Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Xác định mối quan hệ giữa bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái với bệnh tiêu chảy ở đàn lợn con tại trang trại Đồng Tâm Xanh- Xã Đồng Tâm- Huyện Mỹ Đức- Hà Nội potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.99 KB, 53 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian dài phấn đấu, học tập và rèn luyện tại trường Lương
Thế Vinh và thực tập tốt nghiệp tại trang trại Đồng Tâm Xanh – Xã Đồng
Tâm – Huyện Mỹ Đức – Hà Nội. Được sự dạy dỗ, chỉ bảo tận tình của các
thầy cô giáo, nhất là các thầy cô trong Khoa KTNN cùng các bác, cô, chú và
các anh chị trong trang trại đã giúp tôi tích lũy được những kiến thức cơ bản
trong nghề nghiệp cũng như đạo đức, tư cách của người cán bộ khoa học kỹ
thuật. Đến nay, tôi đã hoàn thành báo cáo tốt nghiệp. Nhân dịp này, tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- Ban Giám hiệu nhà trường, Khoa KTNN cùng toàn thể các thầy cô
giáo trường Đại học Lương Thế Vinh .
- Đặc biệt là: Thầy TS. Nguyễn Bá Tiếp, Bộ môn Tổ chức giải phẫu -
Khoa Thú y - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
- BSTY. Bùi Đình Trận, Khoa KTNN - Trường ĐH Lương Thế Vinh.
Ban lãnh đạo trang trại Đồng Tâm Xanh – Xã Đồng Tâm – Huyện Mỹ Đức –
Hà Nội.
- Cùng toàn thể các bác, cô, chú và anh chị trong trang trại Đồng Tâm
Xanh – Xã Đồng Tâm – Huyện Mỹ Đức – Hà Nội.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và người thân đã luôn bên cạnh động viên và
ủng hộ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp này.

Nam Định, ngày 30 tháng 11 năm 2011
SINH VIÊN
Hoàng Thị Hoa

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong những năm gần đây nhu cầu về thực phẩm không ngừng tăng cao
đặc biệt là nhu cầu về thịt lợn. Để đáp ứng nhu cầu của thị trường, chăn nuôi
lợn đã và đang được đầu tư và phát triển mạnh.
Để năng suất chăn nuôi được nâng cao người chăn nuôi đã ứng dụng


các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào trong sản suất. Tuy nhiên, để đạt được hiệu
quả cao thì bên cạnh việc đảm bảo các tiêu chuẩn về thức ăn, chuồng trại, kĩ
thuật chăn nuôi thì đàn giống tốt là tạo tiền đề cho các quy trình chăm sóc
nuôi dưỡng đạt hiệu quả cao. Đàn nái nuôi theo phương thức công nghiệp với
quy mô tập chung, nhóm bệnh sinh sản là một trong những nhóm bệnh
thường gặp do khả năng thích nghi kém với điều kiện ngoại cảnh của lợn nái.
Mặt khác, quá trình sinh sản là cơ hội để vi khuẩn có điều kiện xâm nhập vào
cơ thể và gây ra một số bệnh như nhiễm trùng sau đẻ, viêm tử cung, viêm
vú Trong các bệnh sản khoa của lợn nái sinh sản thì bệnh viêm tử cung
được phát hiện với tỉ lệ cao tại các cơ sở sản xuất. Viêm tử cung không những
làm ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản của lợn mẹ mà còn là một trong
những nguyên nhân làm cho tỉ lệ mắc tiêu chảy ở đàn lợn con đang theo mẹ
tăng cao . Từ đó, làm giảm phẩm chất và chất lượng con giống, đồng thời gây
tổn thất không nhỏ tới hiệu quả kinh tế chăn nuôi.
Những vấn đề nêu trên chỉ ra rằng việc nghiên cứu về bệnh viêm tử
cung ở đàn lợn nái ngoại cùng với bệnh tiêu chảy ở đàn lợn con và tìm ra
phương pháp phòng trị bệnh là việc cần thiết.
Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài :
2
“Xác định mối quan hệ giữa bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái với
bệnh tiêu chảy ở đàn lợn con tại trang trại Đồng Tâm Xanh - Xã Đồng
Tâm – Huyện Mỹ Đức - Hà Nội”.
1.2. MỤC ĐÍCH.
− Điều tra tình hình chăn nuôi tại trang trại.
− Những triệu chứng lâm sàng điển hình của bệnh viêm tử cung và bệnh
tiêu chảy lợn con.
− Khảo sát cụ thể tình trạng bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái và bệnh
tiêu chảy ở đàn lợn con.
− Xác định mối liên hệ giữa tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung với tỷ
lệ mắc bệnh tiêu chảy trên đàn lợn con.

− Thử nghiệm một số phác đồ phòng và trị bệnh viêm tử cung trên đàn
lợn nái và bệnh tiêu chảy trên đàn lợn con.
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU VỀ BỆNH VIÊM TỬ
CUNG VÀ BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CON.
2.1. TỔNG QUAN VỀ BỆNH VIÊM TỬ CUNG.
3
2.1.1. Nguyên nhân bệnh.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002), viêm tử cung là một quá bệnh lý
thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá hủy các tế
bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc
cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.
Theo tác giả Đào Trọng Đạt và cs (2000), bệnh viêm tử cung ở lợn nái
thường do các nguyên nhân sau: (1) công tác phối giống không đúng kĩ thuật,
nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc
tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng khi phối giống có thể vi
khuẩn từ ngoài vào trong tử cung lợn nái gây viêm; (2) lợn nái phối giống
trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ
những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn
khỏe; (3) lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm
mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát; (4)
lợn nái sau khi đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung;
(5) do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: sảy thai truyền nhiễm, phó
thương hàn, bệnh lao gây viêm và (6) do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ
phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không sạch sẽ trong thời gian đẻ cổ tử
cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm .
Ngoài các nguyên nhân kể trên, viêm tử cung còn có thể là biến
chứng nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian
động đực (vì lúc đó cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo
đường máu và viêm tử cung là một trong những triệu chứng lâm sàng chung
(Lê Văn Năm và cs, 1997).

