Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT GIỐNG LÚA VIỆT LAI 50 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.62 KB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
TRẦN ĐỨC TOẢN
NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT GIỐNG
TỔ HỢP LÚA LAI HAI DÒNG MỚI VIỆT LAI 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Di truyền và chọn giống cây trồng
Mã số : 60.62.05
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Hoan
Hà Nội - 2009
i
LỜI CAM ĐOAN
*****
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu kết
quả nghiên cứu được nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ một công trình khoa học nào khác. Các thông tin trích
dẫn sử dụng trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 18 tháng 9 năm 2009
Tác giả
Trần Đức Toản



LỜI CẢM ƠN
*****
Để hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Văn Hoan đã
tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành công trình nghiên
cứu này.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô Viện Sau


đại học, khoa Nông học, bộ môn Di truyền giống cùng toàn thể cán bộ, công
nhân viên Viện nghiên cứu lúa - Trường đại học Nông nghiệp Hà Nội đã giúp
đỡ và tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn.
Luận văn này được hoàn thành còn có sự giúp đỡ tận tình của bạn bè,
cùng với sự động viên khích lệ của gia đình trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 9 năm 2009
Tác giả
Trần Đức Toản
3
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT TÊN BẢNG TRANG
MỤC LỤC
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ƯTL Ưu thế lai
A Dòng bất dục đực tế bào chất
B Dòng duy trì tính trạng bất dục đực tế bào chất
R
Dòng phục hồi tính hữu dục đực ký hiệu theo tiếng Anh
(Restorer)
EGMS
Bất dục đực mẫn cảm với môi trường ký hiệu theo tiếng
Anh (Enviroment – sensitive Genic Male Sterility)
P(T)GMS
Bất dục đực mẫn cảm với quang chu kỳ chiếu sáng và nhiệt độ
ký hiệu tiếng Anh (Photoperiodic and Thermo – sensitive Genic
Male Sterility)
TGMS

Bất dục đực mẫn cảm với nhiệt độ ký hiệu theo tiếng anh
(Themo-sensitive Genic Male Sterility)
T(P)GMS
Bất dục đực mẫn cảm với nhiệt độ và chu kỳ chiếu sáng ký hiệu
theo tiếng Anh ( Thermo and photoperiodic – sensitve Genic
Male Sterility)
GA3 Giberennic axit
WA bất dục đực dạng hoang dại – Wild Abortion
NSTT Năng suất thực thu
1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
5
Cây lúa (Oryza sativa L.) là cây trồng có lịch sử trồng trọt lâu đời nhất,
được gieo trồng ở tất cả các châu lục nhưng tập trung chủ yếu ở Châu Á -
chiếm gần 90% diện tích và hơn 91% sản lượng.
Trong lúa gạo có mặt đầy đủ các chất dinh dưỡng như tinh bột, protein,
lipit, vitamin…Vì vậy, khoảng 40% dân số thế giới coi lúa gạo là nguồn
lương thực chính. Tổ chức dinh dưỡng Quốc tế đã gọi “Hạt gạo là hạt của sự
sống”. Tại kỳ họp thứ 57 hàng niên của Hội đồng Liên hiệp Quốc đã chọn
năm 2004 là năm lúa gạo Quốc tế với khẩu hiệu “cây Lúa là cuộc sống” [48].
Việt Nam là một nước nông nghiệp với cây lúa là cây trồng chính, là
cây cung cấp nguồn lương thực và xuất khẩu hàng năm. Thế nhưng, quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đô thị hoá diễn ra rất mạnh mẽ ở tất cả các
tỉnh trên toàn quốc, điều này đã dẫn đến diện tích trồng trọt giảm đáng kể
trong đó chủ yếu là diện tích trồng lúa. Vì vậy, vấn đề an ninh lương thực
ngày càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Để có thể bù đắp lại sản lượng lương thực hàng năm, nước ta đã chủ
trương đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Lúa lai là một trong những tiến bộ kỹ thuật đã được nghiên cứu và ứng dụng
rất mạnh. Lúa lai được gieo trồng ở Việt Nam từ năm 1991. Hiện nay, diện

tích lúa lai là hơn 600.000 ha với năng suất trung bình từ 6,0 – 6,3 tấn/ha, cao
hơn lúa thuần từ 15 – 20%. Việc sử dụng lúa lai đã góp phần nâng cao năng
suất, sản lượng lúa và tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nông dân thông
qua một nghề mới “nghề sản xuất hạt giống”. Lúa lai ngày nay đã và đang
được nhiều nước quan tâm coi là chìa khoá của chương trình an ninh lương
thực quốc gia [5].
Mặc dù, hiệu quả kinh tế của cây lúa lai đã rõ ràng, nhưng hàng năm
nước ta phải nhập trên 80% lúa giống F1 từ Trung Quốc về sản xuất tại Việt
Nam. Điều này cho thấy sự mất tự chủ của chúng ta trong khâu giống và đã
khiến cho nhiều địa phương không thể chủ động được kế hoạch sản xuất cũng
6
như ổn định về chất lượng hạt giống, tình trạng một số giống lúa lai không hạt
luôn là bài học đắt giá… Vì vậy, chủ động được giống lúa lai vẫn đang là bài
toán đặt ra với ngành nông nghiệp.
Trước thực tế trên, nhiều giống lúa lai và tổ hợp lúa lai có khả năng
chống chịu tốt và có tiềm năng năng suất cao đã được các nhà khoa học Việt
Nam chọn tạo thành công và đưa vào sản xuất. Giống Việt lai 20 đã được
công nhận là giống lúa lai quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Từ đó đến nay, có
nhiều giống lúa lai khác được ra đời như TH3-3, TH3-4, Việt lai 24…những
giống này cũng đã được công nhận là giống Quốc gia và đang được sản xuất
trên diện tích hàng chục nghìn hécta [47].
Tổ hợp Việt Lai 50 là tổ hợp lúa lai hai dòng mới được Viện nghiên
cứu lúa chọn tạo, đây là tổ hợp lúa lai có tiềm năng năng suất rất cao, có thời
gian sinh trưởng ngắn, có khả năng thích ứng và chống chịu tốt
Nhằm góp phần hoàn thiện, phát triển công nghệ sản xuất hạt lai F1 tổ
hợp Việt Lai 50, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu phát triển công
nghệ sản xuất giống tổ hợp lúa lai hai dòng mới Việt Lai 50”.
1.2. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu các thông số kỹ thuật để xây dựng công nghệ duy trì và sản
xuất hạt giống của tổ hợp Việt Lai 50 ở vùng Đồng bằng Sông Hồng.

