Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Basel và tiến trình hội nhập vào hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.26 KB, 22 trang )






Tiểu luận

BASEL và tiến trình hội nhập vào
hệ thống NHTM Việt Nam


BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 1
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ƯỚC BASEL

I/ QUÁ TRÌNH RA ĐỜI CỦA HIỆP ƯỚC BASEL:
Vào những năm 1980, hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh và có những
dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Đồng thời, quy định về vốn
điều lệ của các NHTM ở các nước khác nhau, nên dẫn đến cạnh tranh không công bằng
trong cùng một thị trường, đây là điều cấm kỵ trong cô chế hội nhập. Vì vậy lãnh đạo các
nước phát triển đã ngồi lại với nhau để tìm giải pháp thích hợp vừa khuyến khích cạnh
tranh nhưng đảm bảo công bằng và an toàn cho người gửi tiền, đó là một trong những lí
do quan trọng cho sự ra đời Hiệp ước Basel. Basel la yêu cầu về an toàn vốn do các ngân
hàng thuộc các nước nhóm G10 khởi xướng và được Ủy ban Quản lí ngân hàng thuộc
ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) ban hành lần đầu tiên vào năm 1988, xuất phát từ
những cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thị trường ngân hàng, mà đáng quan tâm
nhất là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức vào thời điểm đó. Do tính thiết thực
của nó nên cộng đồng các tổ chức tài chính, ngân hàng của hơn 100 nước khác cùng
hưởng ứng. Để phù hợp với những thay đổi lớn của thị trường, Basel đã được cải tiến và
sửa đổi lần thứ hai (Basel II) vào năm 2001 và có hiệu lực vào năm 2006. Ủy ban Basel
bao gồm Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10 và một số nước có hệ thồng


ngân hàng lớn mạnh hàng đầu thế giới bao gồm Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Itaia, Nhật,
Luxembua, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Anh, Mỹ đã kí Hiệp ước Basel (Basel
Accord), một cơ quan gọi là Hội đồng Basel về giám sát ngân hàng quốc tế cũng đã được
chính thức thành lập để theo dõi và chỉ đạo việc thực thi Hiệp ước. Ngoài ra, hệ thống
ngân hàng của nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng đã biểu thị đồng thuận tham gia
tuân thủ Hiệp ước.
Ủy ban Basel tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng thanh toán quốc tế
(BIS) tại Washington hoặc tại Thành phố Basel (còn gọi la Basle) – Thụy Sĩ. Ban thư kí
thường trực của Ủy ban này cũng có trụ sở làm việc tại Washington DC – Mỹ.
Quan điểm của Ủy ban Basel là sự yếu kém trong hê thống Ngân hàng của một
quốc gia dù là phát triển hay đang phát triển, đều có thể đe dọa không chỉ đến sự ổn định
về tài chính của quốc gia đó mà còn cả trên phạm vi toàn thế giới. Ủy ban Basel thường
xuyên tổ chức các cuộc thảo luận về vấn đề xoay quanh sự hợp tác quốc tế để giảm bớt
khoảng cách trong công tác giám sát ngân hàng, nâng cao chất lượng công tác giám sát
hoạt động ngân hàng trên toàn thế giới. Để làm được điều này, Ủy ban Basel đã cố gắng
tìm hiểu và thực hiện được 3 điều cơ bản:
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 2
¾ Trao đổi thông tin về hoạt động giám sát cấp quốc gia.
¾ Cải thiện hiệu quả kỹ thuật giám sát hoạt động ngân hàng quốc tế.
¾ Đặt ra những tiêu chuẩn giám sát tối thiểu trong những lĩnh vực ma Ủy ban
thực sự quan tâm.
II/ NHỮNG ĐIỂM CƠ BẢN CỦA BASEL I, BASEL II, BASEL III
1) BASEL I:
Mục tiêu:
Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) đã xây dựng chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn
và hiệu quả trong hoạt động ngận hàng nhằm chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong
trào lưu toàn cầu hóa. Tiêu chí đầu tiên đánh giá khả năng tham gia vào thị trường vốn
quốc tế là mức độ tuân thủ chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu – đây là nội dung nền tảng của
Basel I (1988). Ngoài những ảnh hưởng của quá trình tự do hóa tài chính và sự tiến bộ

