm có: propranolol, pindolol, nadolol, timolol,
metoprolol, atenolol… Cơ chế của thuốc là ức chế thụ thể
bêta giao cảm ở tim mạch, do đó làm chậm nhịp tim và hạ
huyết áp. Đa số các thuốc chẹn bêta không chỉ ức chế thu
thể bêta-1 chọn lọc tác động trên tim mạch mà còn ức chế
thụ thể bêta-2 gây co thắt phế quản. Cho nên, nhiều thuốc
chẹn bêta ngoài hạ huyết áp có thể gây phản xạ ho (do co
thắt phế quản, lưu ý người bị hen suyễn cũng vì thế không
được dùng thuốc chẹn bêta). Tỷ lệ bị ho do dùng thuốc
chẹn bêta ít hơn so với thuốc ức chế men chuyển.
Nhóm thuốc thứ ba có thể gây ho khan là thuốc chẹn kênh
calci (còn gọi thuốc đối kháng calci), gồm có: nifedipin,
nicardipin, amlodipin, felidipin, isradipin, verapamil,
diltiazem… Cơ chế của thuốc là chặn dòng ion calci
không cho đi vào tế bào cơ trơn của các mạch máu gây
giãn mạch và từ đó làm hạ huyết áp. Cơ chế gây ho của
nhóm thuốc này chưa được biết rõ ràng. Tỷ lệ bị ho do
dùng thuốc chẹn calci rất thấp, khoảng 1 - 6%. Đặc biệt,
đây là thuốc thường phối hợp với thuốc ức chế men
chuyển trị THA nên phản xạ ho gây ra bởi thuốc phối hợp
chứ không phải do thuốc chẹn kênh calci. Tuy nhiên, tác
dụng phụ gây ho của thuốc chẹn calci cũng cần ghi nhận
để thông tin cho bệnh nhân hầu tránh việc bỏ thuốc.
Đối với người đang dùng thuốc trị THA khi bị ho nên
lưu ý những điều sau:
- Ho có thể do thuốc nhưng cũng có thể do nguyên nhân
khác, như bị cảm lạnh. Trường hợp ho nhiều có thể dùng
thuốc trị ho thông thường trong vài ngày, nếu sau vài
ngày ho không đỡ nên đến bác sĩ khám chữa bệnh THA
trước đây kể rõ triệu chứng ho. Không nên tự ý bỏ thuốc

trị THA đang dùng (người bị THA rất cần dùng thuốc đều
đặn để kiểm soát, nếu ngưng dùng thuốc huyết áp tăng vọt
rất nguy hiểm).
- Nếu bác sĩ xác định ho do thuốc sẽ cho thay thuốc ức
chế men chuyển đang dùng gây ho bằng thuốc mới gọi là
thuốc đối kháng thụ thể angiotesin II (như losartan,
valsartan, irbesaetan, candesartan…). Hoặc người bệnh bị
ho bởi thuốc chẹn bêta, bác sĩ sẽ thay thế thuốc dùng
thuốc chọn lọc chẹn bêta-1 (như atenolol, metoprolol,
bisoprolol… ) và cho dùng liều thấp nhất có hiệu quả. Đối
với thuốc chẹn kênh calci gây ho, có khi bác sĩ thay thế
bằng thuốc nhóm khác thích hợp. Ngoài việc thay thế
thuốc, bác sĩ còn thực hiện các biện pháp làm giảm các
yếu tố tiềm tàng kích thích phản xạ ho ở đường hô hấp

×