1.3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá đặc điểm nông sinh học của dòng bố R50, dòng mẹ 135S.
- Bố trí, theo dõi và đánh giá các thí nghiệm trong sản xuất hạt lai F1:
Tỷ lệ hàng bố mẹ; thời điểm và liều lượng phun GA3; phương pháp và số
dảnh cấy dòng bố R50.
- Bố trí, theo dõi đánh giá thí nghiệm thời vụ nhân dòng mẹ 135S, thí
nghiệm ảnh hưởng của phân bón và mật độ cấy nhân dòng mẹ 135S.
- Tiến hành lai cặp dòng bố R50 với dòng mẹ 135S và đánh giá các tổ hợp
lai cặp.
7
1.4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả của luận văn sẽ góp phần bổ sung lý thuyết trong kỹ thuật sản
xuất hạt lai F1 như tỷ lệ hàng bố mẹ; tác động của GA3 trong sản xuất hạt lai;
phương pháp cấy và số dảnh cấy dòng bố trong sản xuất hạt lai; thời vụ, mật
độ và phân bón trong nhân dòng mẹ TGMS
Đây là công trình nghiên cứu có tính ứng dụng cao. Nghiên cứu hoàn
thiện và phát triển công nghệ sản xuất giống tổ hợp Việt Lai 50 tại vùng Đồng
bằng Sông Hồng, góp phần cung cấp đầy đủ, kịp thời và đảm bảo chất lượng
hạt lai F1 Việt Lai 50 phục vụ nhu cầu sản xuất ngày càng cao…
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Ưu thế lai và biểu hiện ưu thế lai ở lúa
2.1.1. Khái niệm ưu thế lai
8
Ưu thế lai (viết tắt là ƯTL) là một thuật ngữ để chỉ tính hơn hẳn của
con lai F1 so với bố mẹ chúng về các tính trạng hình thái, khả năng sinh
trưởng, sức sống, sức sinh sản, chất lượng hạt và các đặc tính khác. ƯTL
được biểu hiện cao nhất ở thế hệ F1, giảm đi nhanh chóng ở thế hệ F2 và các
thế hệ sau [14].
Ưu thế lai là hiện tượng sinh học tổng hợp thể hiện các ưu việt theo
nhiều tính trạng ở con lai F1 khi lai các dạng bố mẹ được phân biệt theo nguồn

gốc, độ xa cách di truyền, sinh thái…tạo giống ưu thế lai là con đường nhanh
và hiệu quả nhằm phối hợp được nhiều đặc điểm giá trị của các giống bố mẹ
vào con lai F1, tạo ra giống cây trồng có năng suất cao, chất lượng tốt [17].
Các giống lúa ứng dụng hiệu ứng ƯTL đời F1 được gọi là lúa ưu thế lai
(gọi tắt là lúa lai).
Vậy sự biểu hiện ưu thế lai ở lúa như thế nào?
2.1.2. Biểu hiện ưu thế lai ở lúa
ƯTL thể hiện ngay từ khi hạt mới nẩy mầm cho đến khi hoàn thành quá
trình sinh trưởng phát triển của cây.
2.1.2.1. Hệ rễ
- Ở con lai số rễ ra sớm, ra nhiều và nhanh hơn bố mẹ chúng [23].
- Rễ lúa lai phát triển sớm và mạnh [4].
- Khả năng hấp thu, vận chuyển dinh dưỡng gấp 2-3 lần lúa thường
[22].
- Số lượng và chất lượng rễ của lúa lai cao hơn hẳn so với các giống lúa
truyền thống, lúa lai có khả năng phát triển rễ mạnh, bộ rễ dày, vùng rễ rất
rộng và ăn sâu [20].
2.1.2.2. Sự đẻ nhánh
- Con lai F1 đẻ nhánh sớm, sức đẻ nhánh mạnh [23].
- Lúa lai mọc nhanh, đẻ sớm và đẻ khoẻ, tỷ lệ nhánh thành bông của lúa
lai cao hơn hẳn lúa thường [4].
9
2.1.2.3. Thời gian sinh trưởng
Đa số con lai F1 có thời gian sinh trưởng khá dài và thường dài hơn bố
mẹ sinh trưởng dài nhất (Deng, 1980; Lin và Yuan, 1980). Xu và Wang
(1980) cho rằng, thời gian sinh trưởng của con lai phụ thuộc vào thời gian
sinh trưởng của các dòng phục hồi (dòng R). Ponnuthurai (1984) xác định,
thời gian sinh trưởng của con lai gần giống thời gian sinh trưởng của dòng bố
hoặc mẹ chín muộn. Kết quả nghiên cứu của Trường Đại học Nông nghiệp I
cho thấy, thời gian sinh trưởng của F1 dài hơn dòng mẹ và dòng phục hồi ở cả