2.1.2. Ảnh hưởng của bệnh viêm tử cung.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2004), khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn
tới một số hậu quả chính sau :
− Sảy thai.
− Bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu.
4
− Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn nên lợn con trong giai
đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.
− Lợn mẹ bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở
lại.
Qua đó ta thấy hậu quả của viêm tử cung là rất lớn, để tỉ lệ mắc bệnh
giảm, người chăn nuôi phải có những hiểu biết nhất định về bệnh từ đó tìm ra
biện pháp để phòng và điều trị bệnh hiệu quả.
2.1.3. Các thể viêm tử cung.
Theo Đặng Đình Tín (1985) bệnh viêm tử cung được chia làm 3 thể:
viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tương mạc tử cung.
2.1.3.1. Viêm nội mạc tử cung (Endomestritis).
Theo Nguyễn Văn Thanh (1999), viêm nội mạc tử cung là viêm lớp
niêm mạc của tử cung, đây là một trong các nguyên nhân làm giảm khả năng
sinh sản của gia súc cái, nó cũng là bệnh phổ biến và chiếm tỉ lệ cao trong các
bệnh của viêm tử cung. Viêm nội mạc tử cung thường xảy ra sau khi gia súc
sinh đẻ, nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp làm niêm mạc tử cung
bị tổn thương, tiếp đó các vi khuẩn Streptococcus, Staphylococus, E.coli,
Salmonella, C.pyogenes, Bruccella, roi trùng Trichomonas Foetus xâm
nhập lên lớp niêm mạc gây viêm.
Theo Nguyễn Hữu Ninh và Bạch Đăng Phong (2000), bệnh viêm nội
mạc tử cung có thể chia làm 2 loại :
− Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ, chỉ gây tổn thương
tử cung ở niêm mạc tử cung.
− Viêm nội mạc tử cung thể màng giả, tổ chức niêm mạc đã bị hoại

tử, tổn thương lan sâu xuống dưới tầng cơ của tử cung và trở thành viêm hoại
tử .
• Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ (Endomestritis
Puerperalis). Lợn bị bệnh này thân nhiệt hơi cao, ăn kém, lượng sữa giảm.
Con vật có trạng thái đau đớn nhẹ, có khi con vật cong lưng rặn, tỏ vẻ không
yên tĩnh. Từ âm hộ chảy ra hỗn dịch, niêm mạc lẫn với dịch viêm, mủ, lợn
5
cợn những mảnh tổ chức chết Khi con vật nằm xuống, dịch viêm thải ra
ngày càng nhiều hơn. Xung quanh âm môn, gốc đuôi, hai bên mông dính
nhiều dịch viêm, có khi nó khô lại thành từng đám vảy màu trắng xám. Kiểm
tra qua âm đạo, niêm dịch và dịch rỉ viêm thải ra nhiều. Cổ tử cung hơi mở và
có mủ chảy qua cổ tử cung, niêm mạc âm đạo bình thường.
• Viêm nội mạc tử cung thể màng giả
Ở thể viêm này, niêm mạc tử cung thương bị hoại tử. Những vết
thương đã ăn sâu vào tầng cơ của tử cung và chuyển thành hoại tử. Lợn nái
mắc bệnh này thường xuất hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân nhiệt tăng cao,
lượng sữa giảm có khi mất sữa hoàn toàn, kế phát viêm vú, ăn uống giảm.
Con vật đau đớn, luôn rặn, lưng và đuôi cong lên. Từ cơ quan sinh dục luôn
thải ra ngoài hỗn dịch: dịch viêm, máu, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức hoại
tử, niêm dịch
2.1.3.2. Viêm cơ tử cung (Myomestritis Pureperalis).
Theo Nguyễn Hữu Ninh và Bạch Đăng Phong (2000), viêm cơ tử cung
thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả, niêm mạc tử cung bị
thấm dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm
niêm mạc bị phân giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba
quản, từ đó làm lớp cơ và một ít lớp tương mạc của tử cung bị hoại tử. Nếu
bệnh nặng, can thiệp chậm có thể dẫn đến nhiễm trùng toàn thân, huyết nhiễm
trùng hoặc huyết nhiễm mủ. Có khi do lớp cơ và lớp tương mạc của tử cung
bị phân giải mà tử cung bị thủng hoặc tử cung bị hoại tử từng đám to.
Lợn nái bị bệnh này thường biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân

nhiệt tăng cao, mệt mỏi, ủ rũ,ăn uống giảm, lượng sữa giảm và mất hẳn. Mép
âm đạo tím thẫm, niêm mạc âm đạo khô, nóng màu đỏ thẫm. Gia súc biểu
hiện trạng thái đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra ngoài
hỗn dịch màu đỏ nâu, lợn cợn mủ và những mảnh tổ chức thối rữa nên có mùi
tanh, thối. Con vật thường kế phát viêm vú, có khi viêm phúc mạc.
6
Thể viêm này ảnh hưởng đến quá trình thụ thai và sinh đẻ lần sau. Có
trường hợp điều trị khỏi nhưng gia súc vô sinh.
2.1.3.3 Viêm tương mạc tử cung (Perimestritis Puerperalis).
Theo Đặng Đình Tín (1985), viêm tương mạc tử cung thường kế phát
từ viêm cơ tử cung. Thể viêm này thường cấp tính cục bộ, toàn thân xuất hiện
những triệu chứng điển hình và nặng. Lúc đầu lớp tương mạc tử cung có màu
hồng, sau chuyển sang đỏ thẫm, sần sùi mất tính trơn bóng. Sau đó các tế bào
bị hoại tử và bong ra, dịch thẩm xuất tăng tiết. Nếu bị viêm nặng, nhất là viêm
có mủ, lớp tương mạc có thể dính với các tổ chức xung quanh gây nên tình
trạng viêm mô tử cung (thể Paramestritis), thành tử cung dầy lên, có thể kế
phát viêm phúc mạc.
Lợn nái biểu hiện triệu chứng toàn thân: Nhiệt độ tăng cao, mạch
nhanh, con vật ủ rũ, mệt mỏi, uể oải, đại tiểu tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc
bỏ ăn. Lượng sữa rất ít hoặc mất hẳn, thường kế phát viêm vú. Con vật luôn
biểu hiện trạng thái đau đớn, khó chịu, lưng và đuôi cong, rặn liên tục. Từ âm
hộ thải ra ngoài rất nhiều hỗn dịch lẫn mủ và tổ chức hoại tử, có màu nâu và
mùi thối khắm. Khi kích thích vào thành bụng thấy con vật có phản xạ đau rõ
hơn, rặn nhanh hơn, từ âm hộ dịch chảy ra nhiều hơn. Trường hợp một số
vùng của tương mạc đã dính với các bộ phận xung quanh thì có thể phát hiện
được trạng thái thay đổi về vị trí và hình dáng của tử cung, có khi không tìm
thấy một hoặc cả hai buồng trứng. Nếu điều trị không kịp thời thì sẽ chuyển
thành viêm mãn tính, tương mạc đã dính với các bộ phận xung quanh thì quá
trình thụ tinh và sinh đẻ lần sau sẽ gặp nhiều khó khăn, có thể dẫn tới vô sinh.
Thể viêm này thường kế phát bệnh viêm phúc mạc, bại huyết, huyết nhiễm mủ

