Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Kiểm toán nội bộ - Công cụ hữu hiệu của hoạt động kiểm soát.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.57 KB, 33 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập với các nước trên thế giới
và trong khu vực, thêm vào đó nhiều vấn đề chưa được giải quyết đồng bộ như các
yếu tố về pháp luật, về luật định, về các chính sách kinh tế-xã hội… Do đó, việc
điều hành quản lý hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay ít nhiều bị ảnh hưởng.
Thực tế xảy ra ở nhiều doanh nghiệp có những biểu hiện không đồng bộ, khổn
thống nhất, cácvụ việc vi phạm quy chế, nghiệp vụ vẫn lặp đi lặp lại chưa được
giải quyết triệt để. Muốn uốn nắn và phát hiện sai sót kịp thời nhằm nâng cao hiệu
quả kkinhdoanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải có một bộ phận kiểm toán nội bộ
hoạt động một cách có hiệu quả tại mỗi doanh nghiệp.
Việc hình thành một tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp sẽ làm
chi phí quản lý tăng lên trong khi các doanh nghiệp chưa thấy được các lợi ích
mang lợi từ kiểm toán nội bộ. Đây là một trong những lý do làm cho các doanh
nghiệp nhất là các doanh nghiệp có quy mô hoạt động nhỏ chưa tổ chức bộ phận
kiểm toán. Các doanh nghiệp này thường kết hợp giữa bộ phận kế toán với bộ
phận kiểm toán. Điều này trái với nguyên tắc “bất kiêm nhiệm” và không đúng với
tính chất, nội dung của kiểm toán nội bộ. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp hiện
nay đã có bộ phận kiểm toán nội bộ nhưng hoạt động còn yếu kém, chỉ mang tính
hình thức nên tác dụng giám sát và kiểm tra còn yếu. Một phần do kiểm toán viên
chưa được đào tạo đầy đủ về chuyên môn kiểm toán, thiếu kinh nghiệm trong
kiểm toán. Mặt khác kiểm toán viên cũng chưa được giao đầy đủ “quyền hạn trách
nhiệm”. Vì vậy đôi khi công tác kiểm toán mất tính khách quan, chỉ kiểm toán và
đưa ra những kết luận tốt, những mặt ưu điểm còn sai sót thì bỏ qua.
Chính vì vậy, việc hình thành một hệ thống kiểm toán nội bộ là một tất yếu
đối với các doanh nghiệp hiện nay. Đồng thời việc hoàn thiện các công tác này là
một điều rất cần thiết không chỉ cho bản thân các doanh nghiệp mà còn cho cả hệ
thống nền kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp
và xuất phát từ mong muốn muốn tìm hiểu thêm nữa về công tác kiểm toán nội bộ
1
nên em đã chọn đề tài là: “Kiểm toán nội bộ - Công cụ hữu hiệu của hoạt động


kiểm soát”.
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo đề án môn học
của em gồm các phần chính như sau:

Phần I: Hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp hiện nay.
Phần II: Kiểm toán nội bộ - công cụ hữu hiệu của công cụ kiểm soát.
Phần III: Đánh giá về kiểm toán nội bộ.
Đề án môn học này được hoàn thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
thầy giáo thạc sỹ Phan Trung Kiên đã nhiệt tình chỉ dẫn và giúp đỡ em rất nhiều
trong quá trình thực hiện và hoàn thành bản đề án này.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
PHẦN I:
HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG DOANH NGHIỆP
HIỆN NAY
1. Bản chất của hệ thống kiểm soát nội bộ
Kiểm soát luôn là một khâu quan trọng trong mọi quy trình quản trị, do đó
các nhà quản lý thường quan tâm nhiều hơn đến việc hình thành và duy trì các hoạt
động kiểm soát để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Với ý nghĩa đó, kiểm soát
có thể được hiểu theo nhiều chiều: cấp trên quản lý cấp dưới thông qua chính sách
hoặc biện pháp cụ thể, đơn vị này kiểm soát đơn vị khác thông qua chi phối đáng
kể về quyền sở hữu và lợi ích tương ứng, nội bộ đơn vị kiểm sóat lẫn nhau thông
qua quy chế và thủ tục quản lý v.v… Tuy nhiên, thông dụng nhất vẫn là kiểm soát
nội bộ đơn vị.
Đối với một tổ chức, doanh nghiệp, việc kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt
động hàng ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp, tổ
chức phải có một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu.
Theo liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC), hệ thống kiểm soát nội bộ là một
hệ thống chính sách và thủ tục nhằm bốn mục tiêu: bảo vệ tài sản của đơn vị, bảo
đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý, và

