Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Cam hung nhan dao, nhan van trong Vo chong A Phu pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.23 MB, 7 trang )

Công ty Cổ phầ n Đầ u tư Công nghệ Giáo dụ c IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
P
VỢ CHỒ NG A PHỦ – NHỮ NG THÂN PHẬ N TRÂU NGỰ A,
NHỮ NG TÂM HỒ N ĐẸ P ĐẼ VÀ CẢ M HỨ NG NHÂN VĂN CỦ A
VĂN HỌ C CÁCH MẠ NG
Vợ chồ ng A Phủ là tác phẩ m trong tậ p Truyệ n Tây Bắ c củ a Tô Hoài, đư ợ c giả i nhấ t
tiể u thuyế t, giả i thư ở ng Hộ i Văn nghệ Việ t Nam 1954-1955. Vợ chồ ng A Phủ đư ợ c sáng tác
vào khoả ng 1952-1953, là kế t quả củ a cuộ c thâm nhậ p đờ i số ng v ào các dân tộ c Thái, Dao,
Hmông, Mư ờ ng trên các vùng cao Tây Bắ c đấ t nư ớ c. Trư ớ c và sau khi sáng tác truyệ n này,
Tô Hoài đã và vẫ n giữ mộ t tình cả m sâu nặ ng vớ i đồ ng bào miề n núi. Ông từ ng số ng chung
vớ i họ , ông họ c mộ t ít tiế ng Thái, Hmông để giao tiế p, từ ng đo tay kế t l àm anh em vớ i mộ t
số ngư ờ i, từ ng nhậ n mộ t ngư ờ i con Hmông làm con nuôi, từ ng là bạ n thân củ a nhiề u cán bộ
lãnh đạ o ngư ờ i miề n núi. Có thể nói Vợ chồ ng A Phủ cũng như các truyệ n khác trong Truyệ n
Tây Bắ c là kế t tinh củ a vố n số ng, vố n hiể u biế t v à nhấ t là tình yêu thư ơ ng, lòng kính trọ ng
củ a nhà văn đố i vớ i ngư ờ i dân miề n núi Tây Bắ c nư ớ c ta.
Vợ chồ ng A Phủ và cả tậ p Truyệ n Tây Bắ c có mộ t vị trí chắ c chắ n trong văn họ c
đư ơ ng đạ i Việ t Nam. Nó mở rộ ng đề tài văn họ c sang nhữ ng vùng núi hẻ o lánh chư a đư ợ c
nhà văn đào xớ i. Nó nhìn nhậ n con ngư ờ i miề n núi vớ i mộ t tình cả m trân trọ ng, yêu thư ơ ng,
gầ n gũi. Và chủ yế u là truyệ n ngắ n đã xây dự ng đư ợ c nhữ ng hình tư ợ ng số ng độ ng làm
ngư ờ i đọ c nhớ mãi. Tác phẩ m đã đư ợ c nhà văn chuyể n thể và dự ng thành phim.
Bả n thân truyệ n Vợ chồ ng A Phủ đã đư ợ c viế t đi viế t lạ i mấ y lầ n. Văn bả n h iệ n nay
là kế t quả củ a lầ n viế t thứ ba, khác nhiề u so vớ i lầ n đầ u ti ên. Tuy vậ y tác giả vẫ n thấ y
thành công chư a đề u. “Phầ n sau truyệ n còn lỏ ng lẻ o so vớ i phầ n trư ớ c” . Phầ n sau là phầ n
kể vợ chồ ng A Phủ sau khi đế n Phiề ng Sa, Tô Ho ài vẫ n mong đư ợ c viế t lạ i. Trong kị ch phim
Vợ chồ ng A Phủ ông đã viế t hay hơ n, đư ợ c nhà văn Nguyễ n Tuân khen. Như ng câu chuyệ n
viế t lạ i không phả i là chuyệ n dễ dàng. Trong tậ p Truyệ n ngắ n Việ t Nam 1945-1985 (Nxb
Văn họ c, Hà Nộ i, 1985), khi tuyể n truyệ n này, tác giả đã cắ t bỏ phầ n sau và truyệ n kế t thúc
ở đoạ n hai ngư ờ i đã bỏ xa Hồ ng Ngài tớ i Phiề ng Sa. Câu “Hai ngư ờ i nhậ n là vợ chồ ng. Mà
thậ t thì A Phủ và Mị đã thành vợ chồ ng” đã khép lạ i câu chuyệ n.
