Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Bệnh Học Thực Hành: HEN SUYỄN (Háo Suvễn – Asthma - Asthme) pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.96 KB, 29 trang )

HEN SUYỄN
(Háo Suvễn – Asthma - Asthme)
Đại Cương
Hen suyễn là một hội chứng bệnh lý của cơ quan hô hấp mà đặc trưng chủ yếu là
khó thở và tiếng đờm khò khè trong họng.
Sách ‘Y Học Chính Truyền’ định nghĩa: “Suyễn thì thở không to, háo thì thở có
tiếng”.
Sách ‘Y Học Nhập Môn’ viết: “Thở gấp là suyễn, trong họng có tiếng kêu là háo”.
Tuy một vài sách đã tách Háo (hen) và Suyễn ra làm hai bệnh khác nhau, tuy
nhiên, trên lâm sàng, hai bệnh này thường đi đôi với nhau, xuất hiện cùng lúc và là
triệu chứng chính của bệnh hen suyễn, vì vậy, về nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh,
biện chứng luận trị và phương pháp điều trị có thể dùng như nhau.
Chứng háo suyễn thường gặp trong các bệnh hen phế quản, phế quản viêm thể hen,
phế khí thủng, tâm phế mạn (hen tim) và nhiều bệnh khác như phổi viêm, áp xe
phổi, bụi phổi, lao phổi, giãn phế quản
Năm 1819 Laenec đã mô tả đờm ‘hạt trai’ và gọi là Hen phế quản để phân biệt với
các bệnh khác của phế quản cũng gây nên khó thở.
Năm 1958 Hen phế quản được định nghĩa là tổn thương đặc trưng bởi sự tắc nghẽn
toàn thể bộ hô hấp, thay đổi nhanh chóng một cách tự phát hoặc dưới tác dụng của
điều trị.
Năm 1975, Hiệp hội lồng ngực và Hội các thầy thuốc về hô hấp của Mỹ định
nghĩa: Hen phế quản là bệnh đặc trưng bởi tình trạng tăng hoạt tính của đường hô
hấp đối với các kích thích khác nhau, biểu hiện bằng sự kéo dài thời kỳ thở ra.
Tình trạng này thay đổi một cách tự nhiên hoặc do tác dụng của điều trị.
Năm 1980 Charpin J (Pháp) cho rằng Hen phế quản là một hội chứng có những
cơn khó thở rít kịch phát thường xẩy ra về đêm.
Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới. Hen phế quản là tổn thương đặc trưng bởi những
cơn khó thở gây ra do các yếu tố khác nhau, do vận động kèm theo các triệu chứng
lâm sàng tắc nghẽn toàn bộ hoặc một phần, có thể phục hồi được giữa các cơn.
Phân Loại
. Theo YHCT


YHCT vẫn chưa thống nhất được cách phân loại Hen suyễn, để tiện việc nghiên
cứu, tham khảo, chúng tôi ghi lại đây một số quan điểm của người xưa:
+ Đời nhà Minh, năm 1624, Trương Cảnh Nhạc trong bộ ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư’
đã phân háo suyễn thành 2 loại chính là Hư và Thực (Sau này Diệp Thiên Sỹ, đời
nhà Thanh, thế kỷ 17) bổ sung như sau: bệnh ở Phế là Thực, bệnh ở Thận là Hư).
+ Đời nhà Thanh (1644), Ngô Khiêm trong ‘Y Tông Kim Giám’ chia làm 5 loại:
Hoả nhiệt suyễn cấp, Phế hư tắc suyễn, Phong hàn suyễn cấp, Đờm ẩm suyễn cấp,
Mã tỳ phong.
+ Sách ‘Trung Y Học Nội Khoa’ dựa theo Suyễn và Háo chia thành: Thực suyễn,
Hư suyễn và Lãnh háo, Nhiệt háo.
+ Ban Thế Dân trong bài ‘Thảo Luận Về Cơ Chế Và Biện Chứng Luận Trị Bệnh
Hen Phế Quản’ (năm 1958) chia làm hai loại Thực và Hư.
+ Khoa phổi bệnh viện Thượng Hải chia ra: Thực Suyễn (gồm Phong hàn, Phong
nhiệt, Đờm thực, Hoả uất) và Hư Suyễn (gồm Phế hư và Thận hư).
+ Trương Kim Hằng trong bài ‘Thảo Luận Về Bệnh Háo Suyễn’ trong ‘Cáp Nhĩ
Tân Trung Y Tạp Chí’ số 3/1962 chia háo suyễn thành 5 loại: Hàn suyễn, Nhiệt
suyễn, Tâm tạng suyễn, Thận hư suyễn, Phế và Khí quản suyễn.
+ Chu Đức Xuân trong bài ‘Nhận Xét 217 Trường Hợp Hen Điều Trị Bằng Đông
Tây Y Kết Hợp’ phân thành: Hen hàn, Hen nhiệt, Hen do khí hư, Hen thể đờm
thực.
. Theo YHHĐ
Sách ‘Bệnh Học Nội Khoa’ của đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh năm 1982
phân Hen suyễn thành 2 loại:
+ Hen Ngoại Sinh (Asthme Extrinseque = Asthme Allergique): Nhóm người bệnh
thường hen suyễn từ nhỏ, trẻ tuổi, có tiền sử dị ứng rõ ràng.
+ Hen Nội Sinh (Asthme Intrinseque = Asthme infectieux) thường bắt đầu xuất
hiện sau nhiều đợt nhiễm trùng hô hấp kéo dài trên bệnh nhân lớn tuổi, không có
tiền căn dị ứng.
Nguyên Nhân
Theo y học hiện đại thì các yếu tố được xem là nguồn gốc đưa đếùn cơn hen suyễn

là:
1- Dị ứng (có khoảng 20 – 30% do di truyền) mà chất gây nên dị ứng có thể là vi
khuẩn, sán lãi, các chất hít vào như phấn hoa, bụi nhà, khói, lông da thú vật, chất
độc hoá học, thuốc trị bệnh, có thể là thức ăn… Hoặc cơn hen xuất hiện theo mùa.
2- Thức ăn và thuốc
. Trong một số thức ăn có dị ứng tố như sữa bò, trứng, cá, tôm, cua hoặc một số
hoa quả
. Thuốc Aspirin và những chất đồng loại có thể gây nên cơn hen trong vòng 2 giờ
sau khi uống.
3- Không khí ô nhiễm như trong Hen Tokyo, Yokohama, hen New Orlean
4- Nghề nghiệp: Có thể do tiếp xúc với dị nguyên đặc biệt hoặc do tác dụng của
chất kích thích trên một cơ địa có hen dị ứng tiềm ẩn sẵn.
5- Nhiễm trùng hô hấp: thường là yếu tố làm cho bệnh trở nên kịch phát.
6- Thần kinh: những sang chấn về tâm lý có thể là nguyên nhân gây ra cơn hen.
7- Hoạt động thể học: cơn hen xẩy ra mỗi khi người bệnh vận động gắng sức.
Theo y học cổ truyền: chứng hen suyễn phát sinh do 3 nguyên nhân:
1- Do Ngoại Tà xâm nhập (Theo Thượng Hải và Thành Đô): Thường gặp loại
Phong hàn và phong nhiệt.
Phong hàn phạm vào Phế khiến Phế khí bị ủng tắc thăng giáng thất thường, nghịch
lên thành suyễn.
Phong nhiệt từ đường hô hấp vào Phế hoặc phong hàn bị uất lại hoá thành nhiệt
không tiết ra được gây nên sưng phổi, khí quản bị ảnh hưởng gây ra suyễn.
. Thiên ‘Thái Âm Dương Minh Luận’ (Tố Vấn 29) viết: “Cảm phải phong tà nhập
vào lục phủ sẽ phát sinh sốt không nằm được, sinh ra chứng hen suyễn”.
. Thiên ‘Ngũ Tà’ (Linh Khu 20) viết: Bẹnh tà ở Phế sẽ phát sinh đau nhức ngoài
da, sợ lạnh, sốt, khí nghịch lên, thở suyễn, ra mồ hôi, ho, đau lan đến vai, lưng”.
. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ ghi: “Do ăn uống không điều độ, do những tà khí
phong, hàn, thử thấp làm cho Phế khí trướng đầy gây nên suyễn”.
. Sách ‘Y Tôn Tất Độc’ ghi: “Chứng háo là do đờm hoả uất bên trong, cảm phong
hàn bên ngoài hoặc nằm ngồi cảm phải hàn thấp”.