bảo đảm hiệu quả của hoạt động.
Tuy nằm trong một thể thống nhất song bốn mục tiêu trên đôi khi cũng có
sự mâu thuẫn với nhau như tính hiệu quả của hoạt động với mục đích bảo vệ tài
sản, sổ sách hoặc cung cấp thông tin đầy đủ và tin cậy. Vì vậy nhiệm vụ của các
nhà quản lý là xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu và kết hợp hài
hòa bốn mục tiêu trên.
Theo Chuẩn mực kiểm toán số 400 quy định: “Hệ thống kiểm soát nội bộ là
các quy định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp
dụng nhằm đảm bảo cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định, để kiểm tra,
kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót để lập báo cáo tài chính trung
thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị”.
Về bản chất, có thể hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ như sau:
3
- Kiểm soát nội bộ là một quá trình, bao gồm một chuỗi hoạt động kiểm
soát hiện diện ở mọi bộ phận trong đơn vị và được kết hợp với nhau thành một thể
thống nhất.Quá trình kiểm soát là phương tiện để giúp đơn vị đạt được các mục
tiêu của mình.
- Kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành bởi con người. Kiểm soát nội
bộ không chỉ đơn thuần là những chính sách, thủ tục, biểu mẫu … mà bao gồm cả
con người trong tổ chức như Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các nhân viên
khác… Chính con người định ra mục tiêu, thiết lập cơ chế kiểm soát ở mọi nơi và
vận hành chúng.
- Kiểm soát nội bộ cung cấp một sự đảm bảo hợp lý, chứ không bảo đảm
tuyệt đối là các mục tiêu sẽ được thực hiện. Do trong khi vận hành hệ thống kiểm
soát các sai phạm có thể xảy ra làm cho các mục tiêu không thực hiện được, hệ
thống kiểm soát nội bộ có thể ngăn chặn các sai phạm nhưng không thể đảm bảo
chúng không bao giờ xảy ra.
2. Các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ
Mặc dù có sự khác biệt về tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ giữa các đơn
vị khác nhau song ở bất kỳ đơn vị nào hệ thống kiểm soát nội bộ cũng được cấu

thành bởi các bốn yếu tố cơ bản sau:
* Môi trường kiểm soát:
Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong và bên ngoài đơn
vị tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ kiệu của các loại hình kiểm
soát nội bộ.
Các nhân tố thuộc môi trường kiểm soát chủ yếu liên quan tới quan điểm,
thái độ và nhận thức cũng như hành động của các nhà quản lý trong doanh nghiệp;
bao gồm: Đặc thù về quản lý, Cơ cấu tổ chức, Chính sách nhân lực, Công tác kế
hoạch, Ủy ban kiểm soát, Môi trường bên ngoài. Nhưng trên thực tế, tính hiệu quả
của các hoạt động kiểm tra, kiểm soát trong các hoạt động của một tổ chức phụ
thuộc chủ yếu vào các nhà quản lý tại doanh nghiệp đó. Nếu các nhà quản lý cho
rằng công tác kiểm tra, kiểm soát là quan trọng và không thể thiếu được đối với
mọi hoạt động trong đơn vị thhì mọi thành viên trong đơn vị đó sẽ có nhận thức
4
đúng đắn về hoạt động kiểm tra, kiểm soát và tuân thủ mọi quy định cũng như chế
độ đề ra. Ngược lại, nếu hoạt đọng kiểm tra, kiểm soát bị coi nhẹ từ phía các nhà
quản lý thì chắc chắn các quy chế về kiểm soát nội bộ sẽ không được vận hành
một cách có hiệu quả bởi các thành viên của đơn vị.
* Hệ thống thông tin:
Hệ thống thông tin chủ yếu là hệ thống kế toán của đơn vị bao gồm hệ
thống chứng từ kế toán, hệ thống sổ kêư toán, hệ tống tài khoản kế toán, hệ thống
bảng tổng hợp cân đối kế toán. Trong đó, quá trình lập và luân chuyển chứng từ
đóng vai trò quan trọng trong công tác kíểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Mục đích của hệ thống kế toán của một tổ chức là sự nhận diết thu thập,
phân loại, ghi sổ và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế tài chính của tổ chức đó, thỏa
mãn chức năng thông tin và kiểm tra của hoạt động kế toán. Một hệ thống kế toán
hữu hiệu phải bảo đảm các mục tiêu kiểm toán chi tiết:
- Tính có thực: cơ cấu kiểm soát không cho phép ghi chép những nghiệp vụ
không có thực vào sổ sách của đơn vị.
- Sự phê chuẩn: bảo đảm mọi nghiệp vụ xảy ra phải được phê chuẩn hợp lý.