Chủ đề củ a truyệ n Vợ chồ ng A Phủ , theo lờ i Tô Hoài phát biể u vào năm 1960 là:


“Nông dân các dân t ộ c Tây Bắ c bao năm gian khổ chố ng đế quố c v à bọ n chúa đấ t. Cuộ c
đấ u tranh giai cấ p, riêng ở Tây Bắ c, mang mộ t sắ c thái đặ c biệ t. Nh ìn lư ớ t qua nơ i thế lự c
phong kiế n còn đư ơ ng kéo lùi đấ t nư ớ c lạ i hàng trăm năm trư ớ c” , như ng “các dân tộ c đã
không lặ ng lẽ chị u đự ng. Họ đã thứ c tỉ nh. Cán bộ củ a Đả ng tớ i đâu th ì các dân tộ c đứ ng lên
tớ i đấ y, trư ớ c nhấ t là nhữ ng ngư ờ i trẻ tuổ i. Họ thậ t đẹ p và yêu đờ i… còn mộ t phút số ng vẫ n
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
Q
còn chờ đợi, vẫn mong, vẫn tin một ng ày bình yên, yên vui của tình yêu và của đất nước”.
Hơn 40 năm sau, khoảng năm 1994, Tô Hoài lại nhấn mạnh đến số phận đắng cay của
người phụ nữ miền núi, ngoài việc lao động cực nhọc, còn bị mê tín, thần quyền cầm tù
trong tinh thần. Nhưng tình yêu và tuổi trẻ đã chiến thắng tù ngục phong kiến và thần
quyền. Cuộc kháng chiến của các dân tộc đã đưa học lên con đường chiến đấu bảo vệ hạnh
phúc của chính họ. Tác giả đặc biệt l ưu ý tới vẻ đẹp của tuổi trẻ và tình yêu của họ, vẻ đẹp
của tâm hồn Mị trong giờ khắc cắt dây cứu thoát cho A Phủ v à cho chính mình. Có thể coi
đó là những gợi ý để đi sâu phân tích nội dung v à nghệ thuật tác phẩm.
1. Nhữ ng thân phậ n trâu ngự a n ơ i đị a ngụ c trầ n gian
Mở đầu tác phẩm, tác giả giới thiệu ngay với ng ười đọc hình ảnh của Mị, một cô gái,
con dâu thống lí, mặt buồn rười rượi: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải,
chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” – Đó là
nét mặt muôn thuở của cô dâu trừ nợ, một sản phẩm của chế độ bóc lột nợ l ãi miền núi.
Bố mẹ Mị vay tiền của thống lí để làm đám cưới, mỗi năm trả lãi một nương ngô.
Mười mấy năm, bố mẹ đẻ ra Mị, Mị đã lớn, rồi mẹ Mị đã chết, bố Mị già yếu mà vẫn không
trả hết nợ! Nhà thống lí bắt Mị về làm dâu gán nợ. Sau này A Phủ cũng bị buộc vay nợ nộp
phạt và phải ở nợ. “Bao giờ có tiền thì cho về, chưa có tiền thì phải ở làm con trâu con
ngựa” cho thống lí. Đời này, “đời con, đời cháu, bao giờ hết nợ th ì thôi”. Như vậy là người ở
nợ sẽ trở thành trâu ngựa đời đời, không mong gì thoát ra được!