7
2.2. SƠ LƯỢC VỀ BỆNH TIÊU CHẢY LỢN CON.
2.2.1. Khái niệm tiêu chảy.
Tiêu chảy là triệu chứng lâm sàng của quá trình bệnh lý đặc thù ở đường
tiêu chảy. Hiện tượng lâm sàng này tùy theo đặc điểm, tính chất, độ tuổi mắc
bệnh, tùy theo yếu tố nào được xem là yếu tố chính và nó được gọi với những
tên khác nhau: Bệnh phân trắng lợn con, hội chứng khó tiêu, tiêu chảy sau cai
sữa, hội chứng rối loạn tiêu hóa Tiêu chảy là triệu chứng thường gặp ở
nhiều bệnh kí sinh trùng, bệnh do virut , bệnh do vi khuẩn
Bệnh phân trắng lợn con là một trong những bệnh khá phổ biến ở lợn con
từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi (lợn con theo mẹ ), tỷ lệ cao nhất có thể chiếm
100% (Đào Trọng Đạt, 1996 ), các hộ chăn nuôi cũng có tỷ lệ mắc từ 34,4 –
66% (Tạ Thị Vịnh, 1996). Giai đoạn này tỷ lệ mắc bệnh nhiều hơn các giai
đoạn khác.
Theo Đào Trọng Đạt và cộng sự (1996) đều cho rằng: Bệnh xảy ra quanh
năm, đặc biệt là vào vụ đông xuân khi thời tiết thay đổi đột ngột và vào những
giai đoạn chuyển mùa trong năm. Vào những tháng mưa nhiều thì số lợn con
mắc bệnh tăng lên rõ rệt, có khi tới 90 – 100 % toàn đàn.
Ở các trại nuôi tập trung bệnh xảy ra nhiều. Nếu lợn con mắc bệnh ngay
từ những ngày đầu mới sinh thì tỷ lệ chết thường là 25 – 50 %, có khi lên đến
100% số con bị bệnh. Lợn con sau khi khỏi bệnh thì còi cọc, tốc độ sinh
trưởng và phát dục thường chậm hơn so với những lợn khoẻ mạnh từ 26 –
40% (Đào Trọng Đạt, 1996) và rất dễ nhiễm các bệnh khác.
Mặc dù đã có nhiều vấn đề xung quanh bệnh phân trắng lợn con đang
được làm sáng tỏ, xong những bàn luận xung quanh nó vẫn chưa được chấm
dứt. Nguyên nhân, cơ chế sinh bệnh, biện pháp phòng trị bệnh vẫn được
nghiên cứu để đưa ra phác đồ phòng và trị bệnh hữu hiệu nhất để hạn chế
những thiệt hại do bệnh gây ra.
8
2.2.2. Nguyên nhân.

Bệnh phân trắng lợn con đã và đang được nhiều tác giả nghiên cứu và
đưa ra nhiều nhận định về nguyên nhân theo nhiều hướng khác nhau song tập
trung vào hai hướng chính:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Đây không phải bệnh nhiễm trùng mà là
chứng khó tiêu (Dyspepsia), hậu quả của các yếu tố ngoại cảnh gây nên như
thời tiết khí hậu, chất lượng sữa mẹ, vệ sinh chuồng trại, chăm sóc nuôi
dưỡng lợn con, lợn mẹ kém ăn
Quan điểm thứ hai cho rằng: Đây là bệnh nhiễm trùng đường tiêu hoá
chủ yếu do vi khuẩn E.coli gây ra.
Gần đây nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã thống nhất: Bệnh
phân trắng lợn con xảy ra do nhiều nguyên nhân phối hợp, liên quan đến hàng
loạt các yếu tố. Do đó, việc chia nguyên nhân chỉ là tương đối, nhằm mục
đích xác định nguyên nhân nào là chính, nguyên nhân nào là phụ để có biện
pháp phòng và trị bệnh có hiệu quả.
Qua các tài liệu của nhiều tác giả trong và ngoài nước đa nêu, có thể chia
thành những nguyên nhân sau:
− Yếu tố ngoại cảnh.
− Trực khuẩn E.coli.
− Đặc điểm nuôi dưỡng lợn mẹ.
− Đặc điểm sinh lý lợn con.
− Do virus.
2.2.2.1. Yếu tố ngoại cảnh.
Trong điều kiện sinh lý bình thường có sự cân bằng giữa sức đề kháng
của cơ thể đối với yếu tố gây bệnh. Khi sức đề kháng cơ thể giảm, thì cân
bằng này mất đi, làm cho cơ thể rơi vào trạng thái bệnh lý.
9
Do đặc điểm sinh lý chưa hoàn chỉnh của gia súc non nói trung và lợn
con nói riêng, làm cho khả năng thích nghi và bảo vệ cơ thể rất kém. Do vậy
mà các yếu tố ngoại cảnh và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng rất
lớn tới sức đề kháng của cơ thể con vật.

Khi còn nằm trong bụng mẹ, sự cân bằng nhiệt của bào thai do thân
nhiệt của cơ thể mẹ quy định. Sau khi sinh ra cơ thể lợn con chưa bù đắp được
lượng nhiệt mất đi do ảnh hưởng của môi trường bên ngoài. Lúc này, các yếu
tố bất lợi của ngoại cảnh như nóng, lạnh, mưa gió, ẩm ướt, thời tiết thay đổi
đột ngột sẽ tác động đến sức đề kháng của cơ thể, lập tức con vật biến đổi
theo, tạo điều kiện cho bệnh phát sinh và phát triển. Trong những yếu tố về
khí hậu thì nhiệt độ và độ ẩm là quan trọng nhất. Nhiệt độ từ 28 – 30
o
C, độ
ẩm từ 75 – 80% là thích hợp cho lợn con nhất. Vì vậy, những tháng giao mùa,
những tháng mưa nhiều, độ ẩm cao từ 86 – 90%, nhiệt độ thay đổi thất thường
thì lợn con ở những nơi ẩm ướt, thoáng gió có sự thải nhiệt bằng truyền nhiệt,
khuyếch tán nhiệt càng mạnh, con vật mất càng nhiều nhiệt, làm cho cơ thể bị
nhiễm lạnh, gây rối loạn tiêu hoá, dẫn đến bệnh phân trắng lợn con, có khi tỷ
lệ bệnh phân trắng lợn con trong đàn là 90 – 100% (Đào Trọng Đạt và cộng
sự, 1996 ).
Nhiều tác giả cho rằng, nguyên nhân của bệnh phân trắng lợn con được
xem như không đặc hiệu và mang tính tổng hợp, trong đó các yếu tố lạnh ẩm
được đánh giá là yếu tố hàng đầu của bệnh. Khi môi trường ngoài ẩm làm hệ
thống điều hoà nhiệt bị rối loạn, dẫn đến làm rối loạn trao đổi chất của các cơ
quan, các mô bào và các tế bào của cơ thể làm cho sức đề kháng của cơ thể
giảm sút, tạo điều kiện cho virus, vi khuẩn có sẵn trong đường ruột hay từ
ngoài vào có cơ hội phát triển tăng nhanh về số lượng và tăng cường độc lực
gây bệnh.
10
Bệnh phân trắng lợn con có liên quan đến trạng thái stress. Trong đó
stress lạnh ẩm làm cho lợn con không giữ được mối cân bằng hoạt động của
hệ thống: Hạ khâu não - tuyến yên – tuyến thượng thận làm biên đổi hàm
lượng Fe
2+