. Sách ‘Y Quán’ viết: “Phong hàn thử thấp làm cho Phế khí trướng mãn gây ra
suyễn”.
. Sách ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư’ viết: “Thực suyễn nếu không do phong hàn thì do
hoả tà”.
2- Do Phế Thận Hư Yếu: Do ho lâu ngày hoặc bệnh lâu ngày làm Phế bị suy, phế
khí và đường hô hấp bị trở ngại gây nên suyễn. Hoặc do Thận hư yếu không nhuận
được Phế, không nạp được khí gây nên suyễn.
Như vậy bệnh suyễn chủ yếu ở Phế, có quan hệ với Thận và nếu nặng hơn có quan
hệ cả với Tâm. Vì theo Nội Kinh: mọi chứng ho, đầy tức, hơi thở đều thuộc về
Phế. Phế chủ khí, khí chủ thăng giáng. Khí thuận (giáng) thì bình thường, Phế
nghịch (đi lên) thì gây nên suyễn. Ngoài ra Tâm Phế suy yếu lâu ngày, Phế khí
thiếu làm ảnh hưởng đến tim cũng gây ra suyễn. Tương ứng chứng bệnh Tâm Phế
mạn của YHHĐ.
Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ viết: “Chứng đột nhiên suyễn, lo sợ, mạch Phù là phần
lý bị hư”.
Sách ‘Chứng Trị Chuẩn Thằng’ viết: “Phế hư thì khí thiếu mà suyễn”.
3- Do Tỳ phế hư yếu: Tỳ hư sinh đàm thấp thịnh ứ đọng tại phế gây tắc phế lạc. khí
đạo không thông làm cho khó thở. Hoặc bệnh lâu ngày phế hư không chủ khí sinh
khí nghịch khó thở. Thận chủ nạp khí, do bẩm sinh hoặc bệnh lâu ngày ảnh hưởng
đến thận, thận không nạp được khi cũng sinh khó thở.
4- Do Đờm Trọc Nội Thịnh (Thượng Hải): Do ăn uống không điều độ hoặc bừa bãi
làm ảnh hưởng đến công năng vận hoá của Tỳ, tích trệ lại thấph đờm. Trong thức
ăn có những chất làm tổn thương tỳ vị, tỳ vận hoá kém, thuỷ cốc dễ sinh thấp đàm
ứ đọng tại phế gây tắc phế lạc, phế khí bị trở ngại gây nên hen. Thường gặp ở
những bệnh nhân tỳ hư, đàm thịnh. Hoặc người vốn có đờm thấp tích trệ đi ngược
lên lên gây thành đờm, ủng trệ ở Phế, làm cho khí cơ và sự thăng giáng của Phế bị
ngăn trở gây ra suyễn. Hoặc do Phế nhiệt nung nấu tân dịch thành đờm, đờm hoả
gây trở ngại thành suyễn.
Sách ‘Ấu Ấu Tập Thành’ viết: “Bệnh do đờm hoả nội uất, ngoại cảm phong hàn,
có lúc do ngoại cảm, có lúc do nội nhiệt, cũng có khi do tích thực

Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ ghi: “Do ăn uống không điều độ làm cho Phế khí đầy
trướng sinh ra suyễn”.
Sách ‘Chứng Trị Hối Bổ’ ghi: “Hen là đờm suyễn lâu ngày phát ra, vì bên trong có
khí tắc nghẹt, bên ngoài khí hậu trái mùa tác động vào trong ngực, làm cho đờm
kết lại, bế tắc đường khí, phát rá tiếng, gây ra hen”.
Sách ‘Nhân Trai Trực Chỉ’ viết: “Tà khí ẩn náu trong nội tạng, đờm dãi đưa lên
khó thở, vì vậy khí nghịch lên gây ra thở gấp (suyễn)”.
So sánh với các nguyên nhân mà YHHĐ nêu ra, có thể thấy:
+ Tuy YHCT không nêu lên yếu tố dị ứng (allergy) và vi trùng, nhưng cũng đã
thống nhất với YHHĐ về nhận định rằng sự thay đổi thời tiết, ăn uống và lao lực
cũng có thể là những yếu tố gây nên hen suyễn.
+ Sự thay đổi về tinh thần như quá sợ, quá giận dữ, bi quan cũng là những yếu tố
làm cho cơ năng vỏ não hỗn loạn, gây nên sự mất thăng bằng giữa hai hệ thần kinh
giao cảm và đối giao cảm đều là cơ địa dễ gây nên hen suyễn.
Cơ Chế Sinh bệnh
Theo YHHĐ
Đa số các sách giáo khoa của YHHĐ đều nhắc đến 3 yếu tố chính gây nên hen
suyễn:
1- Nguyên nhân dị ứng đối với cơ thể.
2- Cơ địa dị ứng (thường gặp nơi người có cơ địa dễ mất điều chỉnh ở hệ thần
kinh).
3- Gai kích thích (có thể ở bộ phận hô hấp như phổi viêm, polyp mũi hoặc ở
ngoài đường hô hấp như ruột viêm, túi mật viêm, sỏi mật ).
Đi sâu vào cơn hen, sách ‘Bệnh Học Nội Khoa’ (ĐHYD thành phố HCM) cho rằng
có 3 hiện tượng được ghi nhận như sau:
1- Phế quản hẹp lại: đường kính phế quản đột nhiên bị hẹp lại là cơ chế chính của
cơn hen. Có 3 lý do: phế quản co thắt, niêm mạc phế quản phù nề và niêm mạc phế
quản tăng tiết.
Ngoài ra, còn có 2 cơ chế phụ:
+ Cơ hô hấp co thắt, đặc biệt là cơ ngực và cơ hoành. Đây có thể là một co thắt

phản xạ của các cơ hít vào do phế quản bị co thắt gây ra. Tuy nhiên cũng có thể do
việc thần kinh trung ương bị kích thích làm co thắt cùng lúc các cơ của phế quản
và cơ hô hấp.
+ Phế nang bị dãn cấp tính: ở thì hít vào của các cơ hô hấp đủ mạnh để thắng một
phần nào sức cản do việc phế quản bị hẹp lại, cản trở mạnh lượng không khí từ phế
nang đi ra ngoài (do đó sinh ra khó thở, nhất là ở thì thở ra).
Như vậy cơ chế gây ra những hiện tượng kể trên là một chuỗi phản ứng, có thể tóm
tắt như sau:
a- Hệ thần kinh đối giao cảm bị kích thích do một yếu tố nào đó, Acetyl choline
được tiết ra và làm phế quản co thắt lại.
b- Phản ứng dị ứng kháng nguyên kháng thể tác động vào các dưỡng bào
(Mastocystes) làm tiết ra một số hoá chất trung gian như Sérotorine, Bradykinine
và đặc biệt là Histamin
Cơ Chế Sinh Bệnh Hen Suyễn Theo YHCT
Sự giải thích cơ chế sinh bệnh hen suyễn theo YHCT dựa trên học thuyết Ngũ
hành và Tạng phủ, trong đó, nổi bật nhất là Phế, Tỳ và Thận (Can và Tâm chỉ quan
hệ một phần nhỏ).
Biểu hiện chủ yếu của cơn hen suyễn là khó thở và đờm uất. Khó thở là do chức
năng chủ khí của Phế bị rối loạn, khí không giáng xuống được mà lại đi nghịch lên
gây ra khó thở.
Chức năng nạp khí của Thạn kém (theo Nội Kinh: Thận chủ nạp khí), Thận không
nạp được khí, khí không giáng xuống đi nghịch lên gây ra khó thở.
Tỳ thổ là mẫu (mẹ) của Phế kim, Tỳ hư không sinh được Phế làm cho Phế bị hư
yếu gây nên khó thở.
Tỳ hư, chức năng vận hoá kém không biến thuỷ cốc thành tinh chất để nuôi cơ thể
mà lại sinh ra đờm thấp, đờm bị tích lại ở Phế làm cho Phế lạc không thông, Phế
khí bị uất gây ra khó thở (Đó là ý nghĩa mà sách Nội Kinh nhắc đến: Tỳ là nơi sinh
đờm, Phế là nơi trữ đờm).
Thận hư thì thuỷ thấp dâng lên cũng sinh ra đờm làm tắc phế lạc gây ra khó thở.
Ngoài ra, theo quy luật tương khắc của ngũ hành:

. Kim vốn khắc Mộc nhưng nếu Phế kim hư thì mộc có thể phản khắc làm cho Phế
hư thêm (vì vậy đa số người bệnh lên cơn khó thở vào khoảng nửa đêm, giờ của
mộc khí vượng (Đởm 23-1g, Can 1-3g).
. Tâm hoả vốn khắc Phế kim, tâm chủ thần, vì vậy, sự rối loạn về tinh thần cũng
ảnh hưởng đến Phế.
Triệu Chứng
Sách Nội Khoa Học Thượng Hải và Thành Đô đều thống nhất phân làm 2 thể
chính: Thực và Hư Suyễn.
A- Thực Suyễn
1- Suyễn Do Phong Hàn Phạm Phế: thở gấp, ngực tức, ho có đờm, lúc mới bị
thường sợ lạnh, đầu đau, cơ thể đau nhức, không có mồ hôi, rêu lưỡi trắng mỏng,
mạch Phù (Thượng Hải), mạch Phù Khẩn (Thành Đô).
Biện chứng: Phế chủ hô hấp, bì mao, khi bị phong tà xâm nhập vào làm cho bế tắc
bên ngoài, phế khí bị uất không thăng giáng được gây ra ho, suyễn, tức ngực. Vì
phong hàn bế ở bên ngoài và kinh lạc, do đó, thấy sợ lạnh, đầu đau, không ra được
mồ hôi. Mạch Phù là bệnh ở phần Biểu, Khẩn là biểu hiện của hàn.
2- Suyễn Do Phong Nhiệt Phạm Phế (Thượng Hải, Thành Đô): thở gấp, mũi nghẹt,
ho, đờm vàng, miệng khô, khát, khan tiếng, tắc tiếng, buồn bực, ra mồ hôi, nặng thì
phát sốt, mặt đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Phù Sác (T. Hải), Phù Hồng Sác (T.
Đô).
Biện chứng: Bên trong đang có nhiệt lại cảm phải táo và nhiệt ở bên ngoài, hai thứ
nhiệt nung đốt Phế, Phế bị nhiệt gây ra ho, suyễn, sốt, mồ hôi ra, Phế và Vị có
nhiệt ứ trệ sẽ sinh ra khát, miệng khô, buồn bực. Tâm chủ tiếng nói, Phế chủ âm
thanh, nhiệt nung đốt Tâm và Phế gây ra khan tiếng, tắc tiếng. Rêu lưỡi vàng, lưỡi
đỏ, mạch Hồng Sác là dấu hiệu nhiệt ở thượng tiêu, Tâm, Phế. Mạch Phù là bệnh ở
biểu.
3- Suyễn Do Đờm Trọc Trở Ngại Phế: thở gấp, ho, đờm nhiều, nặng thì ho đờm
vướng sặc, hông ngực buồn tức, miệng nhạt, ăn không biết ngon, rêu lưỡi trắng
nhạt, mạch Hoạt.
Biện chứng: Đờm trọc ủng tắc ở Phế, làm cho Phế khí không thông giáng xuống

được gây ra khó thở, đờm nhiều. Đờm thấp ủng trệ ở Tỳ Vị gây ra hông ngực buồn
bực, miệng nhạt, ăn không biết ngon. Mạch Hoạt là biểu hiện của đờm trọc.
B- Hư Suyễn
4- Suyễn do Phế Hư: Thở gấp (suyễn), hơi thở ngắn, mệt mỏi, ho nhẹ, ra mồ hôi,
sợ gió, họng khan, rát, miệng khô, lưỡi đỏ nhạt, mạch Nhuyễn Nhược (Thượng
Hải), mạch Hư Nhược (Thành Đô).
Biện chứng: Phế chủ khí, Phế hư vì vậy khí yếu, thở ngắn, tiếng nói nhỏ, mệt mỏi.
Vệ khí không vững vì vậy sợ gió, họng khan, rát, miệng khô, khí huyết hư yếu nên
thấy mạch Nhược.
5- Suyễn Do Thận Hư: Hô hấp yếu, khi cử động mạnh thì thở nhiều, cơ thể gầy
ốm, ra mồ hôi, chân tay lạnh, sắc mặt xanh, có khi tay chân và mặt phù nhẹ, tiểu ít,
hay mơ, hồi hộp, lưỡi nhạt, mạch Trầm.
Biện chứng: Thận là gốc của khí, Thận yếu không thu nạp được khí vì vậy sinh ra
thở ngắn, cử động mạnh thì thở nhiều. Trung tiêu dương khí hư vì vậy ăn uống
không tiêu, làm cho cơ thể gầy ốm. Vệ khí yếu vì vậy sợ gió, ra mồ hôi. Dương khí
yếu thì chân tay lạnh. Mạch Trầm Tế là biểu hiện của Thận hư, dương khí suy.
C. Điều Trị
Về nguyên tắc điều trị.
+ Sách ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư’ hướng dẫn: “Lúc bệnh chưa phát thì dùng phép phù
chính là chủ yếu. Lúc đã phát bệnh thì dùng phép công tà làm chính. Phù chính khí
phải phân biệt Âm Dương. Âm hư thì bổ âm, dương hư thì bổ dương. Công tà phải
chú ý xem tà nặng hoặc nhẹ mà dùng ôn hàn hoặc tán phong hoặc tiêu đờm hoả.
Bệnh lâu ngày chính khí thường hư, do đó, trong lúc dùng phương pháp tiêu tán
cần thêm thuốc ôn bổ hoặc trong lúc ôn bổ cần thêm thuốc tiêu tán”.
+ Chương ‘Y Trung Quan Kiện’ (Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh) viết: “Uất thì
làm cho thông, hoả thì dùng phép thanh đi, có đờm thì làm cho tiêu đi, đó đều là
thực tà và cũng dễ chữa. Duy có trường hợp tinh huyết bị kém, khí không trở về
nguồn, vì Phế phát khí ra, Thận nạp khí vào. Nay Thận hư không thực hiện được
chức năng bế tàng, long lôi hoả do đó mà bốc lên, làm cho Phế khí bị thương, chỉ
có thở ra mà không hít vào. Hoả không bị thuỷ ức chế, dương không bị âm liễm

nạp, đó là nguy cơ âm vong dương thoát, chết trong chốc lát. Nếu bên ngoài thấy 2
gò má ửng đỏ, mặt đỏ, nửa người trên nóng nhiều, đó là chứng giả nhiệt, chân
dương thoát ra ngoài, nếu dùng lầm một ít thuốc hàn, lương thì nguy ngay. Chỉ nên
bổ để liễm lại, nạp vào mà thôi…”.
Thuốc trị suyễn theo Đông y thường có tác dụng tán hàn, giáng khí, tiêu đờm, trừ
thấp, bổ hư.
1- Tán Hàn
Cơn suyễn thường phát vào lúc trời trở lạnh (mùa Thu, Đông) hoặc lúc gần sáng,
khi sương, mưa nhiều, sau một cơn trúng lanh, sau khi tắm, dầm mưa hoặc do dị
ứng bởi thức ăn. Trạng thái chung là co thắt. Thuốc tán hàn thường có vị cay, ấm,
tính nóng, có tác dụng làm thư giãn cơ trơn, kích thích sự lưu thông máu ở mạch
ngoại vi bị ứ trệ.
Những loại thuốc tán hàn như Quế, Gừng, Ngải cứu là những loại có tác dụng ngăn
cản sự ứ trệ tuần hoàn mao mạch và chống co thắt, do đó, làm giảm được triệu
chứng tức, nặng vùng ngực, vùng rốn phổi mỗi khi lên cơn suyễn.
2- Giáng Khí
Suyễn còn gọi là khí nghịch, để chỉ hiện tượng khó thở, làm cho khí bị đọng lại
nhiều trong phế nang, vì phế quản co lại nên điều trị phải làm cho khí giáng xuống,
làm cho phế nang giãn ra. Thuốc giáng khí sau khi uống vào thường làm cho bệnh
nhân thở được, trung tiện được, ợ hơi được, làm đỡ tức ngực, bụng.
Thường gồm các loại:
. Tinh dầu (Bạc hà, Trần bì, Thanh bì, Mộc hương, Tử tô ) vừa kích thích hô hấp,
dãn phế quản vừa sát trùng.
. Những thuốc có Ancaloid ức chế Phó giao cảm như Cà độc dược, Ma hoàng
3- Tiêu Đờm
Khi lên cơn suyễn, đờm tiết ra nhiều gây bít phế quản, vì vậy, cần loại tiêu
đờm.thường khó tìm được loại thuốc làm cho tan được chất nhầy, do đó, nên làm
cho niêm mạc phế quản tiết thêm cho loãng đờm đặc để tống đờm ra ngoài, bằng
việc kích thích ho để trục xuất đờm. Những thuốc long đờm thường là loại có
Saponin như lá Táo, Bồ kết, Bán hạ

4- Trừ Thấp
Thấp là ứ các chất Allergotoxin làm tăng sự thẩm thấu thành mạch gây ra hiện
tượng phù viêm quanh chu vi mạch của niêm mạc, làm cho đường kính phế quản
bị hẹp lại. Các thuốc trừ thấp có tác dụng chống viêm, chống dị ứng thường chứa
Flavonoid có tác dụng làm bền vững thành mạch, hạn chế tiết xuất gây viêm.
Trong cơn suyễn, nhất là nơi người mạn tính, lượng nước tiểu thường ít đi, vì thế,
cần thêm thuốc lợi tiểu như Mã đề, Ý dĩ, Thổ phục linh
Tuy nhiên, khi tháo ứ không phải chỉ chú trọng đến Thận mà còn phải chú ý đến
Gan, mật, đại trường, do đó, nhiều khi trong bài thuốc trị suyễn, các vị thuốc xổ
như Muồng trâu, Vỏ đại, Lô hội cũng có thể dùng được.
5- Bổ Hư
Nơi người bị suyễn, thần kinh thực vật thường bị mất cân bằng. Hệ thần kinh trung
ương cũng bị xáo trộn, do đó, cần cho các vị thuốc bổ âm, nâng cao mức ức chế
thần kinh.
Hoặc cho thuốc bổ dương để làm tăng hoạt tính giao cảm lên.
Rối loạn thần kinh thực vật trong bệnh suyễn thường gặp trong trường hợp giao
cảm thần kinh bị giảm, do đó, khi gần hết cơn suyễn, mồ hôi thường đổ ra nhiều,
các chất mũi, đờm tiết ra, các cơ ngực, lưng mệt mỏi vì vừa qua một trạng thái co
cứng.
Điều Trị Lúc Lên Cơn
+ Thể phong hàn:
. NKHT. Hải: Tán hàn, tuyên phế, định suyễn.
Dùng bài Tam Cao Thang Gia Vị (Thái Bình Huệ Dân Hoà Tễ Cục Phương, Q. 2):
Cam thảo 4g, Hạnh nhân 7 hạt, Ma hoàng 12g, Sắc uống.
(Ma hoàng, Hạnh nhân, Cam thảo (tức là bài Ma Hoàng Thang bỏ Quế chi) để tán
hàn, tuyên phế, hoá đàm, định suyễn. Thêm Tiền hồ, Trần bì để chỉ khái, hoá đàm).
. NKHT. Đô: Khứ phong, tán hàn, tuyên Phế, giáng nghịch. Dùng bài Ma Hoàng
Thang (Thương Hàn Luận): Ma hoàng, Hạnh nhân đều 12g, Quế chi 8g, Chích
thảo 4g. Sắc uống.
(Ma hoàng có tác dụng phát hãn, giải biểu, tán phong hàn, tuyên Phế, định suyễn.