Hai từ “trâu ngựa” trong miệng thống lí Pá Tra nói ra hoàn toàn không phải là nói
theo nghĩa bóng, mà là theo nghĩa đen. Mị về làm dâu chỉ có vùi vào việc cả đêm lẫn ngày.
Quanh năm suốt tháng, lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ

ra trước mặt… Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa
thì đi nương bẻ bắp, và dù đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh
tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời nh ư thế.
Chồng Mị không xem Mị là người, “chẳng năm nào cho Mị đi chơi Tết”. Khi thấy Mị
muốn đi chơi, A Sử liền bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng
sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, nó quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị
không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt l ưng xanh ra ngoài áo rồi
tắt đèn, khép cửa buồng lại. Hắn trói vợ cũng nh ư thắt cái dây lưng, tắt đèn khép cửa, dửng
dưng, lạnh lùng, không suy nghĩ, không xúc động! Đoạn sau, khi Mị bóp thuốc cho A Sử,
mệt quá thiếp đi, A Sử tàn nhẫn “đạp chân vào mặt Mị”. Nhà Pá Tra đã có lần trói đứng một
người con dâu cho đến chết. Đến lượt A Phủ cũng bị trói đứng nh ư vậy! Có thể nói đó là
một tục lệ đã mất hết nhân tính.
Củng cố cho tục lệ ấy là tư tưởng mê tín dị đoan. Cướp vợ về, trình ma, cho người
vay nợ, cũng trình ma. Một thế lực vô hình trói buộc và hù doạ người dân lao động miền
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
R
núi, làm cho họ sợ hãi, cam chịu, nằm im trong kìm kẹp. Cảnh tiếng nhạc sinh tiền cúng ma
rập rờn, cảnh Pá Tra đốt hương lầm rầm khấn ma về nhận mặt người vay nợ vàng tăng
thêm không khí khủng khiếp nơi miền núi âm u, ma thiêng nước độc. Tác giả đã khắc hoạ
được sâu sắc cảnh địa ngục trần gian, n ơi giam hãm những người dân lao động vô tội. Đó là
một bản cáo trạng đối với chế độ phong kiến mi ền núi man rợ, cấu kết với thực dân Pháp.
Theo Tô Hoài trong Cát bụ i chân ai cho biết, từ năm 1918, người Mèo (Hmông) ở Đông
Dương trực thuộc chính phủ Pháp m à đại diện là quan công sứ đầu tỉnh. Người Mèo đặt ra
thống lí, thống soái cai trị tự quản. Đó l à những chức quan đặt ra từ thời Pháp để k ìm kẹp
nhân dân. Không có cách mạng không thể giải phóng cho những con ng ười vô tội ấy.
Bị cáo trong bản cáo trạng ấy l à A Sử và Pá Tra – cha hắn. Cho vay nặng lãi, coi
mạng người như cỏ rác, lợi dụng mê tín thần quyền, cấu kết với quan Tây, cha con Pá Tra l à
những kẻ hiện thân cho cái ác, cho thế lực phản động. Nh à văn khắc họa không nhiều,
nhưng chỉ vài nét mà người đọc không quên được bộ mặt tàn nhẫn, mất hết tính người của

chúng.
2. Nhân vậ t Mị
Mị là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của truyện Vợ chồ ng A Phủ . Mị là hiện
thân cho tuổi trẻ miền núi bị vùi dập và đã vùng lên tự giải thoát cho mình. Mị là linh hồn
của truyện Vợ chồ ng A Phủ . Mở đầu tác phẩm, Tô Hoài giới thiệu Mị là một cô gái lúc nào,
làm gì cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Đó là hình bóng của con người bị chà đạp và tuyệt
vọng. Nhưng Mị là ai, những ai đứng ngoài hoặc làm khách của nhà thống lí thì không thể
hiểu được. Phải là người nghèo ở Hồng Ngài, những người cùng số phận với Mị mới hiểu Mị.