, Na
+
, K
+
trong máu làm giảm sức đề kháng lợn con, nhất là lợn sơ
sinh, gây hiện tượng ỉa phân trắng, do vậy việc tạo bầu tiểu khí hậu chuồng
nuôi ấm áp về mùa đông, thoáng mát về mùa hè và giữ khô ráo chuồng là hết
sức cần thiết. Khi độ ẩm chuồng nuôi dưới 60% thì bệnh phân trắng lợn con
giảm rõ rệt. Nên việc vệ sinh chuồng trại là yếu tố quyết định trực tiếp đến
sức khoẻ lợn con. Vệ sinh tốt sẽ làm tăng khả năng miễn dịch không đặc hiệu
của lợn con. Kiểu kiến trúc chuồng nuôi cấu tạo nên chuồng và điều kiện vệ
sinh chuồng trại có tính quyết định đến bầu tiểu khí hậu chuồng nuôi. Nếu nền
chuồng bẩn khó thoát nước, không cửa che về mùa đông, không thoáng mát
về mùa hè, rất dễ gây stress cho lợn con, là điều kiện thuận lợi cho bệnh phân
trắng lợn con xảy ra.
Ở lợn con, tốc độ sinh trưởng nhanh, nhu cầu dinh dưỡng cao để phát
triển và duy trì sự sống, trong khi đó phẩm chất sữa mẹ ngày một giảm kể cả
sắt và hàm lượng globulin, mặt khác ở cơ thể lợn chưa tận dụng được thức ăn
bổ sung, HCl trong dạ dày chưa đủ để tham gia thêm trong việc tiêu hoá sữa
và diệt khuẩn. Khi gặp nhiệt độ thấp, ẩm độ cao biến động lớn sẽ ảnh hưởng
đến điều hoà thân nhiệt, từ đó dẫn đến rối loạn các phản ứng sinh hoá trong cơ
thể, E.coli ngày càng phát triển gây ra ỉa chảy và ỉa phân trắng nặng. Cơ thể
lợn con sẽ bị nhiễm độc, mất nước, cuối cùng trụy tim mạch, nằm thở không
ăn rồi chết.
2.2.2.2. Trực khuẩn Escherichia coli ( E.coli).
Đây là nguyên nhân quan trọng được nhiều nhà khoa học trong nước và
trên thế giới công nhận.
11
Trực khuẩn ruột già Escherichia Coli có tên khoa học là Bacterium
Coli Commune, Bacilus Coli Commune do Escherich phân lập từ phân trẻ em

bị tiêu chảy năm 1885, ( Nguyễn Vĩnh Phước, 1970).
Khi nghiên cứu về cơ chế sinh bệnh do E.coli gây ra thường chú ý đến
độc tố đường ruột của E.coli và được chia làm hai lớp độc tố đường ruột chủ
yếu là độc tố chịu nhiệt ST (heat – stable – toxin) chia làm hai nhóm STa,
STb và độc tố không chịu nhiệt LT (heat – labile – toxin) gồm hai tiểu phần A
và B trong đó tiểu phần B gồm 5 phần nhỏ có khả năng bám dính trên bề mặt
tế bào biểu mô ruột và tiểu phần A có hoạt tính sinh học cao.
Nhiều nghiên cứu còn quan tâm đến yếu tố bám dính, yếu tố gây dung
huyết, khả năng gây xâm nhập của vi khuẩn, khả năng kháng thuốc của
E.coli. E.coli bám dính được vào các tế bào biểu mồ ruột nhờ các yếu tố bám
dính ở bề mặt vi khuẩn như F
4
(K
88
), K
5
(K
99
), F
6
(K
987p
) và F
41
, F
71
, F
18
hoặc
một số yếu tố bám dính khác mà cho đến nay cấu trúc của chúng vẫn chưa

được xác định rõ ràng. Chính các yếu tố bám dính này cùng với độc tố đường
ruột STa, STb, LT đã gây nên quá trình sinh bệnh đặc trưng của E.coli.
Theo Đào Trọng Đạt và cộng sự (1996) cho rằng: Chính ETEC cộng với
các yếu tố bám dính là nguồn gốc của quá trình sinh bệnh học gây ra ở lợn con.
Trực khuẩn E.coli đóng vai trò quan trọng trong nguyên nhân gây bệnh
lợn con phân trắng ở nước ta. Các serotyp E.coli tương đối đa dạng và tuỳ
từng địa phương có thể có serotyp đặc trưng. Tuy nhiên những serotyp gây
bệnh phân trắng lợn con phân lập ở các địa phương tập trung vào O
143
, O
147
,
O
141
, O
149
, O
129
, O
138
, O
115
, O
8
.
E.coli là trực khuẩn đường ruột sống chủ yếu ở ruột già, xuất hiện và
sinh sống ở động vật chỉ vài giờ sau khi sinh và tồn tại đến khi chết.
E.coli sinh sống bình thường trong cơ thể của người và động vật. Ở lợn
khoẻ mạnh, E.coli chỉ cư trú ở ruột già và cuối ruột non. So với loại vi khuẩn
12