hai vụ: vụ Xuân và vụ Mùa [23].
2.1.2.4. Chiều cao cây
Chiều cao cây của lúa lai cao hay thấp hoàn toàn phụ thuộc và đặc điểm
của bố mẹ. Tuỳ từng tổ hợp, chiều cao của F1 có lúc biểu hiện ƯTL dương
(Pillai, 1961; Singh, 1978), có lúc nằm trung gian giữa bố mẹ, có lúc xuất
hiện ƯTL âm [23].
2.1.2.5. Trên cơ quan sinh sản
- Con lai có năng suất cao hơn bố mẹ từ 20-70%, lúa lai ưu việt hơn
hẳn lúa lùn cải tiến tốt nhất từ 20-30% [23].
- Lúa lai có số bông/khóm, số hạt/bông nhiều và tỷ lệ lép thấp [4].
- Lúa lai có khoảng 14 gié cấp 1, lúa thường chỉ có 6-9 gié cấp 1 [22].
- Bông lớn hơn và nặng hơn [20].
2.1.2.6. ƯTL biểu hiện ở các đặc tính sinh lý, sinh hoá
- Theo nghiên cứu của Donuld và cộng sự (1971), lúa lai có diện tích
quang hợp rất lớn, hàm lượng diệp lục trên một đơn vị diện tích lá cao hơn lúa
thường rất nhiều dẫn đến hiệu suất quang hợp của lúa lai cao hơn lúa thường,
song cường độ hô hấp lại thấp hơn lúa thường.
- Hiệu suất tích luỹ chất khô của lúa lai có ưu thế hơn hẳn lúa thường
nhờ vậy mà tổng lượng chất khô trong một cây tăng, trong đó lượng vật chất
10
tích luỹ vào bông hạt tăng mạnh còn lượng tích luỹ ở các cơ quan sinh dưỡng
như thân lá giảm mạnh [16].
- Lin (1984) xác định, khả năng tổng hợp axit amin ở lúa lai cao hơn so
với lúa thường.
Xuất phát từ những ưu điểm trên, các nhà khoa học nông nghiệp đã tập
trung nghiên cứu, khai thác ứng dụng hiệu ứng ưu thế lai ở lúa và đã xây
dựng thành công công nghệ sản xuất hạt giống lúa lai.
2.2. Phương pháp chọn giống lúa lai
Lúa là cây tự thụ phấn điển hình, hoa lúa rất bé, khả năng nhận phấn bên
ngoài rất thấp nên ứng dụng ƯTL ở lúa chủ yếu gặp khó khăn ở khâu sản xuất

hạt lai. Chính vì vậy, trong một thời gian dài, ưu thế lai ở cây lúa vẫn chưa
được sử dụng rộng rãi như ở các cây trồng khác [7]. Sau đó nhờ tìm ra những
hiện tượng bất dục đực ở lúa, vấn đề khai thác ưu thế lai ở lúa đã đạt được
nhiều thành tựu lớn, tạo ra một cuộc cách mạng đột phá năng suất, góp phần
đảm bảo an ninh lương thực thế giới và tăng thu nhập cho người nông dân [35].
Và từ đó đã tạo cơ sở cho các phương pháp chọn giống lúa lai ra đời.
Hiện nay, có hai hệ thống sản xuất hạt giống lúa lai là: hệ thống lúa lai
ba dòng và hệ thống lúa lai hai dòng.
2.2.1. Hệ thống lúa lai “ba dòng”
ƯTL hệ “ba dòng” được phát hiện và sử dụng sớm nhất trong lịch sử
nghiên cứu và phát triển lúa lai, là phương pháp mở đầu giúp cho các nhà
Chọn giống khai thác tiềm năng ƯTL ở lúa và sử dụng rộng rãi lúa lai trong
sản xuất, góp phần nâng cao năng suất, tổng sản lượng lúa, giải quyết thiếu
đói ở những vùng trồng lúa đất chật người đông.
Để khai thác ƯTL hệ “ba dòng”, người ta phải sử dụng dòng bất dục
đực tế bào chất (dòng CMS hoặc dòng A) làm dòng mẹ, để duy trì và sản xuất
dòng A bất dục có một dòng duy trì bất dục (dòng B) tương ứng, sử dụng một
dòng phục hồi (dòng R) phục hồi phấn cho dòng A và cho con lai có ƯTL
11
cao. Vậy, để có hạt lai F1 ở hệ thống “ba dòng” cùng một lúc phải duy trì 3
loại dòng A, B, R và phải tiến hành thụ phấn chéo 2 lần (sản xuất hạt dòng
CMS và sản xuất hạt lai F1). Sơ đồ hệ thống lúa lai “ba dòng” như hình minh
hoạ:
Dòng A bất dục
(Srr)
Dòng B hữu
dục
(Nrr)
Dòng R hữu dục
(NRR)

♀ X ♂
Dòng A bất dục

X
Dòng R

F1 hữu dục
Sơ đồ hệ thống lúa lai “ba dòng”
Bất dục đực tế bào chất là kết quả tương tác giữa yếu tố gây bất dục
đực ở tế bào chất (S) với gen phục hồi lặn trong nhân (r), tế bào chất bình
thường (N) và R là gen phục hồi trong nhân. Alen R trội lấn át alen lặn r và S
của tế bào chất. Vì vậy, tuỳ thuộc vào sự có mặt của yếu tố S, N, gen R hoặc r
mà có thể xảy ra bất dục hay hữu dục [8].
Những dòng bất dục đực có kiểu gen là S(rr). Kiểu gen dòng duy trì bất
dục và dòng phục hồi lần lượt là N(rr) và N(RR) hay S(RR). Con lai F1 giữa
dòng bất dục đực tế bào chất và dòng phục hồi sẽ có kiểu gen là: S(Rr), trong
đó alen trội R lấn át alen lặn r và tương tác với yếu tố gây bất dục đực ở tế
bào chất (S) mà F1 sẽ hữu dục [38][33].
- Một số ưu thế của lúa lai “ba dòng”
+ Lúa lai “ba dòng” do hệ bất dục di truyền tế bào chất quyết
định nên tính bất dục của dòng mẹ ít chịu sự chi phối của môi trường đặc biệt
12
là nhiệt độ và ánh sáng. Đặc điểm này giúp cho độ thuần của hạt lai “ba
dòng” rất cao, khai thác triệt để hiệu ứng ưu thế lai của tổ hợp.
+ Lúa lai “ba dòng” ngày nay không chỉ có năng suất cao mà còn
có phẩm chất tốt, chống chịu sâu bệnh khá và đặc biệt có thời gian sinh
trưởng ngắn.
+ Lúa lai “ba dòng” có tính thích ứng rộng đạt năng suất cao
không chỉ ở vùng thuận lợi mà cả ở vùng khó khăn (hạn, lạnh, nghèo dinh
dưỡng) do hiệu ứng ưu thế lai thích ứng.