- Tính đầy đủ: bảo đảm việc phản ánh trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh.
- Sự đánh giá: bảo đảm không có sai phạm trong việc tính toán các khoản
giá và phí.
- Sự phân loại: bảo đảm các nghiệp vụ được ghi chép đúng theo sơ đồ tài
khoản và ghi nhận đúng đắn ở các sổ sách kế toán.
- Tíng đúng kỳ: bảo đảm việc ghi sổ các nghiệp vụ phát sinh được ghi sổ
theo đúng quy định.
- Quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác: số liệu kế toán được ghhi vào
sổ phải được tổng cộng và chuyển sổ đúng đắn, tổng hợp chính xác trên các Báo
cáo tài chính của doanh nghiệp.
5
* Các thủ tục kiểm soát:
Các thủ tục kiểm soát do Ban giám đốc đơn vị thiết lập và thực hiện nhằm
đạt được mục đích quản lý cụ thể. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 quy
định: “Kiểm toán viên phải hiểu biết các thủ tục kiểm soát của đơn vị để xây dựng
kế hoạch và chưong trình kiểm toán”. Các thủ tục kiểm soát chủ yếu bao gồm:
- Lập, kiểm tra, so sánh và phê duyệt các số liệu liên quan đến đơn vị.
- Kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính toán.
- Kiểm tra chưong trình ứng dụng và môi trường tin học.
- Kiểm tra và phê duyệt các tài liệu kế toán.
- Đối chiếu giữa số liệu nội bộ với bên ngoài.
- So sánh, đối chiếu kết quả kiểm kê thực tế với số liệu trên sổ kế toán.
- Giới hạn việc tiếp cận trực tiếp với các tài sản và các tài liệu kế toán.
- Phân tích, so sánh giữa số liệu thực tế với dự toán, kế hoạch.
Các thủ tục kiểm soát được thiết lập dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: nguyên
tắc phân công phân nhiệm rõ ràng; nguyên tắc bất kiêm nhiệm; nguyên tắc ủy
quyền và phê chuẩn.

* Kiểm toán nội bộ:

Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập được tiến hành trong đơn vị tiến
hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ
đơn vị.
Theo liên đoàn kế toán Quốc tế IFAC, kiểm toán nội bộ là một hoạt động
đánh giá được lập ra trong một doanh nghiệp như là một loại dịch vụ cho doanh
nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu quả của
hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ.
Là một ttrong những nhân tố cơ bản trong hệ thống kiểm soát nội bộ của
doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự quan sát, đánh giá
thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả tính hiệu quả
của việc thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục kiểm soát nội bộ. Bộ phận
kiểm toán nội bộ hữu hiệu sẽ giúp cho doanh nghiệp có được những thông tin kịp
thời và xác thực về các hoạt động của doanh nghiệp, chất lượng của hoạt đọng
6
kiểm soát nhằm kịp thời điều chỉnh và bổ sung các quy chế kiểm soát hợp lý và
hiệu quả. Tuy nhiên, bộ phận kiểm toán nội bộ chhỉ phát huy tác dụng nếu:
- Về tổ chức, bộ phận kiểm toán nội bộ phải trực thuộc một cấp cao đủ để
không giới hạn phạm vi hoạt động của nó. Đồng thời phải được giao một quyền
hạn tương đối rộng rãi và hoạt động tương đối độc lập với phòng kế toán và bộ
phận được kiểm tra.
- Về nhân sự, bộ phận kiểm toán nội bộ phải tuyển chọn những nhân viên
có năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với quy định hiện hành.
3. Những hạn chế tiềm tàng của kiểm soát nội bộ
Ở bất kỳ đơn vị nào, dù đã được đầu tư rất nhiều trong thiết kế và vận hành
hệ thống, thế nhưng một hệ thống kiểm soát nội bộ vẫn không thể hoàn toàn hữu
hiệu. Bởi vì ngay cả khi có thể xây dựng hệ thống hoàn hảo về cấu trúc thhì hiệu
quả thật sự của nó vẫn phụ thuộc vào nhân tố chủ yếu là con người, tức là phụ
thuộc vào năng lực làm việc và tính đáng tin cậy của lực lượng dân sự. Do đó hệ
thống kiểm soát nội bộ chỉ giúp hạn chế tối đa các sai phạm mà thôi vì nó cá các
hạn chế tiềm tàng xuất phát từ nguyên nhân sau:

- Những hạn chế xuất phát từ bản thân con người như sự vô ý, bất cẩn,đãng
trí hay ước lượng sai, hiếu sai chỉ dẫn của cấp trên hoặc các báo cáo của cấp
dưới…
- Khả năng đánh lừa, lẩn tránh của nhân viên thông qua sự thông đồng với
nhau hay với các bộ phận bên ngoài đơn vị.
- Hoạt động kiểm soát thường chỉ nhằm vào cácnghiệp vụ thường xuyên
phát sinh mà ít chú ý đến những nghiệp vụ không thường xuyên, do đó những sai
phạm trong các nghiệp vụ này thường hay bị bỏ qua.
- Yêu cầu thường xuyên và trên hết của người quản lý là chi phí bỏ ra cho
hoạt đọng kiểm soát phải nhỏ hơn giá trị thiệt hại được tính do sai sót hay gian lận
gây ra.
- Luôn có khả năng là các cá nhân có trách nhiệm kiểm soát đã lạm dụng
quyền hạn của mình nhằm phục vụ cho mưu đồ riêng.
7
- Điều kiện hoạt động của đơn vị thay đổi nên dẫn tới những thủ tục kiểm
soát không còn phù hợp…
Chính những hạn chế nói trên đây của kiểm soát nội bộ là nguyên nhân
khiến cho kiểm soát nội bộ không thể bảo đảm tuyệt đối trong việc đạt được mục
tiêu của mình.
8
PHẦN II:
KIỂM TOÁN NỘI BỘ-CÔNG CỤ HỮU HIỆU CỦA HỆ THỐNG
KIỂM SOÁT
1. Sự cần thiết của kiểm toán nội bộ
Hình thức kiểm toán nội bộ lần đầu tiên xuất hiện tại Mỹ vào những năm 30
của thế kỷ 20 và sau đó lan rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tổ chức quốc tế
về kiểm toán nội bộ (IIA) đã thành lập năm 1941 tại Mỹ. Tổ chức này đã quy định
bản chất, mục tiêu, chức năng và phạm vi họat động của kiểm toán nội bộ. Tổ
chức kiểm toán nội bộ là thành viên của IFAC và INTOSAI. Từ những năm 60
cho đến nay, hoạt động kiểm toán nội bộ đã phát triển rộng rãi trên thế giới.