Quế chi phát hãn, giải cơ, ôn thông kinh lạc, hỗ trợ cho tác dụng phát hãn của Ma
hoàng; Hạnh nhân tuyên Phế, giáng khí, giúp tăng tác dụng định suyễn của Ma
hoàng; Chích thảo điều hoà các vị thuốc, làm giảm tính cay táo của Quế chi, giảm
tác dụng phát tán của Ma hoàng).
+ Sách ‘Trung Y Nội Khoa Học Giảng Nghĩa’: Ôn Phế, bình suyễn. Dùng các bài:
. Tô Tử Giáng Khí Thang (Cục Phương): Tô tử 36g, Tiền hồ, Hậu phác, Đương
quy, Cam thảo đều 4g, Bán hạ 36g, Quất bì 12g, Quế tâm 16g, Sinh khương 50g,
Táo 5 trái. Sắc, chia làm 5 lần uống, sáng 3 lần, tối 2 lần.
. Tiểu Thanh Long Thang (Thương Hàn Luận): Ma hoàng, Thược dược, Bán hạ
đều 12g, Chích thảo 8g, Quế chi (bỏ vỏ) 8g, Ngũ vị tử, Tế tân, Sinh khương đều
4g, Sắc uống ấm.
. Linh Quế Truật Cam Thang (Thương Hàn Luận): Phục linh 16g, Quế chi (bỏ vỏ)
12g, Bạch truật, Chích thảo đều 8g, sắc uống ấm.
+ Sách ‘Trung Quốc Đương Đại Bí Phương Đại Toàn’ dùng bài Trị Suyễn
Phương: Ma hoàng, Bán hạ đều 12g, Tế tân 4g, Can khương, Cam thảo, Ngũ vị tử
đều 6g. Sắc uống.
+ Sách ‘Thiên Gia Diệu Phương’ dùng bài ‘Cao Trị Hen Suyễn’: Nam tinh (chế),
Bán hạ (chế), Cát cánh, Bối mẫu, Tế tân, Hạnh nhân, Cam thảo (sống), Ngũ vị tử
đều 20g, Ma hoàng, Bạch tô tử, Khoản đông hoa, Tử uyển (sống) đều 12g, Dầu mè
(Ma du) 200g, Mật ong 120g, nước cốt Gừng 120g. Cho 12 vị thuốc đầu tiên vào
ngâm với dầu mè 24 giờ, nấu lên cho đặc, lọc bỏ bã lấy nước, sau đó cho thêm mật
và nước Gừng, nấu thành cao, còn khoảng 440g. Mỗi ngày, vào buổi sáng, khi gà
gáy canh năm, uống 1 thìa cà phê (4ml) thuốc với nước đun sôi để nguội.
+ Sách ‘Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu’ dùng bài Lãnh Háo Thang: Ma hoàng,
Hạnh nhân đều 10g, Thần khúc, Tử uyển, Bạch truật, Phụ tử (hắc), Khoản đông
hoa đều 12g, Xuyên tiêu 8g, Tế tân, Bán hạ (chế), Sinh khương đều 6g, Cam thảo
4g, Tạo giáp 2g, Bạch phàn 0,2g. Sắc uống.
+ Sách ‘Tân Biên Trung Y Kinh Nghiệm Phương’ dùng bài Xạ Can Ma Hoàng
Thang gia giảm: Xạ can 6g, Ma hoàng 10g, Tế tân, Tử uyển, Khoản đông hoa, Đại
táo đều 12g, Ngũ vị tử, Bán hạ (chế) đều 8g, Sinh khương 4g. Sắc uống.

Suyễn Do Phong Nhiệt
+ NKHT.Hải: Thanh nhiệt, tuyên phế, bình suyễn.
Dùng bài Ma Hạnh Thạch Cam Thang Gia Vị (Trương Thị Y Thông, Q. 16): Cam
thảo 4g, Hạnh nhân 12g, Ma hoàng 12g, Thạch cao 40g. Thêm Trần bì, Bối mẫu,
Tiền hồ, Cát cánh, Sắc uống.
(Ma hoàng tuyên Phế, bình suyễn; Thạch cao thanh phế nhiệt; Hạnh nhân + Cam
thảo ôn trợ cho Ma hoàng bình suyễn, chỉ khái. Thêm Trần bì, Bối mẫu, Tiền hồ,
Cát cánh để tăng tác dụng thanh nhiệt, chỉ khái, hoá đàm).
+ NKHT. Đô: Thanh nhiệt, giáng nghịch, dưỡng Vị, cứu Phế.
Dùng bài Ma Hạnh Thạch Cam Thang thêm Tang bì, Địa cốt bì.
+ Sách ‘Trung Y Nội Khoa Học Giảng Nghĩa’ dùng bài Định Suyễn Thang (Nhiếp
Sinh Chúng Diệu Phương): Ma hoàng, Bán hạ đều 6-12g, Hạnh nhân, Tô tử 6-8g,
Tang bạch bì, Khoản đông hoa đều 12g, Hoàng cầm 8-12g, Bạch quả 10-20 quả,
Cam thảo 4g, sắc uống.
+ Sách TQĐĐDYNPĐ.Toàn dùng bài Chỉ Háo Định Suyễn Thang: Ma hoàng, Tử
uyển, Bối mẫu, Hạnh nhân đều 10g, Sa sâm 12g, Huyền sâm 16g. Sắc uống.
Thể phong đờm
+ NKHT. Hải: Hoá đờm, giáng khí, bình suyễn.
- Điều trị: Nhị Trần Thang hợp Tam Tử Thang gia giảm: Nhị Trần Thang (Bán hạ,
Quất hồng, Phục linh, Cam thảo) + Tam Tử Thang (Tử tô tử, Bạch giới tử, La bặc
tử).
(Chế Bán hạ táo thấp, hoá đờm, giáng nghịch; Trần bì lý khí, hoá đờm; Bạch linh
kiện Tỳ, lợi thấp; Cam thảo hoá trung, kiện Tỳ; Thêm Tô tử, La băïc tử. Bạch giới
tử để giáng khí, hoá đàm, bình suyễn. Thêm Hậu phác, Thương truật để táo thấp,
hành khí).
Đowøm uất hoá nhiệt thêm Hoàng cầm, Địa cốt bì, Tang bạch bì để thanh phế
nhiệt. Tỳ hư thêm Lục Quân Tử Thang để kiện tỳ.
+ Sách TYNKHG Nghĩa: Tiêu đờm, thanh hoả.
Dùng bài Tả Bạch Tán (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết): Địa cốt bì, Tang bạch
bì (sao) đều 40g, Chích thảo 4g, thêm Tri mẫu, Qua lâu.