- Một số hạn chế của hệ thống lúa lai “ba dòng”:
+ Số lượng các dòng CMS tìm thấy khá nhiều song số dòng sử
dụng được rất ít, có tới trên 95% số dòng CMS đang dùng thuộc kiểu “WA”,
vì thế có nguy cơ cao dẫn đến đồng tế bào chất.
+ Các tổ hợp lúa lai “ba dòng” mới chọn tạo trong thời gian gần
đây tuy có các ưu điểm như chất lượng gạo tốt, chống chịu sâu bệnh và điều
kiện ngoại cảnh tốt hơn, thích ứng rộng hơn song năng suất tăng không đáng
kể so với các tổ hợp đã chọn tạo ra trước đây.
+ Quy trình duy trì dòng CMS rất khắt khe, cồng kềnh và tốn kém.
Để khắc phục các hạn chế như đã nêu, các nhà khoa học chọn tạo giống
lúa đã sáng tạo được phương pháp chọn tạo giống lúa lai mới, đó là lúa lai hệ
“hai dòng”.
2.2.2. Hệ thống lúa lai “ hai dòng”
Lúa lai “hai dòng” là bước tiến mới của loài người trong công cuộc ứng
dụng ưu thế lai ở cây lúa. Hai công cụ di truyền cơ bản để phát triển lúa lai
“hai dòng” là dòng bất dục đực chức năng di truyền nhân mẫn cảm với nhiệt
độ -TGMS (Thermosensitive genic male sterile) và bất dục đực chức năng di
truyền nhân mẫn cảm với chu kỳ chiếu sáng - PGMS (Photoperiod sensitive
genic male sterile). Tính chuyển hoá từ bất dục sang hữu dục và ngược lại ở
13
dòng TGMS và PGMS gây ra do điều kiện môi trường - EGMS (Environment
sensitive genic male Sterile) [4][5].
Năm 1973, lần đầu tiên dòng PGMS - Nong Ken 58S đã được các tác
giả Trung Quốc phát hiện.
Năm 1988, dòng lúa đột biến tự nhiên TGMS - An NongS cũng được
các tác giả Trung Quốc phát hiện. Từ 2 nguồn vật liệu di truyền ban đầu nói
trên, các nhà khoa học chọn giống đã tiến hành lai tạo để nhận được các dòng
P(T)GMS mới có cơ sở di truyền khác nhau. Trên cơ sở đó, phương pháp sản
xuất lúa lai “hai dòng” đã ra đời. Đây được xem là một đột phá điểm trong
công nghệ sản xuất lúa lai. Lúa lai “hai dòng” cho năng suất cao, chất lượng

tốt, khả năng chống chịu cao [21]. Lúa lai “hai dòng” cho năng suất cao hơn
20 - 30% so với lúa thường và 5 - 10% so với lúa lai “ba dòng” [28], [46]. Sơ
đồ sản xuất hạt lai F1 lúa lai hệ “hai dòng” như hình minh hoạ:
Dòng EGMS Dòng cho phấn
Tự thụ
Tự thụ
Dòng EGMS X Dòng cho phấn
F1
Sơ đồ hệ thống lúa lai hai dòng
* Các ưu thế của lúa lai “hai dòng”
- Quá trình sản xuất hạt lai được đơn giản hoá.
- Do tính bất dục được kiểm soát bởi các gen lặn nên hầu hết các giống
lúa thường đều phục hồi được cho các dòng PGMS và TGMS. Như vậy, việc
chọn được dòng phục hồi sẽ dễ dàng hơn, phổ cập hơn, có thể mở rộng ra
ngoài phạm vi của một loài phụ và khả năng tạo ra các tổ hợp năng suất cao
hơn được tăng lên đáng kể.
14
- Kiểu gen TGMS và PGMS dễ dàng được chuyển sang giống khác để
tạo ra các dòng bất dục mới với nguồn di truyền khác nhau, tránh được nguy
cơ đồng tế bào chất và thu hẹp phổ di truyền.
- Tính bất dục của các dòng TGMS và PGMS không liên quan đến tế
bào chất vì thế các ảnh hưởng của kiểu bất dục dạng dại “WA” đã được khắc
phục, khả năng kết hợp giữa năng suất cao và chất lượng tốt được mở rộng và
hiện thực hơn [15], [5].
2.3. Một số nghiên cứu về kỹ thuật sản xuất hạt giống lúa lai F1
2.3.1. Những lựa chọn chiến lược trong sản xuất hạt lai F1
Để thực hiện việc sản xuất hạt lai F1 thành công trong một quốc gia
hay trong một địa phương, thì việc xác định phương hướng sản xuất là rất cần
thiết. Từ những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học IRRI, Trung Quốc,
Ấn Độ, Việt Nam… người ta xác định các khâu trong chiến lược sản xuất hạt

lai F1 đạt năng suất cao như sau [15]:
- Chọn các dòng bố và mẹ có thời gian nở hoa trùng khớp.
- Chọn dòng mẹ có vòi nhuỵ dài và tỷ lệ vươn ra ngoài vỏ trấu cao, thời
gian nở hoa kéo dài và độ mở vỏ trấu lớn.
- Chọn các dòng cho phấn có số lượng hạt phấn trong một bao phấn
nhiều để đạt yêu cầu trên thì mật độ hoa lúa/m
2
là 2.000 – 3.000.
- Điều khiển thời gian gieo sao cho dòng mẹ và dòng bố trỗ, nở hoa
trùng khớp.
- Trồng hàng bố và hàng mẹ có tỷ lệ hợp lý sao cho tỷ lệ hoa mẹ và hoa
bố trên đơn vị diện tích là 3,5 : 1.
- Dùng các dòng mẹ và dòng cho phấn có lá đòng ngắn hoặc nằm
ngang, nếu không có thể dùng biện pháp cắt bớt lá đòng để tăng khả năng thụ
phấn chéo.
- Sử dụng GA3 với liều lượng hợp lý để kéo dài thời gian nở hoa và
kéo dài cổ bông để trỗ thoát.
15
- Trồng hàng bố, mẹ vuông góc với hướng gió để tăng khả năng thụ
phấn chéo. Tiến hành thụ phấn bổ khuyết bằng kéo dây hoặc rung bằng gậy
khi tốc độ gió nhỏ hơn 2,5 m/giây.
- Chọn thời điểm nở hoa tốt nhất cho ruộng sản xuất hạt lai.
Một số nghiên cứu về kỹ thuật sản xuất hạt lai F1
2.3.2. Nghiên cứu cơ chế giao phấn ở lúa
Sự thành công trong sản xuất hạt giống lúa lai phụ thuộc rất nhiều vào
số lượng hạt phấn rơi vào núm vòi nhuỵ của hoa dòng mẹ và sức sống của vòi
nhuỵ cái. Số lượng hạt phấn rơi trên vòi nhuỵ chịu ảnh hưởng sự phân bố của
hạt phấn trong không khí. Chính vì vậy, trước tiên cần phải có những nghiên
cứu về cơ chế giao phấn ở cây lúa.
Theo nghiên cứu trước đây thì lúa trồng có khả năng giao phấn tự nhiên