khác, E.coli thường xuyên có mặt trong đường tiêu hoá với số lượng lớn, bình
thường chúng ít có khả năng gây bệnh nhưng khi các điều kiện nuôi dưỡng,
khẩu phần thức ăn, vệ sinh thú y kém đều làm cho sức chống đỡ bệnh tật của
con vật yếu thi E.coli trở nên cường độc và có khả năng gây bệnh ( Nguyễn
Như Thanh và cộng sự, 1997).
Bệnh phân trắng lợn con tiêu chảy dưới 30 ngày tuổi ở các cơ sở chăn
nuôi lợn sinh sản đã phân lập được 75 chủng E.coli thuộc 13 serotyp kháng
nguyên là: O
11
, O
86
, O
26
, O
149
, O
1
, O
55
, O
142
,
Đào Trọng Đạt và cộng sự (1996) đã xác định được số lượng E.coli ở
lợn bệnh lớn hơn lợn khoẻ. Theo tác giả, E.coli là nguyên nhân gây bệnh giữ
vai trò thứ phát.
Với những lợn khỏe mạnh, E.coli chỉ cư trú ở ruột già và phần cuối của
ruột non. Vi khuẩn sinh axit lactic có ngay từ khi cơ thể mới sinh ra, chúng
phát triển và tăng về số lượng khống chế sự phát triển của E.coli và vi khuẩn
gây thối, đồng thời ngăn chặn sự phát triển của các bệnh khác. Ngược lại, các
loại vi khuẩn sinh axit phát triển kém làm giảm số lượng và phá vỡ cân bằng

hệ vi sinh vật đường ruột, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn E.coli, vi
khuân gây thối rữa phát triển nhanh về số lượng và độc lực, làm biến đổi bệnh
lý trong đường ruột. Khi hệ vi sinh vật trong đường ruột mất cân bằng thì gây
bệnh phân trắng lợn con và các bệnh kế phát khác, hiện tượng đó gọi là hiện
tượng loạn khuẩn.
2.2.2.3. Do điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng lợn mẹ.
Ở giai đoạn lợn con theo mẹ, sữa là nguồn dinh dưỡng chính, chế độ
chăm sóc lợn mẹ sẽ ảnh hưởng lớn tới chất lượng sữa, từ đó sẽ ảnh hưởng lớn
tới sức đề kháng của lợn con. Sự sinh trưởng và phát triển của lợn con nhanh
hay chậm phụ thuộc rất lớn vào sữa mẹ tốt hay xấu. Nếu sữa mẹ xấu thì dễ
gây rối loạn tiêu hoá cho lợn con, từ đó phát sinh bệnh phân trắng lợn con.
13
Tình trạng sức khoẻ và chế độ chăm sóc nuôi dưỡng lợn mẹ là yếu tố
ảnh hưởng tới chất lượng sữa. Vì vậy, việc cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng
cho lợn mẹ là rất cần thiết, nhằm cung cấp chất dinh dưỡng cho lợn con thông
qua sữa mẹ.
Trong giai đoạn mang thai, việc cung cấp chất dinh dưỡng không chỉ
phục vụ cho cơ thể lợn mẹ, mà còn cung cấp chất dinh dưỡng cho bào thai
phát triển, trong quá trình tích luỹ chất dinh dưỡng để tạo sữa ở giai đoạn cuối.
Nái chửa kỳ I nhu cầu năng lượng là 2700kcal/kg, protein là 15%.
Nái chửa kỳ II nhu cầu năng lượng là 3250kcal/kg, protein là 18 – 18,5%.
Năng lượng nái chửa kỳ II và nái nuôi con nhu cầu cao hơn rất nhiều
so với nái chửa kỳ I. Vì vậy ở giai đoạn chửa kỳ II, bào thai phát triển rất
mạnh, đặc biệt 30 ngày trước khi đẻ. Do vậy, việc nuôi lợn nái chửa kỳ cuối
là quan trọng, vì nó quyết định trọng lượng sơ sinh của lợn con. Đây là một
trong những chỉ tiêu để nâng cao năng suất của đàn nái sinh sản, đồng thời nói
lên sức khoẻ của đàn lợn sơ sinh.
Các chất dinh dưỡng cung cấp cho lợn mẹ, ngoài việc đáp ứng nhu cầu
năng lượng và protein cho lợn mẹ, thì nó còn cung cấp cho lợn mẹ các
vitamin, khoáng, đặc biệt là protein tạo kháng thể để chống lại các vi sinh vật

gây hại.
Nếu lợn mẹ không được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng thì bào
thai phát triển không bình thường hay phát triển kém. Khi đó lợn con sinh ra
sẽ yếu, dễ bị mắc bệnh, nhất là bệnh đường tiêu hoá, hô hấp, tuần hoàn.
Lợn con sau khi sinh không ngừng sử dụng protein để xây dựng các mô
bào mới trong quá trình phát triển, đồng thời khôi phục và tu bổ lại các mô
bào cũ. Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng chủ yếu và đầu tiên mà lợn con tiếp xúc.
Vì vậy, nếu khẩu phần ăn của lợn mẹ không đủ protein, thiếu khoáng đa
14
lượng, vi lượng, dẫn đến làm lợn mẹ thiếu chất dinh dưỡng, kéo theo là số
lượng sữa giảm, chất lượng sữa xấu, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe lợn con.
Mặt khác, ở gian đoạn lợn sơ sinh, lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh
về giải phẫu và sinh lý nên quá trình tiêu hoá và hấp thu kém, điều hoà nhiệt
kém, hệ thống miễn dịch chưa hoạt động, nên việc tạo sữa tốt cho lợn con bú
là rất quan trọng và sự tạo sữa của lợn mẹ ở các giai đoạn khác nhau là khác
nhau, giai đoạn mới sinh từ 1 – 3 ngày đầu có quá trình tiết sữa đầu có hàm
lượng protein rất cao 18 – 19%, protein huyết thanh là 34 – 38% protein tổng
số. Do đó, phải có quá trình tập ăn thích hợp cho lợn con.
So với các lứa tuổi khác thì lợn con có quá trình trao đổi chất và năng
lượng cao. Khi lợn con sinh ra, nguồn năng lượng từ mẹ bị mất đột ngột, thân
nhiệt lợn con giảm nhanh. Thân nhiệt của lợn mới sinh là 38,9 – 39,1
0
C,
nhưng sau 30 phút giảm xuống còn 36,7 – 37,1
0
C. Trong vòng 1 giờ sau khi
sinh, nếu lợn con được bú sữa đầu thì sau 8 – 12 giờ thân nhiệt lợn con sẽ
được ổn định trở lại, còn nếu lợn con không được bú sữa đầu thì sự mất nhiệt
sẽ là nguyên nhân gây bệnh phân trắng lợn con.
Trong sữa đầu hàm lượng các vitamin A, D, B