trong công nghệ ngân hàng cũng như xu hướng đa dạng hóa các sản phẩm tài chính diễn
ra rầm rộ vào những thập kỷ cuối thế kỷ 20 thì yêu cầu xây dựng một nền tảng so sánh
hiệu quả hoạt động ngân hàng và đảm bảo hạn chế rủi ro trong hệ thống thanh toán liên
ngân hàng toàn cầu là động lực dẫn đến sự ra đời của Hiệp ước Basel I và sau đó hơn 10
năm là Basel II (1999).
Nội dung:
Basel I nhấn mạnh tầm quan trọng của tỷ lệ vốn an toàn trong hoạt động ngân
hàng. Khái niệm vốn trong Basel I đã chia các nhân tố của vốn thành 2 cấp:
 Vốn cấp 1 bao gồm vốn cổ phần thường và các khoản dự trữ công khai.
 Vốn cấp 2 bao gồm các khoản dự trữ không công khai, giá trị tăng thêm của
việc đánh giá lại tài sản, dự phòng chung và dự phòng tổn thất tín d
ụng, các công cụ nợ
cho phép chuyển đổi thành cổ phiếu và các khoản nợ thứ cấp.
Tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của tổ chức tín dụng.
Dựa trên cách tính vốn tự có này mà Basel 1 đã đưa ra chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu (CAR).
CAR = [(Vốn tự có hay vốn cơ bản) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%

Tài sản đã điều chỉnh rủi ro (RWA) = Tổng (Tài có nội bảng x Hệ số rủi ro) +
Tổng (Tài sản ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro)
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 3
Từ ngày 1.10.2010 theo thông tư 13/TT-NHNN ngày 20.5.2010 của NHNN thì tỉ
lệ CAR này sẽ được điều chỉnh từ 8% lên 9%. Ngoài ra, hiệp ước Basel I còn xác định
các hệ số rủi ro trong các loại rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động.
Hạn chế:
¾ Thứ nhất, việc phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản cho vay. Hệ số rủi
ro chưa chi tiết cho rủi ro theo đối tác (ví dụ như khả năng tài chính của khách hàng)
hoặc theo đặc điểm của khoản tín dụng (ví dụ như theo thời hạn). Điều này chỉ ra rằng có
thể các ngân hàng có cùng tỷ lệ an toàn vốn nhưng có thể đối mặt với các loại rủi ro khác

nhau, ở mức độ khác nhau.
¾ Thứ hai, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động. Các lí thuyết
về đầu tư chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư. Theo Basel I, quy
định về vốn tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa
dạng (ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (nhiều rủi ro hơn).
¾ Thứ
ba, Basel I chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến
các rủi ro khác như rủi ro quốc gia, rủi ro ngoại tệ, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, …
¾ Thứ tư, một số quy tắc do Basel I đưa ra chỉ có thể vận dụng trong trường hợp
ngân hàng hoạt động theo kiểu ngân hàng đơn, không dựa trên một sự sáp nhập hay hoạt
động theo kiểu tập đoàn ngân hàng, ngân hàng mẹ, ngân hàng – chi nhánh, …
¾ Thứ năm, một số quy định trong Basel I đã không còn phù hợp khi các ngân
hàng dần dần sáp nhập với nhau để tạo thành những tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh
cao và có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, các ngân hàng không còn chỉ hoạt động
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà luôn vươn ra tầm quốc tế.
2) BASEL II
:
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996
vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I đã không đề
cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ ngày càng tăng
lên, đó là rủi ro tác nghiệp.
Chính vì vậy, từ nă
m 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới thay
thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel (Basel II)
đã chính thức được ban hành. Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 cột trụ chính, Basel II đã
buộc các ngân hàng quốc tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản:
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 4
Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để
trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị

trường và rủi ro tác nghiệp (Cột trụ 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín
dụng có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường nhưng hoàn toàn là phiên bản
mới đối với rủi ro tác nghiệp.
Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về
những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể
đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này (Cột trụ 2). Với cột trụ này,
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
¾ Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn
của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức
vốn đó.
¾ Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn
nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng giám sát và
đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện một số hành
động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này.
¾ Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối
thiểu theo quy định.
¾ Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân
hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức
nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
Nguyên tắc thứ ba: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích
đáng theo nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh
sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ
cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của
ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro th
ị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá
của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này
đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách
minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ
giảm thiểu được rủi ro.



BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 5
Bảng 1. Trọng số rủi ro theo loại tài sản
Trọng số rủi ro Phân loại tài sản
0%
Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng.
Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính.
20%
Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn
Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước
50% Các khoản vay thế chấp nhà ở,…
100%
Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh nghiệp, các khoản
nợ từ các nước kém phát triển, các khoản vay thế cấp cổ phiếu, bất
động sản,…
Bảng 2.
Loại tài sản
Trọng số
rủi ro
Tỷ lệ vốn Số tiền
Tài sản
điều chỉnh
theo trọng
số rủi ro
Yêu cầu về
vốn tối
thiểu
Trái phiếu Chính phủ 0% 8% 1.000 USD 0 USD 0 USD

Trái phiếu đô thị 20% 8% 1.000 USD 200 USD 16 USD
Thế chấp nhà ở 50% 8% 1.000 USD 500 USD 40 USD
Vay không bảo đảm 100% 8% 1.000 USD 1.000 USD 80 USD
ƯU ĐIỂM CỦA BASEL II SO VỚI BASEL I:
- Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy
nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương
pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên
nguyên tắc thị trường.
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 6
- Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả
các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp
khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
- Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm
hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và
sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro.
- Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-operation
and Development). Basel II quy định từ 0 – 150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào,
bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
- Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa
nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm bảo,
phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
HẠN CHẾ CỦA BASEL II:
- Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có
thể được chấp nhận rộng rãi.
- Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu
lỳ kinh doanh.
- Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm
dịch vụ có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao.

3) BASEL III:
Hiệp ước Base III được phát triển để đối phó với những thiếu sót trong các qui
định về tài chính bị bộc lộ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Basel III tăng cường
yêu cầu về vốn của ngân hàng và giới thiệu các yêu cầu mới quy định về tính thanh
khoản ngân hàng và đòn bẩy ngân hàng. Tổ chức OECD ước tính rằng việc thực hiện
Basel III sẽ giảm tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 0,05%-0,15%
Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính gần đây, Ủy ban Basel về Giám sát
Ngân hàng (BCBS) đã đưa ra các điều chỉnh trong hướng dẫn đối với các quy định về
vốn và hoạt động các ngân hàng như sau:
Trong tài liệu hướng dẫn này trình bày các kiến nghị của Ủy ban Basel để tăng
cường vốn toàn cầu và các quy định về tính thanh khoản với mục tiêu thúc đẩy khu vực
ngân hàng trở nên linh hoạt hơn. Mục tiêu gói cải cách của Ủy ban Basel là nhằm cải
thiện khả năng của lĩnh vực ngân hàng để hấp thụ những cú sốc phát sinh từ sự căng
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 7
thẳng tài chính và kinh tế, bất kể nguồn gốc, do đó giảm nguy cơ khủng hoàng tràn từ
khu vực tài chính cho các nền kinh tế hiện tại
Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh
khoản để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêu
chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và chất
lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel II. Các đòn bẩy mới và tỷ
lệ tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn
tối thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong
trường hợp xảy ra khủng hoảng
Ngày 19/12/2009 các thành viên BCBS ban hành một thông cáo báo chí trong đó
trình bày hai chủ đề để xem xét và bình luận:
¾ Tăng cường khả năng phục hồi của nghành Ngân hàng
¾ Đưa ra khuôn khổ về đo lường rủi ro thanh khoản, các chuẩn mực và sự giám
sát Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS) cho phép một khoảng thời gian bình
luận đại chúng (kết thúc vào 16/04/2010), nhận kết quả 272 câu trả lời theo yêu cầu để