Từ quan điểm thuần túy về kế toán, nhằm phát hiện các sai sót và gian lận,
kiểm toán nội bộ đã dần dần mở rộng phạm vi hoạt động trên tất cả các lĩnh vực
hoạt động của đơn vị hoặc của doanh nghiệp đồng thời hướng hoạt động kiểm soát
nội bộ vào việc cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường sức mạnh
cho cơ chế kiểm soát nội bộ. Trong các công ty, tập đoàn kinh tế lớn có nhiều chi
nhánh với khối lượng chứng từ, sổ sách kế toán khổng lồ thường có thêm bộ phận
kiểm toán nội bộ. Đay chính là bộ phận quan trọng trong công ty, là cánh tay phải
của ban giám đốc trong việc quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Kiểm
toán nội bộ là bộ phận chịu trách nhiệm xem xét lại một cách định kỳ các biện
pháp mà ban giám đốc và các nhà quản lý ở mọi cấp áp dụng để quản lý và kiểm
soát doanh nghiệp đồng thời chịu sự điều hành của ban giám đốc nhưng hoàn toàn
độc lập với tất cả các bộ phận khác. Bộ phận này quản lý hoạt động của phòng ban
kế toán trong doanh nghiệp, tìm ra các sai phạm trong quản lý tài chính của các bộ
phận, phòng ban, chi nhánh, công ty con…để kịp thời phản ánh với ban lãnh đạo
công ty.
Ở các nước trên thế giới, kiểm toán nội bộ không được quy định bởi pháp
luật hoạt động kiểm toán cũng như các nhà chuyên môn trong lĩnh vực kiểm toán
nội bộ đều không phải tuân thủ các quy định trừ những người là thành viên của
một tổ chức nghề nghiệp. Nói cách khác, không có quy định bắt một công ty hay
doanh nghiệp phải có kiểm toán nội bộ. ở những đơn vị có quy mô nhỏ, các hoạt
9
động thường đơn giản hoặc ít phức tạp và rủi ro trong quá trình quản lý cũng ít
xảy ra. Khi đó, nhà quản lý của đơn vị sẽ thực hiện việc kiểm tra và đánh giá về
những chính sách và các thủ tục kiểm soát trong đơn vị. Nhưng ở các đơn vị có
quy mô lớn đến một mức nào đó, quyền hạn và trách nhiệm sẽ phải được phân
chia cho nhiều bộ phận. Điều này dẫn đến mối quan hệ giữa những bộ phận chức
năng và các nhân viên sẽ trở nên phức tạp, quá trình truyền đạt và thu nhận thông
tin phảm hồi cũng trở nên khó khăn hơn, quá trình truyền đạt và thu nhận thông tin
phản hồi cũng trở nên khó khăn hơn; bên cạnh đó tài sản sẽ bị phân tán ở nhiều
nơi do được sử dụng cho các hoạt động và mục tiêu khác nhau…và rủi ro gây ra

ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động và mục tiêu của đơn vị cúng sẽ tăng
lên. Lúc này, các nhà quản lý khó có thể trực tiếp tiến hành việc kiểm tra và đánh
giá sự tuân thủ các chính sách và thủ tục kiểm soát. Vì thế, cần phải có một bộ
phận chuyên môn để giúp họ thực hiện điều này, đó chính là bộ phận kiểm toán
nội bộ.
Ở nước ta, khả năng dự báo và phân tích của các doanh nghiệp là rất hạn
chế, còn nhiều dáng dấp của thời quản lý bao cấp. Doanh nghiệp quốc doanh vẫn
muốn ỷ lại, dựa dẫm vào nhà nước. Doanh nghiệp chưa có hệ thống phân tích chức
năng, do đó việc tổ chức một bộ phận kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp là hết
sức đúng đắn. Kiểm toán nội bộ là tai mắt cho doanh nghiệp. Mục đích của kiểm
toán nội bộ là tạo ra công cụ để phân tích toàn bọ hoạt động chiến lược, để rút
kinh nghiệm trong quản lý, trong điều hành, đòng thời đề ra chiến lược phát triển
của riêng doanh nghiệp, đảm bảo chi tiêu có lợi, tiết kiệm, minh bạch về số liệu kế
toán.
Sau khi Nhà nước ban hành Quyết định 832-TC/QĐ/CĐKT ngày 28 tháng
10 năm 1997 về viẹc ban hành quy chế kiểm toán nội bộ, ởt nhiều Tổng công ty
bộ phận kiểm toán nội bộ đã được thành lập và đi vào hoạt động.
2. Bản chất, chức năng của kiểm toán nội bộ
2.1. Bản chất của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là nhu cầu cần thiết khách quan cho việc kiểm soát chất
lượng hoạt động và bảo đảm chất lượng thông tin kinh tế, tài chính của bản thân
10
doanh nghiệp. Kiểm toán nội bộ có vai trò rất lớn trong việc nâng cao chất lượng
hoạt động của doanh nghiệp và không chỉ giới hạn ở phạm vi kiểm toán báo cáo
tài chính. ở phạm vi rộng hơn và quan trọng hơn, kiểm toán nội bộ phải kiểm toán
hoạt động và kiểm toán tính tuân thủ các quy định, các chế độ hiện hành của Nhà
nước và của doanh nghiệp… nhưng nhìn chung, kiểm toán nội bộ là vấn đề khá
phức tạp và còn mới mẻ ở nước ta.
Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ (IIA) đã định nghĩa về kiểm toán nội bộ như
sau:

“Kiểm toán nội bộ là hoạt động bảo đảm và tư vấn mang tính độc lập, khách
quan được thiết lập nhằm tăng thêm giá trị và cải thiện cho các họat động của tổ
chức. Kiểm toán nội bộ giúp cho tổ chức hoàn thành mục tiêu thông qua việc đưa
ra một cách tiếp cận có hệ thống và kỷ cương nhằm đánh giá và cải thiện tính hữu
hiệu trong quản trị rủi ro, kiểm soát và giám sát”.
Theo các chuẩn mực hành nghề kiểm toán nội bộ ban hành tháng 5 năm
1978: “Kiểm toán nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên
trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó với tư
cách là một sự trợ giúp cho tổ chức đó”.
Kiểm toán nội bộ là một bộ máy thực hiện công việc kiểm toán trong tổ
chức và do chính nhân viên trong tổ chức tiến hành. Khhi thực hiện công việc,
kiểm toán viên nội bộ phải độc lập và khách quan, tức không bị cản trở khi xác
định phạm vi công việc trong thực tiễn công việc, trong thực hhiện cong việc và
thông báo kết quả của mình. Kiểm toán viên nội bộ phải vô tư, công bằng và
không được khoan nhượng về chất lượng cộng việc; đồng thời không để cho sự
phán xét trong công việc của mình bị lệ thuộc vào người khác. Ngoài công việc
kiểm tra, kiểm toán viên nội bộ có thể tư vấn cho các bộ phận trong đơn vị. Tính
chất và phạm vi của hoạt động này tùy theo sự thỏa thuận với bộ phận được tư vấn
và dự kiến về việc tăng thêm giá trị và cải thiện hoạt động tổ chức. Thí dụ, các
hoạt động tư vấn, trợ giúp, thiết kế quy trình và huấn luyện. Làm tăng thêm giá trị
hoặc lợi ích cho các chủ sở hữu,cổ đông, khách hàng… là mục đích của mọi tổ
chức. Giá trị có được thôngqua việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ và việc sử
dụng tối đa các nguồn lực để thúc đẩy sựgia tăng của sản phẩm và dịch vụ. Kiểm
11
toán viên nội bộ thông qua quá trình đánh giá rủi ro và thu thập bằng chứng, sẽ
tăng cường sự hiểu biết và cơ hội cải thiện hoạt động, từ đó góp phần làm tăng
thêm lợi ích cho tổ chức. Các thông tin hữu ích được kiểm toán viên gửi đến các
cấp quản lý thích hợp bằng những văn bản hoặc ý kiến kiến nghị, đề xuất. Kiểm
toán viên nội bộ phải luôn cố gắng để ngày càng hoàn thiện phương pháp thực
hiện công việc theo đúng những quy định về trách nhiệm nghề nghiệp trong việc