rất hạn chế. Tuy nhiên, giao phấn tự nhiên biến động từ 0 - 44% ở những cây
bất dục (Stansel và Craiymiles, 1996) [38]. Trong những lô ruộng sản xuất hạt
giống, tỷ lệ giao phấn có thể đạt tới 74% trung bình từ 25 - 35%. Theo Xu và
Li, (1988) [43] công bố miền biến động về tỷ lệ giao phấn là 14,6 - 51,1%
trong các thí nghiệm khác nhau ở Changsha Hu nan Trung Quốc. Khả năng
giao phấn chéo được quyết định bởi đặc tính nở hoa của dòng mẹ và dòng bố
cùng với các yếu tố môi trường.
2.3.2.1. Đặc tính dòng bố mẹ liên quan tới thụ phấn chéo
Độ trổ thoát cổ bông sẽ làm tăng số hoa có khả năng nhận phấn của
dòng mẹ và cũng làm tăng lượng phấn tung vào không khí của dòng bố, đó
được xem là 2 yếu tố nhằm đạt tỷ lệ đậu hạt cao.
Các nhà khoa học đã đề xuất rằng lá đòng nhỏ nằm ngang có lợi hơn
cho việc tăng khả năng giao phấn chéo so với lá đòng dài và thẳng đứng.
Chiều cao cây của dòng bố phải cao hơn dòng mẹ ít nhất là 20 - 25 cm
cho tư thế truyền hạt phấn tốt nhất.
2.3.2.2. Tập tính nở hoa và sự giao phấn
16
Thông thường những giống có thời gian sinh trưởng ngắn thì nở hoa
tập trung hơn những giống dài ngày. Các giống lúa chỉ nở hoa duy nhất một
lần trong ngày bất kể điều kiện thời tiết. Parmar và cộng sự (1979) [32] tìm
thấy 2 giống IAR 16193-B và IAR 17216 có 2 cao điểm nở hoa trong ngày:
Cao điểm thứ nhất vào khoảng 10 giờ đến 10 giờ 30 phút, cao điểm thứ 2 vào
17 giờ 30 phút đến 18 giờ.
Thời gian nở hoa phụ thuộc vào tiến trình tạo phấn. Các dòng bất dục
có thời gian nở hoa kéo dài hơn những dòng hữu dục. Bên cạnh độ bất dục thì
còn có một vài yếu tố khác có thể kéo dài giai đoạn mở vỏ trấu. Ví dụ sự sai
khác về hình thái hay góc của vỏ trấu (Gill và cộng sự, 1969) [30].
2.3.2.3. Đặc tính của hoa ảnh hưởng đến sự giao phấn ở lúa
Đặc tính quan trọng nhất liên quan đến sự giao phấn là tính bất dục đực.
Các đặc tính khác của hoa như kích thước vòi nhuỵ và độ thoát của vòi nhuỵ,

góc và thời gian mở của hoa cũng ảnh hưởng đáng kể tới sự giao phấn. Đối với
dòng bố thì các đặc tính hoa như kích thước cỡ bao phấn, số hạt phấn/bao phấn,
chiều dài chỉ nhị, thời gian nở hoa cũng ảnh hưởng tới sự giao phấn.
Trong các loài phụ thì lúa dại có kích cỡ vòi nhuỵ lớn hơn lúa trồng nên
trong chọn giống người ta thường lai lúa trồng với lúa dại để cải thiện đặc
tính của vòi nhuỵ có lợi cho việc giao phấn.
2.3.2.4. Ảnh hưởng của môi trường tới cơ chế giao phấn ở lúa
Các yếu tố môi trường cũng ảnh hưởng tới sự giao phấn. Nghiên cứu
tiến hành tại IRRI cho thấy khi dòng lúa bố và dòng mẹ nở hoa độ ẩm tương
đối phù hợp là 50 - 60% và tốc độ gió là 2,5m/s. Theo Xu và Li, (1988) [43]
thì điều kiện sản xuất hạt giống lúa lai F1 tốt nhất khi nhiệt độ 25 -30
0
C, độ
ẩm tương đối là 70 - 80%, chênh lệch nhiệt độ trong ngày 8 – 10
0
C, có nắng
gió nhẹ.
2.3.3. Đảm bảo sự trổ bông và nở hoa trùng khớp giữa dòng bố và dòng mẹ
17
Bố trí gieo cấy để dòng bố và dòng mẹ trổ bông trùng khớp là yêu cầu
đầu tiên có tính chất quyết định đến sự thành công hay thất bại của công tác
sản xuất hạt giống lúa lai. Khái niệm trổ bông trùng khớp được hiểu là dòng
bố và dòng mẹ bắt đầu trổ bông cùng một ngày hay lệch nhau 1 - 2 ngày
(Nguyễn Công Tạn) [21]. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu đã kết luận: Để đạt
được năng suất hạt giống F1 cao nhất thì dòng A phải trổ trước dòng R 1 - 2
ngày (Hoàng Bồi Kính, 1993) [13].
Để cho dòng bố và mẹ trổ bông trùng khớp cần tiến hành 2 biện pháp sau:
+ Xác định độ lệch thời gian gieo cấy dòng bố mẹ.
+ Hiệu chỉnh thời gian trổ của dòng bố mẹ.
2.3.3.1. Xác định độ lệch thời gian gieo cấy dòng mẹ