+ Sách ‘Thiên Gia Diệu Phương’ dùng bài Tiền Hồ Thang gia vị: Tiền hồ, Tang
diệp, Tỳ bà diệp, Tri mẫu đều 16g, Kim ngân hoa 20g, Hạnh nhân, Mạch môn,
Hoàng cầm, Khoản đông hoa, Cát cánh đều 12g, Cam thảo 8g. Sắc uống.
Điều Trị Lúc Không Lên Cơn (Bệnh Ổn Định)
Thể phế hư
+ Dưỡng Phế, định suyễn (NKHT. Hải). Dùng bài Sinh Mạch Tán Gia Vị (Y Học
Khải Nguyên, Q. Hạ): Mạch môn 12g, Ngũ vị tử 7 hột, Nhân sâm 12g. Thêm Ngọc
trúc, Bối mẫu đều 8g, Sắc uống.
Trong bài: Nhân sâm bổ ích khí để sinh tân, Mạch môn dưỡng âm, sinh tân, thanh
Phế, Ngũ vị tử liễm phế, hợp với Mạch môn để tăng tác dụng sinh tan dịch. Thêm
Ngọc trúc, Bối mẫu để nhuận phế, hoá đàm. Trường hợp mệt mỏi nhiều, dễ cảm
lúc thời tiết thay đổi dùng bài Bổ Trung Ích Khí để bổ tỳ phế.
. NKT. Đô: Ích khí, định suyễn. Dùng bài Bổ Phế Thang (Tam Nhân Cực – Bệnh
Chứng Phương Luận): Khoản đông hoa, Quế tâm, Nhân sâm, Tử uyển, Bạch thạch
anh đều 40g, Ngũ vị tử, Chung nhũ phấn đều 60g, Tang bạch bì (nướng) 160g,
Mạch môn (bỏ lõi) 80g. Tán bột. Mỗi lần dùng 16g, thêm Gừng 5 lát, Táo 3 trái,
Gạo tẻ 1 nhúm, sắc uống.
Hoặc dùng bài Bổ Phế Thang (Vân Kỳ Tử Bảo Mệnh Tập): Tang bạch bì, Thục địa
đều 60g, Nhân sâm, Tử uyển, Hoàng kỳ, Ngũ vị tử đều 30g. Mỗi lần dùng 12g,
thêm ít mật, sắc uống.
+ Sách ‘Thiên Gia Diệu Phương’ dùng bài: Sâm Giới Tán gia vị: Cáp giới 2 con
(chặt bỏ đầu và chân), Nhân sâm 20g, Sơn dược 80g, Hạnh nhân 32g, Trầm hương
16g, Nhục quế 16g, Bán hạ 40g, Hoàng kỳ 80g, Tử bì hồ đào 80g, Bạch quả 40g,
Tang bạch bì 40g, Cam thảo 20g. Tán bột. Mỗi lần dùng 6-8g, uống ngày 2-3 lần.
+ Sách TQĐĐDYNPĐ Toàn dùng bài Sâm Cáp Ma Hạnh Cao: Đảng sâm 120g,
Cáp giới (bỏ đầu, chân) 2 con, Ma hoàng (bỏ mắt) 60g, Hạnh nhân 100g, Chích
thảo 40g, Sinh khương 60g, Hồng táo (bỏ hột) 120g, Bạch quả nhục 20 trái. Thêm
Đường phèn, nấu thành cao. Ngày uống 2 lần, sáng, tối, mỗi lần 20ml.
Thể Tỳ Hư:
Phép trị: Ích khí, kiện tỳ, hoá đờm. Dùng bài Lục Quân Tử Thang hợp Nhị Trần

Thang Gia Vị.
(Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Chích thảo để ích khí, kiện tỳ; Trần bì. Sinh
khương, Bán hạ ôn hoá hàn đàm. Thêm chích Hoàng kỳ, Đương qui bổ khí huyết;
Đại táo, Gừng nướng để ôn tỳ).
Trường hợp tiêu chảy bỏ Đương qui, Hoàng kỳ thêm Biển đậu, Mạch nha, Thương
truật để trừ thấp, tiêu thực.
Thể Thận Hư:
+ NKHT Hải và T. Đô: Bổ thận, nạp khí.
+ Thận âm hư, dùng bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn.
+ Thận dương hư dùng bài Bát Vị Địa Hoàng Hoàn gia giảm.
( Sinh địa, Hoài sơn, Sơn thù, Đan bì, Bạch linh, Trạch tả (Lục Vị Địa Hoàng) bổ
thận âm; nếu Khí âm hư thêm Sinh Mạch Tán (Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị) để
bổ khí âm).
Thận dương hư: thêm Nhục quế, Chế Phụ tử (bài Bát Vị Địa Hoàng) để ôn bổ thận
dương.
Di tinh, liệt dương thêm Thỏ ty tử, Tiên linh tỳ; Ra mồ hôi, tiểu đêm nhiều thêm
Kim anh tử, Ích trí nhân Trường hợp tỳ thận dương hư dùng bài "Chân Vũ Thang
" (Chế Phụ tử, Bạch thược, Bạch linh. Bạch truật, Sinh khương) để ôn bổ tỳ thận.
THUỐC NAM TRỊ SUYỄN
+ Bèo cái 100g, cắt bỏ rễ, bỏ lá vàng, rửa nhiều lần bằng nước muối cho thật sạch,
cuối cùng rửa thêm một lần bằng nước muối. Rẩy cho ráo nước, giã nhỏ, vắt lấy
nước, thêm nước (đã đun sôi để nguội) vào và cho thêm ít đường cho đủ ngọt và đủ
100ml. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 liều như trên.
Thường sau khi uống 10 ngày, cơn suyễn sẽ bớt, uống tiếp trong 2-3 tháng. Khi
mới uống có thể thấy ngứa cổ trong vòng 10 phút nhưng sẽ quen dần và hết ngứa
(Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Lá Bồng bông (Caletropis gigantea R.Br), lấy khăn ướt lau sạch lông, thái nhỏ,
sao qua cho héo. Ngày dùng 10 lá, sắcêc với 300ml nước, còn 200ml, thêm đường
vào, chia 3-4 lần uống trong ngày.
(Nước thuốc hơi đắng và tanh, uống nhiều một lúc có thể gây nôn, do đó, nên uống

sau hoặc xa bữa ăn. Uống vào có thể mỏi chân tay, cơ thể hoặc đôi khi bị tiêu
chảy).
Kết quả sau 2-3 ngày, có khi 7-8 ngày. Có khi sau 10 phút đã có kết quả (Những
Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Lá Táo 200-300g, sao vàng, sắc với 3 chén nước còn 200ml, chia hai lần uống
trước bữa ăn 1 giờ. Uống liên tục 1 tuần đến 2 tháng. Kết quả khá tốt (Những Cây
Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Lá Hen 02kg, rửa hết lông, tẩm nước Gừng, sao vàng, hạ thổ, nấu với 10 lít
nước, còn 5 lít. Lọc bỏ bã, cho đường vào nấu còn khoảng 1 lít.
Người lớn uống 10ml với nước nóng, ngày 2 lần. Trẻ nhỏ 2-5 tuổi, mỗi lần uống 1-
3ml. Trẻ 6-10 tuổi mỗi lần uống 4-6ml (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt
Nam).
+ Lá Hẹ tươi 100g, sắc với 400ml nước còn 300ml, thêm 10ml mật ong, chia làm 2
lần uống. Khoảng 5-6 lần sẽ đỡ. Dùng trong trường hợp suyễn cấp. (Những Cây
Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Lá Táo chua (Thanh táo) tươi 30g, rửa sạch, giã nát, lọc lấy khoảng 200ml nước,
hoà mật ong cho đủ ngọt, uống. Sau 2 giờ, người bệnh nôn ra đờm dãi thì cơn
suyễn sẽ giảm (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Tóm lại biện chứng luận trị chứng suyễn chủ yếu dựa theo nguyên tắc là thời kỳ
lên cơn chủ yếu dùng phép khu tà và lúc không cơn chủ yếu là phù chính. Nhưng
trên thực tế lâm sàng do hen suyễn là một chứng bệnh tái phát nhiều lần, cơ thể
người bệnh thường suy nhược cho nên lúc khu tà cũng cần chú ý phù chính và lúc
không lên cơn chủ yếu là bổ hư nhưng trên lâm sàng thường biểu hiện hư chứng
lẫn lộn như Tỳ phế hư, phế thận hư hoặc tỳ thận dương hư v.v biện chứng luận trị
cần hết sức chú ý.
Ngoài ra, đối với những cơn hen ác tính, bệnh nhân khó thở nặng cần kết hợp với
các phương pháp chẩn đoán của y học hiện đại giúp xác định bệnh chính xác để
phối hợp với các phương pháp trị bệnh bằng thuốc tây như thở oxy, dùng thuốc trụ
sinh (nếu nhiễm khuẩn) thuốc dãn phế quản hoặc thuốc trợ tim (trường hợp hen
tim) v.v đem lại hiệu quả điều trị tốt nhất cho người bệnh.