1
, C cao hơn rất nhiều so
với sữa thường. Ngoài ra trong sữa đầu còn có MgSO
4
có tác dụng tẩy rửa các
chất cặn bã trong đường tiêu hoá của lợn con sơ sinh làm tăng nhu động ruột,
làm quá trình tiêu hoá tốt. Đặc biệt trong sữa đầu có hàm lượng kháng thể γ –
globulin, việc cho lợn con bú sữa đầy đủ là rất cần thiết để cung cấp hàm
lượng kháng thể đáng kể chống lại sự xâm nhiễm của các vi khuân gây bệnh,
đồng thời tăng sức đề kháng của cơ thể.
2.2.2.4. Do đặc điểm sinh lý của gia súc non.
Khi sinh ra, trong dạ dày của lợn con còn thiếu axit HCl nên pepsinogen
tiết ra không chuyển thành pepsin. Do thiếu men pepsin mà sữa bị kết tủa
15
dưới dạng cazein không tiêu hoá được bị đẩy xuống ruột già gây rối loạn tiêu
hoá, dẫn đến bệnh phân trắng lợn con.
Đặc biệt, ở lợn con sơ sinh vỏ não và các trung tâm điều tiết thân nhiệt
của lợn con chưa hoàn chỉnh. Do vậy, nó không kịp thích nghi với sự thay đổi
bất thường của thời tiết, khí hậu. Trong quá trình chuyển hoá cân bằng năng
lượng từ cơ thể ra môi trường ngoài sau sinh là rất chậm chưa thích nghi được
ngay nên dễ bị tác động bởi môi trường. Do đó, tạo điều kiện thích hợp trong
quá trình lợn sinh sản để lợn con khi sinh ra không bị thay đổi nhiệt độ cơ thể
đột ngột.
Lượng mỡ dưới da của lợn con lúc mới sinh chỉ có khoảng 1%. Lúc khí
hậu thay đổi, lợn con mất cân bằng giữa hai quá trình sản nhiệt và thải nhiệt.
Đặc điểm này đã lý giải tại sao bệnh này lại hay xảy ra hàng loạt, ồ ạt khi khí
hậu thời tiết thay đổi thất thường.
Mặt khác, gia súc non trong thời kỳ bú sữa có tốc độ phát triển và tăng
trọng rất nhanh nên đòi hỏi phải cung cấp đạm, khoáng và các vitamin đầy đủ.
Trong khi đó, sữa mẹ ngày càng giảm về số lượng và chất lượng. Do vậy, nếu

không bổ sung kịp thời chất dinh dưỡng cho gia súc non, thì sẽ gây còi cọc,
chậm lớn, dễ nhiễm bệnh, điển hình trong giai đoạn theo mẹ là bệnh phân
trắng lợn con.
Một trong những yếu tố quan trọng nhất trong các nguyên nhân gây
bệnh đường tiêu hoá là do thiếu sắt. Khi còn là bào thai lượng thai chưa được
cung cấp đầy đủ. Khi ra ngoài môi trường sống, thì lượng sữa mẹ chỉ cung
cấp được 1/6 Fe mà cơ thể non yêu cầu. Nhiều thực nghiệm đã chứng minh
trong cơ thể sơ sinh phải có 40 – 50mgFe/ngày, nhưng lợn con chỉ nhận được
lượng sắt ít nhất là 1mgFe/ngày thông qua sữa mẹ. Vì vậy, cần bổ sung thêm
lượng sắt ít nhất là 200 – 250mg/con để lợn con tránh thiếu máu. Trong sữa
mẹ không chỉ thiếu Fe mà còn thiếu Coban, vitamin B
12
tham gia vào quá
16
trình tạo máu, tổng hợp và hoạt hoá một số enzim. Do đó, lợn con dễ sinh
bầm huyết, cơ thể suy yếu, sức đề kháng giảm, lợn con dễ mắc bệnh ỉa phân
trắng.
2.2.2.5. Do virus.
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu đến vai trò của virus.
Lecce.J.G và cộng sự (1976) , Bolh E.H và cộng sự (1979): Khi nghiên cứu
về hội chứng về hội chứng viêm ruột ỉa chảy ở lợn con đã tìm thấy Rotavirus.
Năm 1990 đã phân lập được Rotavirus trong niêm mạc ruột lợn bệnh
lợn con phân trắng.
2.2.3. Cơ chế sinh bệnh.
Lợn con theo mẹ (dưới 21 ngày tuổi) có sự mâu thuẫn gay gắt giữa quy
luật sinh trưởng và tăng trọng (nhất là giống lợn ngoại và lợn lai) do sự chưa
hoàn thiện của các cơ quan bộ phận trong cơ thể, đặc biệt là bộ máy tiêu hoá,
thần kinh. Lợn con ở những ngày đầu mới sinh hàm lượng HCl tự do trong dạ
dày hầu như không có, dẫn tới khả năng tiêu hoá sữa mẹ của lợn con kém
(Trần Cừ, 1987), làm giảm khả năng phòng bệnh của lợn con. Khi lợn con

gặp các tác nhân có hại như: Vi khuẩn, thời tiết thay đổi đột ngột, dinh dưỡng
kém, sẽ tác động trực tiếp vào hệ tiêu hoá gây bội nhiễm vi khuẩn đường ruột.
Các vi khuẩn có hại sẽ phát triển nhanh, tăng cả về số lượng và độc lực.
Khi nói đến nguyên nhân bệnh do E.coli, để gây được bệnh, vi khuẩn
E.coli phải có kháng nguyên bám dính như: F
4
(K
88
), F
5
(K
99
), F
6
(K
987p
), F
41
,
F
18
Nhờ kháng nguyên bám dính mà vi khuẩn bám vào nhu mao ruột non,
phát triển nhanh về số lượng và sản sinh độc tố đường ruột Enterotoxin. Độc
tố đường ruột phá huỷ tổ chức đường ruột và làm thay đổi cân bằng trao đổi
nước, chất điện giải, làm nước được hút từ cơ thể vào ruột gây hiện tượng tiêu
chảy.
17
Đào Trọng Đạt (1996) cho rằng: Khi lợn con đi ngoài nhiều lần sẽ mất
nước, gây rối loạn chức năng sinh lý tiêu hoá, hấp thu của ống tiêu hoá. Dẫn
đến rối loạn cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột. Vi khuẩn có men gây thối