nhận định, phân tích, đánh giá, ghi chép và thông báo kết quả; đồng thời kiểm toán
viên nội bộ cũng phải tuân thủ những quy định về mặt đạo đức nghề nghiệp. Đánh
giá và cải thiện là chức năng chủ yếu của kiểm toán nội bộ, họ phải tìm hiểu, phận
tích sự việc để có những đánh giá thích hợp và đưa ra các đề xuất để cải thiện hoạt
động của tổ chức.
Mục đích của kiểm toán nội bộ là thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát chất
lượng hoạt động và chất lượng thông tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, giúp
cho công tác điều hành của chủ sở hữu, nhà điều hành doanh nghiệp trong việc
giúp phát hiện và khắc phục khâu yếu, ngăn ngừa sai sót, gian lận trong hoạt động
kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời, kết quả kiểm toán nội bộ sẽ góp
phần đắc lực và hiệu quả vào việc đảm bảo thông tin kinh tế, tài chính cung cấp
cho các đối tựong bên ngoài doanh nghiệp.
Mục tiêu của kiểm toán nội bộ :
- kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
- đảm bảo việc tuân thủ chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước,
quy chế và quy trình nghiệp vụ của đơn vị, ngăn ngừa những hiện tượng vi phạm
hoặc không tuân thủ pháp luật, quy trình nghệp vụ dẫn đến rủi ro trong hoạt động.
- đảm bảo hoạt động của từng bộ phận trong đơn vị được triển khai đúng
định hướng các biện pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ có hiệu lực và hiệu quả.
- xác định, đánh giá tính chính xác, đầy đủ, hợp lý của các thông tin trên
báo cáo tài chính và báo cáo nghiệp vụ của đơn vị.
- kiến nghị với các cơ quan chủ quản cấp trên trong việc sửa đổi, bổ sung,
kiến nghị hoặc ban hành mới các cơ chế, quy chế nhằm tăng cường biện pháp bảo
đảm an toàn tài sản, tăng hiệu quả hoạt động.
12
Đối tượng của kiểm toán nội bộ là các hoạt động kinh tế tài chính, kế toán,
kinh doanh của đơn vị, của các phòng ban, bộ phận trong tổ chức, doanh nghiệp.
Còn đối tượng phục vụ của kiểm toán nội bộ gồm:
- ban giám đốc: “ Khách hàng được ưu tiên của kiểm toán viên”.
- các bộ phận được kiểm toán với các yêu cầu thường là khác nhau, nhưng

kiểm toán viên sẽ không có hiệu quả nếu thiếu hoặc không có sự hợp tác của
người được kiểm toán.
Phạm vi thực hiện của kiểm toán nội bộ là:
- Kiểm toán các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị của doanh
nghiệp và các đơn vị thành viên.
- Kiểm toán tuân thủ
- Kiểm toán hoạt động
2.2. Chức năng của kiểm toán nội bộ.
Số liệu, tài liệu kế toán của doanh nghiệp là căn cứ pháp lý để đánh giá tình
hình và kết quả họat động sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện nghĩa vụ với
Nhà nước, với các bên liên quan của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về tính đầy đủ, trung thực, hợp lý của các số liệu kế toán và
các thông tin trong báo cáo tài chính đã được công bố.
Chính vì lý do đó, nhà nước yêu cầu các doanh nghiệp phải thường xuyên tổ
chức kiểm toán nội bộ nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin
kinh tế, tài chính; về bảo vệ an toàn tài sản của doanh nghiệp; về chấp hành luật
pháp, chính sách, chế độ của Nhà nước, cũng như các quyết định của hội đồng
quản trị, của tổng giám đốc doanh nghiệp đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Trước đây, chức năng của kiểm toán nội bộ được giới hạn trong việc kiểm
tra và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức. Trong những năm gần đây,
IIA đã mở rộng chức năng của kiểm toán nội bộ là đánh giá và cải thiện mọi hoạt
động của đơn vị. Phạm vi của hai chức năng này luôn gắn liền với những nội dung
công việc mà họ phải thực hiện, cụ thể như sau:
- Nhận định, phân tích và đánh giá những rủi ro có thể làm cho các thông tin
hoạt động trở nên không đáng tin cậy; đề xuất những biện pháp để cải thiện cách
thức ghi nhận, đo lường, phân loại và báo cáo về những thông tin này.
13

×