CHÂM CỨU TRỊ SUYỄN
+ Bình suyễn, Giáng nghịch, tuyên Phế, hoá đờm.
Dùng phép cứu hoặc châm lưu kim Định Suyễn, Thiên Đột, Tuyền Cơ, Chiên
Trung, có thể phối hợp thêm Phong Long, Đại Chuỳ, Hợp Cốc, Quan Nguyên, Túc
Tam Lý.
Cách châm: Định suyễn lưu kim, vê kim vài phút, Thiên đột không lưu kim, Tuyền
Cơ, Chiên Trung lúc châm phải hướng mũi kim ra 4 phía, châm xiên khoảng 0,1
thốn, lưu kim, vê vài phút.
Gia giảm: Đờm nhiều thêm Phong long. Kèm viêm đường hô hấp thêm Đại chuỳ,
Hợp cốc. Suyễn lâu ngày thêm Quan nguyên, Túc tam lý.
Ý nghĩa: Định suyễn là huyệt đặc hiệu để làm ngưng cơn suyễn, Thiên Đột, Chiên
Trung để thuận khí, giáng nghịch. Tuyền Cơ để tuyên Phế khí ở Thượng tiêu.
Phong long hoá đàm, giáng trọc. Quan Nguyên + Túc Tam Lý kiêm bổ Tỳ, Thận,
trị bản bồi nguyên, Đại Chuỳ + Hiệp cốc sơ tà giải biểu (Châm Cứu Học Thượng
Hải).
+ Thực Suyễn: Dùng kinh huyệt thủ Thái âm làm chính. Châm tả Đản trung, Liệt
khuyết, Phế du, Xích trạch. Phong hàn thêm Phong môn. Đờm nhiệt thêm Phong
long.
(Liệt khuyết, Xích trạch tuyên thông Phế khí, Phong môn sơ thông kinh khí ở biểu
để giúp cho Phế khí thông; Chiên trung, Phế du điều Phế, thuận khí. Hợp với
Phong long để hoà Vị, hoá đờm, trị suyễn).
Hư Suyễn: Điều bổ Phế và Thận. Châm bổ hoặc cứu Phế du, Cao hoang, Khí hải,
Thận du, Túc tam lý, Thái uyên, Thái khê.
(Tháiuyên là huyệt Nguyên của Phế; Thái khê là huyệt Nguyên của kinh Thận. Để
bổ khí cho 2 tạng Phế và Thận; Phế du, Cao hoang để bổ thượng tiêu, Phế khí;
Thận du, Khí hải bồi bổ hạ tiêu, Thận khí; Túc tam lý để điều hoà Vị khí, bồi
dưỡng nguồn sinh hoá hậu thiên, làm cho thuỷ cốc tinh vi đi lên, quy về Phế, giúp
Phế khí đầy đủ thì bệnh sẽ tự khỏi) (Châm Cứu Học Giảng Nghĩa).
+ Khí hộ, Vân môn, Thiên phủ, Thần môn (Thiên Kim Phương).
+ Vân môn, Nhân nghênh (ho suyễn cấp). Thiên đột, Hoa cái (suyễn nhiều). Phách

hộ, Thiên phủ (suyễn đờm nhiều) (Tư Sinh Kinh).
+ Cứu Trung phủ, Vân môn, Thiên phủ, Hoa cái, Phế du (Châm Cứu Tụ Anh).
+ Du phủ, Thiên đột, Đản trung, Phế du, Túc tam lý, Trung quản, Cao hoang, Khí
hải, Quan nguyên, Nhũ căn (Châm Cứu Đại Thành).
+ Cứu Tuyền cơ, Khí hải, Đản trung, Kỳ môn, Chí dương (3 tráng) (Cảnh Nhạc
Toàn Thư).
+ Tuyền cơ, Hoa cái, Đản Trung, Kiên Tỉnh, Kiên trung du, Thái uyên, Túc tam lý
(đều cứu) (Loại Kinh Đồ Dực).
+ Cứu Phế du, Cao hoang, Thiên đột, Chiên trung, Liệt khuyết, Túc tam lý, Phong
Long (Thần Cứu Kinh Luận).
+ Phế Du, Trung Quản, Đản trung, Liệt khuyết, Cao hoang du (Châm Cứu Trị Liệu
Học).
+ Cứu Đản trung, Phách hộ, Phụ phân, Linh đài, Thiên đột, Đại chuỳ, Khí hải, Cao
hoang, Thần đường, Đại trử, Phong môn (Lâm Sàng Đa Khoa Tổng Hợp Trị Liệu
Học).
+ Phế du, Đốc du, Thiên đột, Đản trung, Kiên tỉnh, Trung quản, Khí hải, Liệt
khuyết, Túc tam lý, Tam âm giao (Trung Quốc Châm Cứu Học)
+ Phong môn, Liệt khuyết, Đản trung, Đại chuỳ, Định suyễn (Bình bổ bình tả)
(Thực Dụng Châm Cứu Đại Toàn).
+ Châm tả Liệt khuyết, Xích trạch, Phong môn, Phế du, Định suyễn (Liệt khuyết,
Xích trạch là cách phối huyệt Lạc với huyệt Hợp để tuyên thông Phế khí; Phong
môn Phế du sơ phong, giải biểu, tuyên Phế, hoá đờm; Định suyễn giáng khí, bình
suyễn) (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học)
2- Hen Nhiệt (Nhiệt Háo)
- CCHG Nghĩa: Tuyên giáng khí của Phế, Vị.
Châm (không lưu kim) Phế du, Đản trung, Liệt khuyết, Thiên đột, Trung quản,
Phong long.
(Đản Trung là huyệt hội của khí toàn cơ thể, hợp với Phế du, Liệt khuyết để tăng
tác dụng tuyên thông Phế Khí; Thiên Đột làm thông họng, điều hoà Phế; Trung
quản, Phong Long điều hoà khí ở hai kinh Tỳ và Vị, làm cho thuỷ dịch không

ngưng kết lại thành đờm được (trị theo gốc).
- CCHV Nam: Châm (không lưu kim) Khí suyễn, Thiên đột, Trung phủ, Khúc trì,
Phong long, Túc tam lý.
(Khí Suyễn là huyệt đặc hiệu để trị suyễn; Trung Phủ để điều Phế; Thiên Đột khu
đàm, thông lợi Phế khí; Khúc Trì thanh nhiệt; Phong Long, Túc Tam Lý tiêu đàm,
hạ khí, thêm Phế Du tăng tác dụng của Thiên đột, Trung phủ để tuyên thông Phế
khí; Tỳ Du tăng sức vận hoá của Tỳ, hoá đàm, trừ thấp; Thận Du bổ thận nạp khí).
- TS Kinh: Thiên đột, Đản trung, Thiên trì, Giải khê, Kiên trung du.
- LSĐKTHTL Học: Châm Hợp cốc, Liệt khuyết, Đại chuỳ, Phong môn, Phế du.
- TCC Học: Thiên trụ, Phong trì, Khí hộ, Kiên ngoại du, Đại Trử, Phế du, Quyết
âm du, Tâm du, Phụ phân, Cao hoang, Hợp cốc.
- TYLPT Sách: Định suyễn, Đản trung, Nội quan, Đại chuỳ, Trung suyễn, Phong
Long.
- CCHT. Hải: Định suyễn, Thiên đột, Tuyền cơ, Đản trung, thêm Phong long, Đại
chuỳ, Hợp cốc, Quan nguyên, Túc tam lý.
- TQCCHK. Yếu: Định Suyễn, Thiên đột, Phế du, Chiên trung.
- CCHH Kong: Đại Chuỳ, Linh Đài, Liêm Tuyền, Thiên Đột, Ngọc Đường, Chiên
Trung, Trung Đình, Trung Phủ, Vân Môn, Thiên Phủ, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt
Khuyết, Kinh Cừ, Thái Uyên, Ngư Tế, Nội Quan, Thương Dương, Kiêm Trung
Du, Nhân Nghinh, Thuỷ Đột, Khí Xá, Khuyết Bồn, Khí Hộ, Ốc Ế, Ưng Song, Não
Không, Triếp cân, Dương Giao, Túc Khiếu Âm, Phách Hộ, Thần Đường, Đại Bao,
Đại Chung.
- TDCCĐ. Toàn: Phong Môn, Xích Trạch, Hiệp Cốc, Phong Long, Định Suyễn,
châm tả.
- Suyễn Do Đờm Trọc: Thanh nhiệt, hoá đờm, bình suyễn. Châm tả Hợp cốc, Đại
chuỳ, Xích trạch, Phế du, Phong long, Định suyễn, Nội quan (Hợp cốc, Đại chuỳ
sơ biểu, tán nhiệt; Xích trạch, Phế du, Định suyễn tuyên thông Phế khí, giáng
nghịch, chỉ khái; Phong long hoá đờm, giáng trọc; Nội quan bình suyễn, chỉ khái,
thuận khí, khoan hung (Tân Biên Châm Cứu trị Liệu Học).
- Suyễn Do Hư Chứng: Ích Phế, kiện Tỳ, bổ Thận, hoá đờm, bình suyễn, chỉ khái.