phát triển mạnh, làm cho quá trình bệnh càng thêm trầm trọng.
Như vậy, quá trình sinh bệnh của bệnh phân trắng lợn con đã đưa lợn
vào ba trạng thái rối loạn:
− Rối loạn chức năng tiêu hoá – hấp thu.
− Rối loạn cân bằng muối, nước và các chất điện giải.
− Rối loạn cân bằng của hệ vi sinh vật đường ruột.
2.2.4. Triệu chứng - bệnh tích.
2.2.4.1. Triệu chứng.
Lợn con mắc bệnh đa số thân nhiệt không tăng, nếu tăng thì sau 2 – 3
ngày là hạ xuống bình thường cũng có con thì thân nhiệt hạ xuống do ỉa chảy
mất nước nhiều. Lợn con mắc bệnh, trong 1 – 2 ngày đầu vẫn bú và chạy nhảy
như thường. Sau đó con vật ít bú sữa hay bỏ bú, gầy tóp nhanh chóng, lông
xù, đuôi rũ, da nhăn nheo, nhợt nhạt, hai chân sau run rẩy và dúm lại, đuôi và
khoeo dính đầy phân. Khi con vật đi ỉa rặn nhiều làm lưng uốn cong, bụng tóp
lại, thể trạng đờ đẫn, nằm nhiều hơn. Có con ỉa chảy mất nước nhiều thì hố
mắt trũng xuống, niêm mạc mắt, mũi, miệng nhợt nhạt, chân lạnh. Thần kinh
co giật từng cơn, cảm giác ở da bị mất. Vật bị bệnh nếu không cứu chữa kịp
thời thì sau 5 – 7 ngày cơ thể quá kiệt sức dẫn đến chết. Nếu gia súc qua khỏi
thì còi cọc chậm lớn.
Ngoài việc chẩn đoán dựa vào các triệu chứng trên thì bệnh còn được
xác định chủ yếu dựa vào trạng thái thay đổi của phân qua các giai đoạn bệnh:
− Giai đoạn đầu kể từ 12 – 24 giờ trước khi bị bệnh lợn con đi ỉa khó
khăn, phân táo vón, đen nhỏ như hạt đỗ đen.
18
− Giai đoạn tiếp theo, phân táo vón chuyển sang sền sệt, màu vàng, sau 2 – 3 ngày
chuyển thành màu vàng trắng hay trắng xám, sau có thể là vàng xanh. Phân
ngày một lỏng hơn, số lần ỉa chảy cũng ngày một nhiều, có khi 15 – 20
lần/ngày, có mùi tanh khắm, trong phân có những hạt sữa chưa tiêu lổn nhổn
như vôi hay có lẫn nhiều bọt khí. Có trường hợp mới mắc bệnh đến ngày thứ
3 phân đã loãng như nước tháo ra tung toé, lúc này lợn mất nước nặng, lợn rơi

vào trạng thái hôn mê, hấp hối và chết, tỷ lệ chết cao có thể là 40 – 70%, thậm
chí 100%.
− Giai đoạn khỏi bệnh, lợn đi ỉa phân từ trắng xám chuyển thành xám đen
hay đen, phân đặc dần thành khuôn như phân lợn khoẻ.
2.2.4.2. Bệnh tích.
Xác chết gầy, đuôi và khoeo dính đầy phân, mắt trũng sâu, lông da khô
mất tính đàn hồi.
Dạ dày chứa đầy sữa đông vón có màu vàng trắng chưa tiêu mùi khó
ngửi. Ruột non căng phồng chứa đầy hơi, dịch màu vàng và có xuất huyết
điểm ở thành ruột, niêm mạc ruột bị hoại tử từng đám, trong ruột già chứa
phân màu vàng, màng treo ruột xuất huyết, hạch màng treo ruột sưng. Đặc
biệt lách không sưng, đó là đặc điểm khác với bệnh truyền nhiễm. Nếu bệnh
nhẹ hầu như lách bình thường. Nếu bệnh nặng lách hơi bị teo, gan bình
thường đôi khi hơi sưng.
Một số trường hợp lợn con bị viêm phổi, xoang ngực, xoang bụng chứa
dịch. Trước đây, ở nước ta chưa có tác giả nào nghiên cứu về các biến đổi
bệnh lý cấu trúc niêm mạc ruột non ở lợn có bệnh phân trắng. Tạ Thị Vịnh
(1996) đã công bố một công trình về lĩnh vực này cho ta thấy: Khi lợn con bị
bệnh phân trắng tế bào biểu mô của ruột non bị biến dạng từ đơn trụ chuyển
sang đơn hộp, dẹp, tế bào bị tổn thương, rồi thoái hoá, hoại tử và bong khỏi
19
lông nhung. Lông nhung bị teo ngắn, biến dạng kết dính. Riềm bàn chải sắp
xếp lôn xộn, đứt nát, có nơi mất hoàn toàn.
Ống tuyến lieberkuhn tăng sinh sâu, các tế bào biểu mô trong ống tuyến
phân chia nhiều hơn, chỉ số phân bào tăng. Men photphataza kiềm giảm hoạt
tính. Lợn con bị thiếu máu trầm trọng.
PHẦN III : ĐỐI TƯỢNG – NỘI DUNG – NGUYÊN LIỆU VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
− Đàn lợn nái nuôi tại trang trại Đồng Tâm Xanh – Xã Đồng Tâm –

Huyện Mỹ Đức – Hà Nội.
− Đàn lợn con được sinh ra từ những lợn mẹ tại trang trại Đồng Tâm Xanh.
20
3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
– Khảo sát tình hình chăn nuôi thú y tại cơ sở.
– Tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh sản tại trang trại.
− Một số chỉ tiêu lâm sàng của lợn nái mắc bệnh viêm tử cung.
− Tỷ lệ lợn con theo mẹ bị tiêu chảy trên đàn lợn mẹ bị viêm tử cung tại
trang trại Đồng Tâm Xanh.
− Một số chỉ tiêu lâm sàng của lợn con theo mẹ bị tiêu chảy tại trang trại
Đồng Tâm Xanh.
− Xác định mối liên hệ giữa bệnh viêm tử cung bệnh tiêu chảy lợn con.
− Thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung trên đàn lợn
nái và theo dõi thời gian khỏi bệnh, tỷ lệ khỏi.
− Thử nghiệm điều trị tiêu chảy ở lợn con, kết hợp điều trị bệnh viêm tử
cung ở lợn mẹ.
3.3. NGUYÊN LIỆU.
+ Thuốc sử dụng để điều trị bệnh: Vetrimocin, Oxytocin,
Dexamethason , Nor 100, Ampisure, Bcomplex, nước muối sinh lý do công
ty thuốc thú y Minh Dũng sản xuất.
+ Dụng cụ thú y: kim tiêm, bơm tiêm, pank, kéo, kẹp
+ Sổ ghi chép, sổ theo dõi của trại.
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu.
− Số liệu được thu thập từ sổ sách của chủ trại, cán bộ kỹ thuật bao gồm
các số liệu về thức ăn, chuồng trại và quản lý bệnh dịch.
− Theo dõi và ghi chép trực tiếp.
3.4.2. Phương pháp xác định các chỉ tiêu lâm sàng.
Để xác định một số chỉ tiêu lâm sàng chính như: Thân nhiệt, màu sắc
dịch viêm, mức độ thu nhận thức ăn chúng tôi đã sử dụng những phương