Đời Mị trong tác phẩm có thể chia l àm bốn đoạn: Đoạn trước khi làm dâu, đoạn mới
về làm dâu, đoạn làm dâu đã quen và đoạn cứu A Phủ rồi bỏ trốn cùng A Phủ. Ta hãy phân
tích nhân vật Mị theo bốn chặng đường đời đó.
a) Trước khi bị bắt về làm dâu trừ nợ, Mị là người con gái hạnh phúc. Cô yêu đời,
thổi kèn lá cũng hay như thổi sáo. Cô đã trải qua những đêm tình mùa xuân say mê. “Trai
đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị lại có khát vọng tự do, muốn l àm chủ đời mình.
Khi nhà Pá Tra muốn lấy cô về trừ nợ, bố Mị chưa kịp có ý kiến gì, thì Mị đã nói ngay: “Con
làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nh à giàu”.
b) Khi bị cướp về làm dâu, bị trình ma nhà thống lí, Mị đã đau đớn, uất ức. “Có đến
mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô không thể chấp nhận thân phận làm nô lệ cho nhà
giàu. Cô hái lá ngón (thứ lá độc), hai mắt đỏ hoe, về ch ào bố để đi chết. Nhưng cô chết thì
bố phải trả nợ, mà bố thì đã quá già yếu rồi. Cô không thể chết. “Mị chỉ b ưng mặt khóc. Mị
ném nắm lá ngón xuống đất”. Mị khóc cho đời m ình, cho số phận mình. Mị ném nắm lá
ngón như ném cái khát vọng được giải thoát cho riêng mình! Từ đây, Mị sẽ không nghĩ về
mình nữa, cô chỉ sống làm trâu ngựa để trả nợ cho bố mà thôi!
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
S
c) Mấy năm sau, khi bố Mị chết, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, b ởi vì “Mị
quen cái khổ rồi”. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa,… con ngựa chỉ
biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Mị không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi
nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau… mỗi năm, mỗi m ùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại:

“Tết xong thì hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa đi nương bẻ bắp, và
dù hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để t ước sợi”. Đời Mị
chỉ còn là việc và việc nối tiếp nhau, con người Mị rút lại chỉ là cái công cụ, là con vật để sai
khiến. Cha con Pá Tra cũng không coi Mị l à người. A Sử không tết nào cho Mị đi chơi. Thấy
Mị muốn đi chơi thì A Sử chẳng nói chẳng rằng đem một thúng sợi đay lại trói đứng cô v ào
cột, xong rồi khép cửa ra đi. Người nhà thấy Mị bị trói đứng cô vào cột, xong rồi khép cửa ra
đi. Người nhà thấy Mị bị trói đứng như thế suốt đêm cũng không ai hỏi. Thế mà liền đấy,
vừa mới được cởi trói thì cô phải đi hái lá thuốc về xoa bóp cho chồng, nhỡ mệt thiếp đi th ì
A Sử liền lấy chân đạp vào mặt Mị! Thật không ở đâu mạng sống con ng ười, nhân cách con
người bị coi rẻ đến như thế! Cũng không ở đâu con người lại tự coi rẻ mình một cách tuyệt
vọng như thế! Mị cam chịu thân phận của con r ùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái
buồng con kín mít trông ra cái cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết th ì thôi”.
Nhưng đó chỉ là một phần trong con người của Mị. Chỗ sâu sắc của tác giả, tấm l òng
nhân đạo của tác giả không chỉ biểu hiện ở t ình cảm xót thương Mị, ở việc tố cáo thói tục
phi nhân tính của tầng lớp thống trị, mà còn thể hiện ở việc nhìn ra con người bên trong của
Mị và đặt trọn niềm thương yêu vào đó.