Châm bổ Phế du, Cao hoang du, Tỳ du, Túc tam lý, Khí hải, Thận du (Phế du, Cao
hoang du để bổ Phế, ích khí; Tỳ du, Túc tam lý kiện Tỳ Vị, dưỡng hậu thiên; Khí
hải, Thận du bồi bổ Thận khí).
- Sách CCTL. Học còn phân ra:
- Thực Suyễn: Phế Du, Phong Môn, Xích Trạch, Phong Long, Chiên Trung (đều
tả).
- Hư Suyễn: Thận Du, Quan Nguyên, Khí Hải, Cao Hoang Du, Túc Tam Lý (đều
bổ).
- Suyễn do Ngoại Cảm Phong Hàn: Ngoại Quan, Hiệp Cốc (đều tả).
- Sách Thực Dụng Châm Cứu Đại Toàn còn chia ra:
- Suyễn do thấp nhiệt:Thanh nhiệt, táo thấp: Tả Xích Trạch, bổ Tỳ Du, Thương
Khâu thêm Trung Quản, Phong Long, Thiên Đột.
-Suyễn do Thử Nhiệt: Ích Khí, dưỡng Âm: Thái Uyên, Thái Khê, Cao Hoang Du
châm bổ hoặc thêm cứu.
- Do Phế Nhiệt: Tả Phế, thanh nhiệt: Châm tả Xích Trạch, Liệt Khuyết, Đại Đô.
- Do Đờm Thực:Tả Phế, thanh đờm: châm tả Định Suyễn, Chiên Trung, Liệt
Khuyết, Phong Long, Vân Môn, Phế Du.
- Do Phế Âm Hư: Bổ Phế, dưỡng Âm: Châm bổ Thái Uyên, Cao Hoang, Thái Khê,
Phế Du, Định Suyễn, Khí Hải.
-Do Thận Âm Hư: Tư Âm, bổ Thận: châm bổ Thái Khê, Thận Du, Cao Hoang.
-Do Thận Dương Hư: Bổ Thận, nạp khí: Châm bổ + cứu Thận Du, Khí Hải, Phế
Du, Mệnh Môn, Quan Nguyên, Tam Tiêu Du.
-Do Tâm Dương Hư: Ôn bổ Tâm dương: châm bổ + cứu Thái Uyên, Tâm Du, Cự
Khuyết, Mệnh Môn, Khí Hải, Quan Nguyên.
-HĐCCTL. Lục: Cứu giữa đốt sống cổ 3 và 4, Thiên liêu, Thiên Tông, Phế Du,
Thiên Đột, Chiên Trung, Cưu Vĩ, Quan Nguyên, Liệt Khuyết, mỗi huyệt 20 tráng
trở lên.
- Chỉ dùng huyệt Nội quan trị hen suyễn có kết quả tốt (Triết Giang Trung Y Tạp
Chí 1959, 12).
- Suyễn tức, Hợp cốc, Chiên trung, Cự cốt, Phế du, Khúc trì, Thái uyên. Trong đó

thường dùng nhiều nhất là Suyễn tức và Hợp cốc Trị 26 ca đều có kết quả tốt (Lý
Diệu – Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1959, 12).
- Cứu thành sẹo đẻ trị suyễn. Lúc không lên cơn, chủ yếu cứu Đại chuỳ, Chiên
trung. Lúc lên cơn, chia làm ba loại:
a) Thể Phế suyễn: chọn huyệt Đại chuỳ, Phế du, Phong môn, Chiên trung, Thiên
đột.
b) Tỳ suyễn: Đại chuỳ, Phế du, Cao hoang, Trung quản.
c) Thận suyễn: Đại chuỳ, Khí hải, Thận du, Phế du, Cao hoang.
(Lý Chí Minh, Thượng Hải Trung Y Dược tạp Chí 1962, 2).
- Cứu thành sẹo Đại chuỳ, Thiên đột, Phế du trị 157 ca có kết quả tốt (Chu Thoả
Công, Thượng Hải Trung Y Dược Tạp Chí 1963, 11).
- Đại Chuỳ, Phong Trì, Định Suyễn, hợp với Xích Trạch, Liệt Khuyết, Nội Quan,
Túc Tam Lý, Phong Long, Phế Du, Tâm Du, Thận Du, Phục Lưu, Thái Khê, Lưu
kim 20 phút rồi rút kim (Thượng Hải Châm Cứu Tạp Chí 1986, 21).
- Chỉ châm huyệt Ngư tế. Mỗi lần chỉ châm 1 huyệt. Mỗi ngày hoặc mỗi lần lên
cơn suyễn, châm 1 lần. Châm đắc khí, hướng mũi kim về hướng lòng bàn tay, sâu
khoảng 0,5 thốn về phía bên trái, bên phải. Lưu kim 20-30 phút, cứ 5 phút vê kim
một lần. 10 lần là một liệu trình, hoặc khi phát cơn thì châm (Trung Quốc Châm
Cứu Tạp Chí 1985, 4).
- Cứu Đại chuỳ, Phế du (2 bên). Mỗi ngày cứu 1 cặp huyệt. 3 ngày là một liệu
trình. Hoặc dùng Thiên đột, Phế du (2 bên), Linh đài. Mỗi ngày cứu 1 cặp huyệt. 3
ngày là một liệu trình (Hồ Nam Trung Y Tạp Chí 1986, 40).
- Định Suyễn, Phong Môn thấu Phế Du.
. Phong Hàn thêm Hiệp Cốc, Liệt Khuyết, Suyễn Tức hoặc Thiên Đột, Khổng Tối.
. Đờm nhiều thêm Túc Tam Lý, Phong Long.
. Hơi thở ngắn thêm Quan Nguyên, Chiên Trung.
. Ho nhiều thêm Xích Trạch, Thái Khê.
(Trung Quốc Châm Cứu Tạp Chí 1987, 11).
+ Châm huyệt Khổng tối, sâu 0,5-0,5 thốn. Khi đắc khí thì dùng phép tả, đưa luồng
dẫn truyền lên đến ngực, lưu kim 30 – 60 phút (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu Trị

Liệu)
+ Châm huyệt Định Suyễn, châm bình bổ bình tả, lưu kim 30 phút (Trung Hoa Bí
Thuật Châm Cứu Trị Liệu)
+ Châm huyệt Ngư Tế một bên, ngày châm một lần hoặc khi lên cơn thì châm,
luân phiên huyệt bên phải, bên trái. Mũi kim hướng về phía lòng bàn tay, sâu 0,5
thốn. Lưu kim 20-30 phút. Cứ 5 phút vê kim một lần. 10 lần là một liệu trình hoặc
khi lên cơn thì châm (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu Trị Liệu)
+ Dùng kim Tam lăng châm huyệt Tứ Phùng nặn ra chất nước dịch mầu vàng. Ba
ngày làm một lần.
+ Dùng vị Ma hoàng, Tế tân, Can khương đều 15g, Bạch giới tử 30g. Tán bột, trộn
với 50g bột mì. Mỗi lần dùng 6g trộn với dầu (mè, dừa ) và 1 ít Xạ hương cho sền
sệt, dán vào huyệt Phế du 2 bên. Cách 2 ngày thay thuốc một lần. Đắp thuốc liên
tục 3 lần. Khi đắp thuốc vùng huyệt sẽ cảm thấy tê, nóng (Trung Hoa Bí Thuật
Châm Cứu Trị Liệu)
+ Người bệnh hơi ngửa cổ, châm vào huyệt Thiên Đột sâu 0,2 thốn, xoay mũi kim
hướng xuống phía dưới, áp sát mép sau cuống họng, từ từ đẩy kim vào sâu đến 0,5
thốn, khi có cảm giác căng, tức, vê kim về bên trái, bên phải 10 – 20 giây. Lưu kim
5-15 phút (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu Trị Liệu)
+ Chââm huyệt Nội Quan, khi đắc khí, dùng phép tả, dẫn khí lên đến nách, bệnh
chứng sẽ giảm. Khoảng 6 phút, cơn suyễn sẽ giảm, lưu kim ½ giờ rồi rút kim
(Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu Trị Liệu)
+ Châm huyệt Phù Đột 2 bên, làm sao cho có cảm giác căng tức từ cổ truyền
xuống ngực, trong ngực cảm thấy nóng là được (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu
Trị Liệu)
+ Vương Toàn Thụ (1988) xây dựng phác đồ trên cơ sở biện chứng phân bệnh
thành 4 thể loại:
(1) Phế Hư. huyệt chính gồm Định suyễn, Thái uyên, châm bình bổ, bình tả. Huyệt
phụ gồm Chiên trung, Thiên lịch, châm tả.
Định suyễn châm xiên hướng về cột sống sâu chừng 1 thốn, Thái uyên châm thẳng
sâu 0,5 thốn, lưu kim 10 - 20 phút. Hiệu quả đạt 94,87%.