Hầu hết các tổ hợp lúa lai trong sản xuất hiện nay đều có sự khác nhau
về thời gian sinh trưởng giữa bố và mẹ. Muốn cho chúng trổ bông trùng khớp
cần dựa vào các phương pháp sau:
- Phương pháp dựa vào thời gian sinh trưởng
Theo Viraktamath và Ramesha, (1996) [44] phương pháp này đơn giản,
dễ tính toán. Tuy nhiên thời gian sinh trưởng dễ bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và
các điều kiện môi trường, nhất là các tổ hợp bố mẹ là giống cảm ôn thì
phương pháp này tỏ ra thiếu độ tin cậy. Ở Việt Nam, áp dụng phương pháp
này cho các tổ hợp thì sự chênh lệch thời gian gieo cấy giữa bố và mẹ cho tổ
hợp Tạp Giao 1 là 19 - 20 ngày, Tạp Giao 5 là 14 - 15 ngày (TTNC Lúa lai,
1997) [5].
- Phương pháp dựa vào số lá dòng bố mẹ
Theo Viraktamath và Ramesha, (1996) [36] thì tổng số lá trên thân
chính của mỗi giống lúa tương đối ổn định qua các vụ, các năm. Do đó có thể
sử dụng để tính độ lệch thời vụ gieo bố mẹ một cách chính xác hơn.
Dùng phương pháp 3 phần (0,2; 0,5; 0,8) theo dõi thường xuyên để xác
định ngày ngâm giống dòng A cho phù hợp.
18
Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu cho thấy dòng ZenShan 97A nên gieo
khi dòng bố Quế 99 có 5 - 5,5 lá, Minh Khôi 63 có 6,4 lá thì bố mẹ sẽ trổ
bông trùng khớp. Thực tế sản xuất giống Tạp Giao 5 tại An Khánh - Hoài Đức
- Hà Tây thì ZenShan97A gieo khi dòng bố Quế 99 đạt 5,5 lá. Kết quả dòng
Z97A trổ 16/9, dòng Quế 99 gieo lần 1 trổ 18/9, sau mẹ 2 ngày, năng suất hạt
lai đạt 15,03 tạ/ha (Nguyễn Trí Hoàn và cộng sự, 1995) [8].
- Phương pháp dựa vào tích ôn hữu hiệu
Tổng tích ôn hữu hiệu từ gieo hạt đến trổ bông của một giống tương đối
ổn định. Theo Yuan và Fu, (1995) [44] tích ôn hữu hiệu được tính như sau:
A = ∑ (T – H – L)
Trong đó:
A: Là tích ôn hữu hiệu của một giai đoạn sinh trưởng

T: Là nhiệt độ trung bình ngày trong giai đoạn sinh trưởng đó (
0
C)
H: Số nhiệt độ cao hơn nhiệt độ giới hạnsinh học trên (
0
C)
L: Nhiệtđộ giới hạnsinh học dưới (
0
C).
Ở Trung Quốc nhiệt độ giới hạn sinh học trên là 27
0
C, giới hạn sinh học
dưới là 12
0
C.
Ở Ấn Độ chỉ số giới hạn trên và dưới là 30
0
C và 12
0
C, (Viraktamath và
Ramesha, 1996) [44].
Khi biết được tích ôn hữu hiệu (EAT) của dòng bố, mẹ thì ngày gieo
dòng có (EAT) thấp hơn được xác định bằng hiệu số hai giá trị (EAT) của 2
dòng đó.
Cũng theo các tác giả trên thì 3 phương pháp trên có thể bổ sung cho
nhau để tính độ lệch gieo cấy của dòng A và dòng R. Phương pháp dựa vào số
lá coi như là phương pháp chính, hai phương pháp kia dùng để tham khảo.
Ngoài ra, người ta còn sử dụng phương pháp hồi quy để xác định độ
lệch thời vụ gieo cấy của dòng bố, mẹ.
19

2.3.3.2. Ảnh hưởng của thời gian bảo quản hạt giống, chất lượng mạ và tuổi
mạ đến thời gian sinh trưởng của dòng bố mẹ
Nói chung thời gian sinh trưởng của dòng bố mẹ được gieo bằng hạt
giống cùng năm thường dài hơn 4 - 5 ngày so với nguồn giống đã để qua một
năm. Khi cấy mạ cằn cỗi thì thời gian sinh trưởng cũng dài hơn khoảng 4
ngày so với cấy mạ khoẻ chất lượng tốt [9].
Số lá trên thân chính cũng thay đổi theo thời gian sinh trưởng. Dùng hạt
giống mới thời gian sinh trưởng dài hơn 4 ngày thì có thể tăng thêm 1 lá.
Theo công bố của Trung tâm nghiên cứu lúa lai vụ mùa (1995), mạ Quế
99 cấy 18 ngày tuổi sẽ trổ sớm hơn cấy 24 ngày tuổi là 2 ngày [2].
2.3.3.3. Các phương pháp dự báo thời gian trổ bông
Mặc dù dòng bố, mẹ được gieo theo khung thời vụ đã được xác định
xong vẫn có thể trổ bông lệch nhau do biến động về thời tiết khí hậu, kỹ thuật
canh tác…vv. Vì vậy, cần dự báo ngày trổ để điều chỉnh kịp thời đảm bảo sự
trổ bông trùng khớp.
* Các phương pháp dự báo được sử dụng như sau:
- Phương pháp bóc đòng
Căn cứ vào hình thái và kích thước của đòng mà các nhà khoa học
Trung Quốc chia ra quá trình phân hoá đòng thành 8 bước, ở IRRI và Ấn Độ
người ta chia ra thành 10 bước (Virmani và Sharma, 1993) [42].
Nội dung của phương pháp như sau: Trong khoảng 30 ngày trước trổ cứ
3 ngày 1 lần lấy mẫu đòng non từ các dảnh chính của dòng bố mẹ bóc đòng
theo dõi tiến độ phân hoá quan sát bằng mắt hay kính lúp [9]. Sự trùng khớp
lý tưởng là:
+ Nếu dòng A có thời gian sinh trưởng ngắn hơn dòng R thì trong 3
bước đầu dòng R phải sớm hơn dòng A 1 bước, trong các bước IV, V và VI thì
2 dòng phải trùng nhau. Trong các bước còn lại dòng A sẽ sớm hơn để trổ
trước dòng R 1 - 2 ngày.
20
+ Nếu dòng A và dòng R có thời gian sinh trưởng bằng nhau thì trong