Như trên đã nói Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, có một tính cách muốn l àm chủ đời
mình. Tính cách ấy không bao giờ chết, nó chỉ tạm thời bị nén xuống để khi có dịp lại b ùng
lên. Dịp ấy là một mùa xuân Tết đến, mấy năm sau, khi đầu núi có tiếng sáo rủ bạn đi ch ơi.
Mị nghe tiếng sáo thiết tha, bổi hổi, tự nhi ên ngồi nhẩm thầm bài hát. Trong không khí đón
tết của mọi người “Mị cũng uống rượu. Mị lén lấ y hũ rư ợ u, cứ uố ng ự c từ ng bát”. Cách uống
rượu của Mị như báo hiệu một hành động nổi loạn chống lại thân phận m à chính Mị chưa ý
thức rõ rệt. “Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nh ìn mọi người nhảy đồng… nhưng lòng Mị thì
đang sống về ngày trước”. Cơn say đã giúp Mị quên đi tình cảnh hiện tại để sống với đêm
tình ngày xưa. Thời gian ngày trước như hiện về. Mị đang sống với hai con ng ười: con người
thực tại, theo quán tính thì “đứng dậy”, “từ từ bước vào buồng”, “ngồi xuống giường, trông
ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”; con ng ười tâm linh thì “đột nhiên vui sướng như
những đêm Tết ngày trước”.
Nhói lên trong tâm tư M ị một tình cảm thương xót mình: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn
trẻ”, một tình cảm oán hờn: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A

Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”, rồi đột khởi, một t ình cảm uất
hận: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc n ày, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ
lại nữa”. Thế là con người đích thực tâm linh trong Mị đã sống lại, hoà lẫn với con người
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
T
thực tại, làm cho cô ở vào trạng thái mộng du, vừa sống trong không gian thực tại, vừa
sống với thời gian quá khứ, chập chờn, bất định. Mị th êm mỡ vào đèn, quấn lại tóc, lấy cái
váy hoa… như sống trong thực tại, nhưng thực ra thì Mị đang sống trong mơ. Cô không
nghe A Sử hỏi, cô cũng “không biết m ình đang bị trói”, tai vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi
chơi. Chỉ khi vùng bước đi mà không được, tay chân đau không cựa được, cô mới thổn thức
nghĩ mình không bằng con ngựa. Nhưng khuya, nghe tiếng chó sủa xa xa, cô lại qu ên ngay
hiện tại, nín khóc và lại bồi hồi với cuộc sống trong mộng, lúc m ơ, lúc tỉnh.
Đây là đoạn văn thật đẹp và thơ mộng. Nó chẳng những khắc họa được cái sức sống
mãnh liệt không gì dập tắt được của tuổi trẻ mà còn làm sống lại không khí văn hoá ngày
hội đẹp đẽ, đắm say của người dân tộc đã chuyển thành đời sống tâm hồn của nhân vật.
Đồng thời đoạn văn cũng thấm đượm một niềm xót thương vô hạn cho số phận người con
dâu trừ nợ, và nâng niu những giấc mơ tình tứ đẹp đẽ của một con người. Ngòi bút của tác
giả quả đã thâm nhập sâu sắc vào những biến hóa. Ngòi bút của tác giả quả đã thâm nhập
sâu sắc vào những biến hóa, đổi thay tinh vi của t ình cảm nhân vật, biểu hiện một tấm l òng
nhân đạo tha thiết, hiểu thấu những đường nét quanh co, bí ẩn của nó.
d) Đỉnh cao trong cuộc nổi loạn chống lại thân phận trâu ngựa của Mị l à đoạn cô
đứng lên giải thoát cho A Phủ và cho cả chính mình. Khi A Phủ đã mấy đêm bị trói đứng vào
cây cột để chịu tội do hổ ăn mất bò thì trạng thái vô cảm của Mị đang lên đến mức cao
nhất. Mị ít ngủ và có thói quen ngồi sưởi lửa đêm. Những khi ngọn lửa bùng lên, Mị thấy
mắt A Phủ mở trừng trừng mới biết A Phủ c òn sống. “Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ
tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi… Mị chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”.