(2) Thận Hư: huyệt chính gồm Định suyễn, Thái uyên. Huyệt phụ gồm Thận du,
Thái khê. Hiệu quả đạt 78,57%.
(3) Phong Hàn: huyệt chính Định suyễn, Thái uyên. Huyệt phụ gồm Phong trì,
Phong môn. Trị liệu 71 ca, đạt hiệu quả 98,65%.
(4) Phong Nhiệt: huyệt chính Định suyễn, Thái uyên. Huyệt phụ gồm Đại chuỳ,
Hợp cốc. Trị liệu 41 ca, đạt hiệu quả 97,56% (Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai
Tuỵ).
+ Hà Thụ Hoè (1981) chọn Chiên trung, Nội quan, Liệt khuyết, Túc tam lý và
Phong trì; Phế hư thêm Thái khê, Thái bạch; Tỳ hư thêm Thái bạch, Tam âm giao;
Thận hư thêm Thái khê hoặc Chiếu hải; Đờm trệ thêm Phong long.
Tuỳ theo bệnh tình cụ thể hư thì bổ, thực thì tả, lưu kim 20 phút. Châm cách nhật,
10 lần là một liệu trình, giữa 2 liệu trình nghỉ một tuần. Trị 62 ca, đạt hiệu quả
87,1% (Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai Tuỵ).
+ Quách Liên Hán (1990) dùng Phế du, Định suyễn, Liệt khuyết, Thiên đột, Chiên
trung. Thời kỳ phát tác thêm Hợp cốc, Nội quan, Khúc trì; Thời kỳ hoãn giải thêm
Phế du, Túc tam lý, Tam âm giao; Cơn hen liên tục thêm Thận du, Phong long,
Huyết hải. Châm lưu kim 20 - 30 phút, mỗi tuần châm một lần, liên tục 4 - 6 lần là
một liệu trình. Trị 150 ca, đạt hiệu quả 93,3% (Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai
Tuỵ).
+ Yêu Trung Bá (1990) dựa theo Tiêu và Bản để chọn huyệt châm.
. Trị tiêu chọn Định suyễn, Liệt khuyết, Hợp cốc, Chiên trung, Xích trạch.
. Trị bản chọn Phế du, Linh đài, Thận du, Túc tam lý, Thái khê, Thiên đột.
Thời kỳ phát tác trị tiêu dùng tả pháp, thời kỳ hoãn giải trị bản dùng bình bổ bình
tả pháp. Mỗi ngày châm một lần, lưu kim 10 phút, 10 ngày là một liệu trình, mỗi
liệu trình cách nhau 10 ngày. Trị 69 ca, đạt hiệu quả 89,8% (Châm Cứu Trị Liệu
Bách Bệnh Oai Tuỵ).
+ Tôn Lợi Nhân (1959) dùng đơn huyệt Nội quan cả hai bên, nam châm bên trái
trước, nữ châm bên phải trước. Hai huyệt phân biệt thủ pháp bổ tả: hư chứng trước
bổ sau tả, thực chứng trước tả sau bổ, lưu kim 3 phút, về kim 7 lần, lay kim lên
xuống 7 lần. Trị 285 ca đạt kết quả rất tốt (Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai

Tuỵ).
+ Triệu Hành Toàn (1977) châm huyệt Thanh suyễn (nằm ở giữa sụn giáp và huyệt
Thiên đột, tương ứng với chỗ tiếp giáp giữa sụn nhẫn và khí quản), dùng kim hào
châm dài 1 thốn châm chếch lên trên sâu 0,3 -0,5 thốn sao cho bệnh nhân có cảm
giác căng tức nhiều, khi đó rút kim lên một ít rồi lại đưa kim xuống theo các hướng
xuống dưới, sang phải, sang trái rồi rút kim, không lưu kim. Trị 30 ca đều đạt hiệu
quả (Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai Tuỵ).
+ Lưu Trạch Quang (1985) chỉ châm huyệt Ngư tế một bên, mỗi ngày một lần, mũi
kim hướng chếch lên trên sâu chừng 5 phân, lưu kim 20 - 30 phút, cứ 5 phút vê
kim một lần. Trị 200 ca, đạt hiệu quả 98,5%, trong đó có 129 ca ổn định trên 2 năm
không thấy tái phát (Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai Tuỵ).
+ Khúc Kính Lai (1990) châm thẳng huyệt Túc tam lý sâu 1- 2 thốn, lưu kim 20
phút, vê kim từ 2 - 4 lần. Trị 30 ca hen phế quản thể tỳ hư, đạt hiệu quả 90%
(Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai Tuỵ).
+ Trương Âu Quang (1981) châm các điểm quá mẫn được xác định bằng cách
dùng ngón cái bàn tay phải ấn dò tìm ở tay, chân, ngực và lưng những vị trí có cảm
giác đau, căng chướng hoặc tê bì. Nếu các điểm mẫn cảm quá nhiều có thể phân
chia thành từng nhóm để luân phiên sử dụng. Thường châm với cường độ kích
thích mạnh không lưu kim, 6 ngày là 1 liệu trình, giữa 2 liệu trình nghỉ 7 ngày. Trị
42 ca, đạt hiệu quả 69% (Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai Tuỵ).
+ Triệu Tử Hiền (1987) dùng phương pháp dán các hạt Vương bất lưu hành lên các
huyệt Giao cảm, Thần môn, Chẩm, Suyễn, Phế, Đại trường, Khí quản, Mũi trong,
Thận ở tai. Mỗi ngày day ấn 3 - 4 lần, mỗi lần 5 - 10 phút. Trị 40 ca, đạt hiệu quả
98% (Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai Tuỵ).
+ Uý Trì Tịnh (1987) dùng Bạch giới tử hoặc Vương bất lưu hành dán vào các
huyệt Khí quản, Phế, Tuyến thượng thận, Tiền liệt tuyến ở cả hai tai, 5 ngày thay
một lần, mỗi ngày day ấn 4 lần, mỗi lần ấn mỗi huyệt một phút. Trị 60 ca, đạt hiệu
quả 95% (Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai Tuỵ).
+ Trần Tất Thông (1995) cứu trực tiếp huyệt Thiếu thương, mỗi lần 3 - 5 tráng,
mỗi ngày một lần, 10 lần là một liệu trình. Trị 37 ca đạt hiệu quả 73% (Châm Cứu

Trị Liệu Bách Bệnh Oai Tuỵ).
+ Trương Học Giám (1995) sử dụng hai huyệt Khổng tối và Ngư tế. Đầu tiên, dùng
kim hào châm dài 1 thốn châm tẫ các huyệt cả 2 bên, sau đó cho điện châm với tần
số 160 lần/phút, cường độ vừa phải, lưu kim 30 - 60 phút. Trị 192 ca đạt hiệu quả
98,9% (Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai Tuỵ).
+ Mã Minh Phi (1992) châm các Suyễn điểm, Khái điểm ở bàn tay (thủ châm liệu
pháp), lưu kim 30 phút, 5 - 10 phút vê kim một lần, mỗi ngày châm một lần, 10 lần
là một liệu trình, giữa hai liệu trình nghỉ 1 tuần. Trị 100 ca, đạt hiệu quả 96%
(Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai Tuỵ).
+ Quản Tuân Huệ (1987), thể phong nhiệt châm các huyệt Định suyễn, Phong môn
xuyên Phế du. Thể phong hàn thêm Hợp cốc, Liệt khuyết. Thể đờm trệ thêm Túc
tam lý, Phong long. Khó thở nhiều thêm Quan nguyên, Chiên trung. Ho nhiều thêm
Xích trạch, Thái uyên. Dùng máy nhiệt châm GZH, đảm bảo độ ấm của kim từ 40
– 70oC. Các huyệt phối hợp châm thường, lưu kim 20 phút. Giai đoạn phát tác
châm hàng ngày, mỗi ngày một lần, khi các triệu chứng đã giảm có thể châm cách
ngày, 6 lần là một liệu trình, nghỉ 3 - 5 ngày rồi châm tiếp 1 liệu trình nữa. Trị 64
ca, đạt hiệu quả 96,9% (Châm Cứu Trị Liệu Bách Bệnh Oai Tuỵ).
Nhĩ Châm Trị Suyễn
Bình suyễn, Thượng thận tuyến, Khí quản, Dưới đồi, Giao cảm, Nội phân bí, Phế,
Tỳ, Thận. Mỗi lần chọn 5 huyệt. Châm kích thích mạnh, lưu kim 30-60 phút. Mỗi
ngày hoặc cách ngày châm một lần.
Y Án Trị Hen Suyễn
(Trích trong Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm)
Bệnh nhân Ngưu, nữ, 56 tuổi, nông dân, nhập điều trị ngoại trú ngày 21/11/1969.
Bệnh nhân trước đây có những cơn hen kịch phát tái diễn khoảng 4 năm và đã
được điều trị bằng Ephedrine, Aminophỵlline, Sulfaminidine khi lên cơn. Cơn
bệnh dẫn đến sự thăm khám lần này là đột ngột khó thở, xanh tím kéo dài 6 giờ.
Các khám nghiệm thấy môi và mặt xanh tím, miệng há và rút vai, thở hổn hển, khò
khè trong hai phổi.
Chẩn đoán là hen phế quản.

Điều trị: Phương huyệt: Phong môn và Quyết âm du.
Bệnh nhân ngồi tựa lưng, hai vai buông xuống. Dùng kim dài ba thốn châm xiên
góc 12o từ huyệt Phong môn xuyên đến huyệt Quyết âm du, nâng lên (đề), đẩy
xuống (án) vàvê kim một lúc. Châm một bên sau đó bên kia, rồi giác các huyệt đã
châm khoảng 10 - 15 phút. Sau đó khó thở giảm một cách rõ rệt. 6 giờ sau, sau một
lần điều trị nữa, tiếng rít cũng đã giảm nhiều. Hôm sau, bệnh nhân đã trở nên khoẻ
hơn, có thể ngủ nằm ngửa và cơn khó thở đã dịu xuống. Khám nghiệm cơ thể: lồng
ngực bình thường ngoại trừ âm thở hơi thô ở phổi phải.

×