suốt quá trình phân hoá đòng dòng A phải sớm hơn dòng R 1-2 ngày.
+ Nếu dòng A có thời gian sinh trưởng dài hơn dòng R thì trong 3 bước
đầu dòng A phải sớm hơn dòng R 1 bước.
- Phương pháp số lá còn lại
Vào thời kỳ 3 lá cuối cùng, ở vụ Xuân hay vụ Mùa, nhiệt độ tương đối
ổn định do tốc độ ra lá của 3 lá cuối cùng biến động rất ít. Theo kết quả
nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc, quan hệ giữa số lá còn lại và
các bước phân hoá đòng như sau:
STT Số lá còn lại Bước phân hoá đòng
1 3,5 – 3,1 I
2 3,0 – 2,5 II
3 2,4 – 1,9 III
4 1,8 – 1,4 IV
5 1,3 - 0,8 V
6 0,7 – 0,2 VI
Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp này cần xử lý sự biến động về số
lá trên thân chính của các dòng A, R.
2.3.3.4. Các phương pháp điều tiết về thời gian trổ
Khi phát hiện các dòng bố mẹ sẽ trổ lệch nhau thì phải dùng các biện
pháp điều chỉnh càng sớm càng tốt.
- Xử lý trong 3 bước đầu của quá trình phân hoá đòng
Bón đạm dễ tiêu cho dòng phát triển nhanh với lượng 140 – 150 kg/ha
(nếu dòng S nhanh) hoặc 40 kg/ha (nếu dòng R nhanh) [26].
Bón Kali cho dòng phát triển chậm với lượng 100 kg/ha (nếu dòng S
chậm) hoặc 30 kg/ha (nếu dòng R chậm) [26].
Theo Yuan và Fu, (1995) [40], bón đạm quá liều cho dòng phát triển
nhanh và phun dung dịch KH
2
PO
4

1% cho dòng phát triển chậm có thể điều
chỉnh được khoảng 3 - 4 ngày.
21
Dương Tự Bảo, (1996) [38] cho biết phun Met ở bước III với nồng độ
150 – 200 ppm làm chậm được 3 – 4 ngày nhưng không nên phun quá nồng
độ 300 ppm vì sẽ gây ra tác dụng phụ.
Nếu dòng R chậm hơn dòng A từ 5 - 6 ngày thì phun cho dòng A dung
dịch Urê 2% và kích dòng R bằng dung dịch KH
2
PO
4
1% (Viraktamath và
Ramesha, 1996) [44].
- Xử lý trong các bước sau của quá trình phân hoá đòng
+ Biện pháp dùng nước: nếu dòng R nhanh hơn thì tháo nước và ngược
lại nếu dòng R chậm thì cho nước ngập sâu để thúc đòng phát triển nhanh,
dòng R luôn mẫn cảm với nước hơn dòng S [26].
+ Biện pháp dùng hoá chất:
Nếu từ bước IV trở đi vẫn còn sự chênh lệch giữa dòng A và dòng R thì
phải dùng các biện pháp sau:
Trước khi trổ 4 - 5 ngày phun lên lá hỗn hợp gồm 0,5 gram GA3 + 100
gram KH
2
PO
4
+ 69 lít nước. Lượng dung dịch này phun cho dòng R trên diện
tích 2000 m
2
và cho dòng A trên diện tích 6000 m
2

ruộng sản xuất hạt giống
F1. Phun liên tục trong thời gian 1 - 3 ngày tuỳ vào độ trùng khớp của dòng
A, R, biện pháp này có thể điều chỉnh được 2 - 3 ngày [9].
Theo Yuan và Fu, (1995) [44] nếu phát hiện thấy bố mẹ trổ lệch nhau
10 ngày thì phải ngắt bỏ những bông hoặc dảnh sắp trổ của dòng phát triển
nhanh. Sau đó bón đạm cho các nhánh phát triển sau hoặc các nhánh vô hiệu
trở thành bông hữu hiệu.
Theo Huang và cộng sự, (1987)[33] cho biết:
Phun dung dịch Ure 2% hay 2,4 D 25ppm vào lúc bắt đầu phân hoá
đòng làm thời gian trổ chậm 2-3 ngày.
Phun KNO
3
200ppm hoặc KH
2
PO
4
1% làm cho lúa trổ sớm hơn 2 ngày.
Theo Nguyễn Thị Trâm (2008) [26], phun GA3 + KH
2
PO
4
cho dòng
phát triển chậm vào thời điểm cuối bước VII (4 – 5 ngày trước trỗ). Nếu dòng
22
S chậm phun 7 – 8 g GA3 + 1,5 kg KH
2
PO
4
+ 400 lít nước/ha. Nếu dòng R
chậm thì dùng 1/3 lượng trên.