Mị vô cảm với sinh mệnh của A Phủ v à cả với chính mình!
Nhưng cái gì đã thức tỉnh lòng trắc ẩn của Mị? Một lần trở dậy, khi “ngọn lửa bập
bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt

lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Cái giọt nước mắt ấy đã làm Mị “chợt nhớ
lại” việc Mị bị trói đứng năm tr ước, cũng nước mắt chảy như thế mà không lau được; Mị lại
nhớ tới người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ thì chỉ đêm mai là chết thôi.
Chỉ có trí nhớ bất chợt là làm Mị sống lại. Trí nhớ có sức sống ri êng của nó, không phải
muốn quên là quên được đâu. Tết năm trước đã thế, lần này trí nhớ lại loé lên một cách vô
thức, và như một phản ứng dây chuyền nó nối lại ba số phận. Mị không c òn sống với ngọn
lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chết
thay cho A Phủ. “Người kia việc gì mà phải chết thế”. Mị đứng lên lấy con dao nhỏ cắt dây
trói cho A Phủ trong một ý thức chấp nhận hi sinh về mình, sẵn sàng thế mạng cho anh nếu
bị bắt trói thế vào cột. Đó là giây phút tuyệt đẹp trong đời Mị. Cô trở th ành con người cao
cả, nên cô không còn cảm thấy sợ!
Hành động đó tuy không thể đoán tr ước, nhưng hoàn toàn không ngẫu nhiên chút
nào. Mị đã từng nguyện làm rẫy trả nợ thay bố, đã từng chịu khổ để làm dâu trừ nợ cho bố,
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
U
từng dám chết để được giải thoát cho mình, thì sao Mị lại không dám chết để cứu một ng ười
vô tội?
Nhưng tính cách Mị tuy có quy luật mà vẫn đầy bất ngờ. Vừa mới ng hĩ đến việc có
thể chết thay cho A Phủ, nh ưng khi A Phủ vừa chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối, lập tức
“Mị cũng vụt chạy ra, băng đi, đuổi kịp A Phủ: A Phủ cho tôi đi. Ở đây th ì chết mất!” Lôgic
cũng rất chặt chẽ. Mị đã cứu sống A Phủ thì tại sao cô lại không tự cứu mình?! Nhà văn đã
miêu tả quá trình diễn biến của nhân vật cực kì tự nhiên và sinh động, đầy ngẫu nhiên bất
ngờ mà vẫn nằm trong quy luật tất yếu cua sự sống. Mấy giây tr ước đó, ai có thể nghĩ rằng
Mị lại bỏ trốn? Thế mà cô đã vùng chạy theo A Phủ, và không thể khác được! Mị là một
nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam. Một trong
những bí quyết của nó là nhà văn đã khắc họa quá trình tâm lí đầy biến hoá, ngẫu nhiên,
bất ngờ, mà vẫn nằm trong vòng tình lí của sự sống. Nhân vật trở nên có hình khối, đa diện,
đầy mâu thuẫn, khi thì mặt này nổi lên, khi thì mặt kia nổi lên, nhưng lúc nào cũng là nhân
vật ấy, chứ không phải là nhân vật khác lắp vào.

3. Nhân vậ t A Phủ
Trong Vợ chồ ng A Phủ thì A Phủ là nhân vật phụ ởthời kì Hồng Ngài và sẽ trở thành
nhân vật chính trong đoạn đời ở Phiềng Sa. Phần đầu truyện, nh à văn chủ yếu kể chuyện
dưới góc nhìn và ý thức của Mị, sang phần sau ng òi bút nhà văn lại đưa đẩy chủ yếu theo
góc nhìn của A Phủ.