lấy ý kiến

TÓM TẮT CÁC THAY ĐỔI ĐƯỢC ĐỀ XUẤT:
1) Thứ nhất, chất lượng, tính nhất quán, và tính minh bạch của nguồn vốn
cơ sở sẽ được nâng lên:
¾ Vốn cấp 1: Chủ yếu của vốn cấp 1 là phải bao gồm vốn cổ phần thường và lợi
nhuận giữ lại
¾ Các công cụ vốn cấp 2 sẽ được cân đối hài hòa
¾ Vốn cấp 3 sẽ được loại bỏ
2) Thứ hai, mức vốn để bảo đảm các rủi ro phát sinh sẽ được tăng cường:
¾ Tăng cường các yêu cầu về vốn cho các khoản tín dụng với khách hàng phát
sinh, các nghiệp vụ bảo đảm cho các khoản vay, chứng khoán phái sinh và các giao dịch
tài chính
¾ Nâng cao vốn dự phòng cho các rủi ro
¾ Giảm các chu kỳ và
¾ Cung cấp các ưu đãi bổ sung để di chuyển các hợp đồng phái sinh trên thị
trường tự do đến các giao dịch ngoại hối tại Ngân hàng (trung tâm thanh toán bù trừ)
¾ Cung cấp ưu đãi để tăng cường quản lý rủi ro tín dụng đối ứng
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 8
3) Thứ ba, Ủy ban sẽ đưa ra một tỷ lệ đòn bẩy là một biện pháp bổ sung cho
khung rủi ro được thiết lập ở Basel II. Do đó, Ủy ban đang trình bày một yêu cầu tỷ lệ
đòn bẩy nhằm đạt được các mục tiêu sau:
¾ Xây dựng thêm lớp thứ hai cho đòn bẩy trong lĩnh vực Ngân hàng
¾ Đề xuất biện pháp bảo vệ bổ sung chống lại rủi ro mô hình và sai số đo bằng
cách bổ sung biện pháp chống rủi ro, một biện pháp đơn giản là dựa trên rủi ro tổng thể.
4) Thứ tư, Ủy ban đang đề xuất một loạt các biện pháp thúc đẩy xây dựng
các vùng đệm vốn trong thời điểm tốt và có thể được rút ra khi trong thời kỳ căng
thẳng ("Giảm chu kỳ và thúc đẩy các bộ đệm phản chu kỳ")
¾ Ủy ban cũng đề xuất hàng loạt các giải pháp để giải quyết tình trạng chu kỳ:

• Làm Giảm bất kỳ chu kỳ vượt quá yêu cầu vốn tối thiểu;
• Tăng cường hơn nữa các quy định hướng tới tương lai;
• Dự trự vốn để xây dựng các vùng đệm tại các ngân hàng tư nhân và khu
vực ngân hàng để giải quyết những tình trạng căng thẳng về vốn khi cần
¾ Đạt được mục tiêu rộng lớn hơn là chính sách thận trọng vĩ mô nhằm bảo vệ
khu vực ngân hàng trong thời kỳ tăng trưởng tín dụng quá mức:
• Yêu cầu sử dụng các khoản đầu tư dài hạn để ước lương trước xác suất vỡ
nợ,
• Dư toán suy thoái do các khoản lỗ tín dụng gây nên, được đề nghị trong
Basel II, để trở thành bắt buộc
• Cải thiện hiệu chuẩn các chức năng rủi ro, mà chuyển đổi ước tính thiệt
hại vào vốn pháp quy theo yêu cầu
• Ngân hàng phải tiến hành các cuộc kiểm tra bao gồm tăng trưởng tín dụng
lan rộng trong các kịch bản suy thoái
¾ Tăng mạnh mẽ hơn nữa tỷ lệ trích lập dự phòng:
• Ủng hộ sự thay đổi trong các tiêu chuẩn kế toán đối với một khoản tổn
thất dự kiến (EL) phương pháp tiếp cận (thông thường, số tiền EL: = LGD
* PD * EAD. Trong đó:
+ EL: Là khoản tổn thất dự kiến
+ LGD: Là khoản tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra
+ PD: Xác suất mặc định
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 9
+ EAD: Rủi ro mặc định đối với khách hàng)
5) Thứ năm, Ủy ban đang triển khai một tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh
khoản tối thiểu cho hoạt động ngân hàng quốc tế bao gồm một yêu cầu tỷ lệ thanh
khoản đảm bảo trong 30 ngày được củng cố bằng một tỷ lệ cấu trúc thanh khoản
dài hạn được gọi là Tỷ lệ dự phòng bình ổn.
Uỷ ban cũng đang xem xét lại nhu cầu vốn bổ sung, thanh khoản hoặc các biện
pháp giám sát khác để làm giảm yếu tố ngoại tác được tạo ra bởi các tổ chức quan trọng