21
pháp thường quy đếm nhiều lần hoặc quan sát vào một thời điểm quy định
và lấy số bình quân.
+ Thân nhiệt: Dùng nhiệt kế thuỷ ngân để đo thân nhiệt, một ngày
đêm đo 2 lần: Sáng: 7 – 9h; Chiều: 16 - 18h.
+ Màu sắc dịch viêm: Theo dõi, quan sát bằng mắt thường và ghi
chép.
+ Bỏ ăn: Theo dõi, quan sát, kiểm tra lượng thu nhận thức ăn và ghi
chép.
3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu.
− Số liệu theo dõi, ghi chép được xử lý theo phương pháp thống kê sinh
học trên phần mềm Excel và Minitap 14
− Các chỉ tiêu quan tâm bao gồm:
Tỷ lệ mắc bệnh =
tổng số con mắc bệnh
X 100%
tổng số con theo dõi
Tỷ lệ khỏi bệnh =
số con khỏi bệnh
X 100%
số con được điều trị
− Sự sai khác giữa các tỷ lệ được kiểm tra bằng phép thử khi bình
phương (χ
2
).
− Thời gian khỏi trung bình (ngày) =
n
nX
ii
.


X
i
: Số ngày điều trị khỏi (i = 1, 2, 3, 4)
n
i
: Số con điều trị khỏi bệnh
n: Tổng số con điều trị khỏi
22
- Số trung bình (
Χ
):
Χ
=
n
X
n
i
i

=1
- Độ lệch chuẩn S
x
nếu n < 30 thì

nếu n > 30 thì
Trong đó :
n : dung lượng mẫu
X
i

: Giá trị của biến số thứ i
X
: Giá trị trung bình
S
x
:

Độ lệch chuẩn
m
x
: Sai số của giá trị trung bình
PHẦN IV: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN.
4.1. VÀI NÉT VỀ TRẠI GIỐNG ĐỒNG TÂM XANH.
Trại giống Đồng Tâm Xanh trực thuộc công ty cổ phần Cường Thành.
Trại đóng trên địa bàn xã Đồng Tâm – Mỹ Đức – Hà Nội. Đây là vùng có
S
x
=

∑ (Xi -
X
)
n – 1
m
x
= S
x
1

n


m
x
= S
x
n

23
điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Trại được xây dựng
trên mặt bằng thuận lợi với quy mô công nghiệp, có các phía tiếp giáp sau:
− Phía Đông giáp với xã Phúc Lâm – Mỹ Đức – Hà Nội.
− Phía Nam giáp với Thượng Lâm - Mỹ Đức - Hà Nội
− Phía Tây giáp với thị trấn Miếu Môn – Chương Mỹ – Hà Nội.
− Phía Bắc giáp với Chương Mỹ – Hà Nội.
Với vị trí địa lý xa khu dân cư, xa trường học, xa chợ, thuận đường giao
thông… thì đây là điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển chăn nuôi. Trại
được xây dựng với quy mô nước thải hợp lý, có bể chứa biogas, đảm bảo an
toàn phòng dịch và vệ sinh thú y.
4.1.1. Quy mô trại.
Tổng diện tích đất tự nhiên của trại là 7ha, trong đó:
− Diện tích mặt bằng chuồng nuôi là 6000m
2
gồm:
+ 2 chuồng bầu
+ 4 chuồng đẻ
+ 1 chuồng cách ly
− Diện tích vườn sinh thái là 2ha
− Diện tích khu xử lý chất thải là 3600m
2
− Diện tích ao nuôi cá là 4500m

2
− Diện tích nhà xưởng sản xuất phân vi sinh là 1000m
2
Diện tích còn lại để xây dựng khu nhà làm việc, nhà ăn ở sinh hoạt cho
đội ngũ cán bộ công nhân viên trong trại, trồng cây thức ăn cho cá, trồng rau
phục vụ sinh hoạt hàng ngày.
Với diện tích như vậy, lại nằm trên địa bàn có vị trí địa lý thuận lợi để
công ty xây dựng chuồng trại khu chăn nuôi một cách hợp lý, đảm bảo vệ sinh
phòng dịch, góp phần vào sự phát triển của công ty.
24
4.1.2.Điều kiện thời tiết khí hậu.
Trang trại có vị trí nằm trong khu vực có điều kiện thời tiết của vùng
đồng bằng Bắc Bộ cho nên khí hậu mang nhiều đặc điểm của vùng, quanh
năm có 4 mùa rõ rệt: Xuân – Hạ – Thu – Đông.
Đặc trưng khí hậu của vùng là khí hậu nóng ẩm mưa nhiều. Theo kết
quả điều tra thì nhiệt độ trung bình hàng năm là 20 – 40
0
C, lượng mưa hàng
năm trung bình từ 1600 – 1800mm, độ ẩm từ 70 - 80%
Với khí hậu theo mùa khá rõ rệt thì đó là điều kiện vừa thuận lợi, vừa
khó khăn cho công tác chăn nuôi.
4.1.3. Trang trại gồm có:
− 1 Giám đốc
− 2 Quản đốc
− 2 Tổ trưởng, 2 tổ phó
− 35 Công nhân có trình độ phổ thông
4.2. TÌNH CHĂN NUÔI THÚ Y.
4.2.1. Tình hình chăn nuôi.
4.2.1.1. Cơ cấu số lượng đàn lợn tại trại.
Giống lợn tại trại: lợn nái lai F1(Lanidrace X Yorkishire), đực Pedu,

đực Pietrain, đực Duroc, cái Landrace, cái Yorkishire
Với tính chất chăn nuôi sản xuất lợn con dùng trong chăn nuôi lợn thịt,
cơ cấu đàn lợn của trại được thể hiện qua bảng 4.1.
Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn của trang trại từ năm 2008 – 2011.
STT Loại lợn Số lượng
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
T10 năm
2011
25

×