Ngoài ra các chất như axit boric, TIBA, CCC, IAA, Ethrel cũng có tác
dụng làm cho lúa trổ sớm.
+ Biện pháp cơ giới:
Dòng nào nhanh hơn 5 – 7 ngày thì phải dùng biện pháp đạp rễ, cắt rễ
để kìm hãm. Nếu dòng R nhanh có thể nhổ lên cấy lại [26].
Tuỳ mức độ chênh lệch mà sử dụng từng biện pháp hay kết hợp các
biện pháp trên cho phù hợp, hiệu quả.
2.3.4. Xây dựng mô hình kết cấu quần thể dòng bố mẹ năng suất cao
2.3.4.1. Các chỉ số kết cấu quần thể năng suất cao
Đối với ruộng sản xuất giống lúa lai do phải trồng xen giữa hàng bố và
hàng mẹ tạo điều kiện cho quá trình giao phấn nên ngoài các yếu tố cấu thành
năng suất như số bông/m
2
, số hạt/bông và khối lượng 1000 hạt còn phải xác
định tỷ lệ về số bông và số hoa của dòng bố mẹ hợp lý, nghĩa là dòng mẹ có
đủ số hoa, số bông/đơn vị diện tích đồng thời dòng bố cũng phải có đủ lượng
phấn hoa cần thiết cho dòng mẹ thụ phấn hiệu quả.
Tại công ty Hồ Nam (Trung Quốc) đã xác định kết cấu bông của ruộng
sản xuất hạt giống F1 tổ hợp Bắc ưu 64 cho kết quả như sau: Tỷ lệ bông R/A
là 1/2,2 đạt năng suất cao nhất (18,2 - 22,2 tạ/ha), cao hơn hẳn tỷ lệ 1/1,7 và
1/1,3 (Nguyễn Công Tạn, 1992) [9].
Theo Yuan và Fu, (1995) [44] kết luận để đạt được năng suất hạt giống
F1 cao, dòng R phải có 1,2 triệu bông hữu hiệu/ha và dòng A phải đạt từ 3,5
triệu bông hữu hiệu/ha trở lên, tỷ lệ R/A là 1:2,0 - 2,5 khi số hoa dòng A là
300 triệu hoa.
Theo Yuan và Fu, (1995) [44] để đạt năng suất hạt giống F1 siêu cao (5-7
tấn/ha) dòng mẹ cần 380 - 400 triệu hoa/ha và tỷ lệ R/A phải là 1:3,0 - 3,5.
23
2.3.4.2. Các biện pháp tạo quần thể dòng bố mẹ năng suất cao
Kết cấu quần thể dòng bố mẹ hợp lý phụ thuộc vào 3 yếu tố là: Tỷ lệ

hàng bố mẹ, mật độ cấy và số dảnh cấy cơ bản. Kết quả thí nghiệm tại Trung
Quốc cho thấy hiệu ứng trội của các yếu tố trên đối với năng suất là số
dảnh/khóm > mật độ > tỷ lệ hàng bố mẹ (Nguyễn Công Tạn, 1992) [9].
A, Tỷ lệ hàng bố mẹ
Theo Yuan và cộng sự, (1989) [45] trong một phạm vi nhất định, nếu
tăng số hàng mẹ có thể nâng cao năng suất hạt giống F1. Muốn xác định được
tỷ lệ hàng bố mẹ phù hợp cần căn cứ vào đặc tính của dòng bố (R) như chiều
cao cây, thời gian sinh trưởng, sức sinh trưởng và số lượng hạt phấn để xác
định tỷ lệ hàng bố mẹ cho phù hợp (Yuan và Fu, 1995) [44]. Nếu dòng bố
sinh trưởng mạnh, thời gian sinh trưởng dài, cao cây và có nhiều hạt phấn thì
có thể tăng số hàng mẹ và ngược lại. Nếu dòng mẹ có tập tính nở hoa tốt thì
cũng có thể tăng số hàng mẹ.
Theo Hoàng Bồi Kính, (1993) [13] để đạt năng suất hạt giống F1 siêu
cao thì tỷ lệ hàng bố trí như sau:
Tỷ lệ hàng 2R/16 - 18A với tổ hợp chín sớm và trung bình
Tỷ lệ hàng 2R/18 - 20A với các tổ hợp chín muộn.
Ở Việt Nam, tỷ lệ hàng được xác định như sau:
2R/14A với tổ hợp Shan Ưu Quế 99
2R/16A với tổ hợp Bo you 64.
Khi sử dụng phương thức gieo cấy một lần gieo bố thì tỷ lệ hàng thích
hợp là 1R/8A hoặc 1R/10A (Nguyễn Trí Hoàn và cộng sự, 1995) [8].
B, Mật độ cấy
Mật độ cấy phù hợp quyết định đến số bông và số hoa của dòng bố mẹ.
Mật độ cấy còn liên quan đến dinh dưỡng của đất, khả năng thâm canh và đặc
tính sinh học của dòng bố mẹ.
24
Ở Ấn Độ dòng R có mật độ cấy là 30 x 15cm, dòng A là 15 x 15cm
(Kuma,1996) [34].
Ở Việt Nam, dòng R có mật độ 15-17 x 30 cm, dòng A cấy mật độ 13 x10
cm;13 x 13 cm (Trần Văn Chiến, 1997) [3], (Nguyễn Trí Hoàn, 1995) [8].

C, Số dảnh cấy/khóm
Tuỳ thuộc vào khả năng sinh trưởng của giống mà số dảnh cấy/khóm
khác nhau. Ở Trung Quốc chủ yếu dùng dòng A có thời gian sinh trưởng ngắn
nên số bông dòng A dựa vào số dảnh cấy cơ bản là chính, còn ở IRRI sử dụng
dòng A IR58025A tương đối dài ngày thì khuyến cáo dòng A gieo 20m
2
/kg
giống và cấy 2 dảnh mạ/khóm.
Theo Yuan và Fu, (1995) [44] năng suất F1 đạt cao nhất 3,38 tấn/ha với
mật độ cấy 3 triệu dảnh cơ bản dòng A/ha. Với dòng R, số dảnh cấy phụ
thuộc vào dạng hình và khả năng đẻ nhánh của lúa.
Chỉ tiêu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến kết cấu quần thể dòng bố
mẹ là tổng số hoa và tỷ lệ giữa số hoa dòng bố và dòng mẹ.
Theo Hoàng Bồi Kính, (1993) [13] cho biết để đạt năng suất hạt giống
F1 siêu cao thì tỷ lệ giữa hoa bố và hoa mẹ là 1:3,5 - 4,0 khi đó dòng A đạt
364 - 420 triệu hoa.
Ở Việt Nam, năng suất hạt lai tổ hợp Tạp Giao 5 sẽ giảm khi dòng mẹ
được cấy 1 dảnh mạ/khóm so với khi cấy 2 dảnh/khóm (Nguyễn Trí Hoàn,
1995) [8].
Các dòng mẹ ngắn ngày như BoA, Z97A, được cấy 2 - 3 dảnh/khóm có
6 - 7 dảnh cơ bản/khóm, dòng bố cấy 2 - 3 dảnh/khóm có 9 - 10 dảnh cơ
bản/khóm [5].
2.3.4.3. Nâng cao tỷ lệ đậu hạt
A, Xác định thời kỳ trỗ bông và nở hoa thích hợp
Thời tiết khí hậu ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và chất lượng hạt lai.
Điều kiện tối ưu cho lúa trổ bông và nở hoa là:
25

×