A Phủ là đứa con mồ côi, nạn nhân của bệnh dịch và nạn đói làm chết người hàng
loạt. Mới mười tuổi A Phủ đã bị bán xuống vùng người Thái, nhưng anh lại trốn để lưu lạc
đến Hồng Ngài. Quanh năm chỉ làm thuê, A Phủ khỏe nhưng nghèo thì không thể lấy vợ. Có
thể nói A Phủ là con người dưới đáy của xã hội miền núi. A Phủ bị đánh đập t àn nhẫn rồi bị
biến thành đứa ở trừ nợ, rồi bị trói đứng chờ chết… đều chứng tỏ số phận trâu ngựa của
người lao động nghèo vùng cao.
Nhưng A Phủ là một con người đẹp của núi rừng. A Phủ làm khỏe như trâu, chạy
nhanh như ngựa, trở thành một niềm mơ ước của các cô gái. A Phủ cũng bị trói buộc bởi m ê
tín và thần quyền. Sau khi bị đánh đập t àn nhẫn suốt một ngày đêm, A Phủ lê gối đi làm thịt
lợn, làm cỗ cho chức việc ăn vạ. Khi Pá Tra bắt A Phủ đóng cọc lấy dây để trói mình, A Phủ
vẫn ngoan ngoãn vâng theo. Anh không hề nghĩ đến việc trốn chạy. Và biết chạy đâu cho
thoát? Cái đẹp nhất ở A Phủ là tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu chính nghĩa, tự tin
của tuổi trẻ mà cuộc sống nô lệ không thể huỷ diệt được. Chính cái sức sống ấy sau này sẽ
đưa A Phủ đi theo cách mạng.
Công ty Cổphần Đầu tư Công nghệGiáo dục IDJ
Biên tậ p viên: Trầ n Hả i Tú www.hoc360.vn
V
4. Nghệ thuậ t củ a truyệ n ngắ n Vợ chồ ng A Phủ
Trên đây đã nói qua nghệ thuật miêu tả quá trình tâm lí của nhân vật Mị. Đó là
thành công tiêu biểu nhất của nhà văn.
Tô Hoài cũng là cây bút sành tả cảnh. Cảnh vật của ông sống động, có hồn v à đầy
khêu gợi, góp phần biểu hiện đắc lực cho nhân vật. Chẳng hạn đoạn mi êu tả mùa xuân:
“Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ử ng, gió và rét dữ dội.
Nhưng trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá, xòe như
con bư ớ m sặ c sỡ . Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Ngôn ngữ

tả màu sắc rất phong phú, độc đáo, không thấy có trong từ điển. Nh ưng cái chính, nó gợi
lên một không khí sống động, đổi thay từng lúc, làm nên cho sự trỗi dậy của tâm hồn Mị về
sau.
Đặc biệt ông sành dùng ngôn ngữ nửa trực tiếp. Lời của tác giả m à như nói lên gan
ruột, vô thức của nhân vật, đã vẻ lên đủ loại cung bậc trong tình cảm Mị: lúc tự tin, lúc ai
oán, lúc dằn dỗi, uất ức, lúc cả quyết…, chẳng hạn: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn c òn trẻ. Mị muốn đi
chơi…”. Lời văn như lời trầm ngâm, thổn thức của nhân vật.
Các chi tiết được lựa chọn rất công phu, chúng được miêu tả như khêu gợi, đan cài,
cái này gợi ra cái kia, một cách tự nhiên. Đáng chú ý là chi tiết tiếng sáo và chi tiết bếp lửa.
Chúng vừa tạo không khí, vừa khêu gợi vào tâm tư nhân vật, vừa miêu tả môi trường. Chi
tiết của Vợ chồ ng A Phủ giàu chất tạo hình của điện ảnh và giàu chất thơ. Đây đúng là một
tác phẩm tiêu biểu cho thành tựu văn xuôi của văn học cách mạng.
Trầ n Đình Sử
I n trong Phân tích và bình giả ng tác phẩ m văn họ c lớ p 12 , Nxb GD, 1997

×