được thành lập có hệ thống
Vào tháng 9/2010, Basel III định mức yêu cầu tỷ lệ là: 7-9,5% (4,5% 2,5% (bảo
tồn vùng đệm) + 0-2,5% (theo thời kỳ đệm)) cho cổ phần phổ thông và 8,5-11% cho Vốn
cấp 1 và 10,5-13 cho tổng số vốn












BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 10
PHẦN 2: TIẾN TRÌNH ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN BASEL
VÀO HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

I) Giai đoạn trước khi áp dụng Basel (những năm 1990):
Năm 1990, những quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các ngân
hàng đầu tiên được thể hiện trong các pháp lệnh về ngân hàng. Một số quy định cơ bản đã
có nhưng còn khá thô sơ như “Tổ chức tín dụng không được huy động vốn quá 20 lần
tổng số vốn tự có và quỹ dự trữ” thay vì sử dụng hệ số an toàn vốn theo quy định của
Basel I được ban hành năm 1988.
II) Giai đoạn áp dụng Basel vào hệ thống NHTM Việt Nam:
Những chuẩn mực quốc tế về đảm bảo lần đầu tiên được nghiên cứu và áp dụng
khá chi tiết vào Việt Nam kể từ khi Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín

dụng được ban hành vào năm 1997 và chúng đã được cụ thể hóa hai năm sau đó bằng quy
định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (Quyết định
297/1999/QĐ-NHNN), Quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng (Quyết
định 296/1999/QĐ-NHNN).
Năm 2005, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một số quy định mới để sửa đổi bất
hợp lý về vốn của Quy định 1999 và một số nội dung khác đã được bổ sung cho gần với
Basel I hơn. Điểm đáng chú nhất trong Quy định 2005 là việc tách bạch giữa hoạt động
của ngân hàng thương mại (các hoạt động cấp tín dụng và thanh toán là chủ yếu) và hoạt
động của ngân hàng đầu tư (các nghiệp vụ liên quan đến kinh doanh chứng khoán).
2.1. Năm 2005-2006:
Giai đoạn này, nhìn chung, các ngân hàng ở Việt Nam đang ở những bước đầu
tiên trong quá trình áp dụng những chuẩn mực quốc tế vào việc xây dựng một hệ thống
an toàn, giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động. Theo kết quả khảo sát do Công ty Tư
vấn Ernst & Young tiến hành năm 2006 để đ
ánh giá mức độ tuân thủ các nguyên tắc cơ
bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu của Ủy ban Giám sát ngân hàng quốc tế Basel, có tới
19 trong số 25 nguyên tắc phần lớn không tuân thủ, 1/25 nguyên tắc tuân thủ, 2/25
nguyên tắc không thực hiện phần lớn và 3/25 nguyên tắc không áp dụng. Trong đó, hầu
hết các nguyên tắc liên quan đến điều kiện tiên quyết bảo đảm giám sát ngân hàng hữu
hiệu (mục tiêu, nhiệm vụ, tính độc lập, khung pháp lý, quyền lự
c, hệ thống thông tin của
cơ quan giám sát ngân hàng), cấp phép và chấp thuận thay đổi cấu trúc ngân hàng, các
quy định an toàn hoạt động, phương pháp giám sát ngân hàng liên tục được đánh giá
không tuân thủ. Việc áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng chưa
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 11
đồng bộ và không triệt để dẫn đến cách nhìn nhận, đánh giá hệ thống ngân hàng chưa
phản ánh đầy đủ thực trạng tình hình.
Các quy định của Ngân hàng Nhà nước đã đề cập tới một số vấn đề liên quan tới
các điều khoản trong hiệp định Basel I nhưng vẫn ở mức còn hạn chế. Cụ thể: Quyết định

457/2005/QĐ-NHNN quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín
dụng đã phản ánh được các rủi ro liên quan đến hạch toán nội bảng và ngoại bảng và phù
hợp với Hiệp ước Basel về vốn mới (Basel Capital Accord I). Các nội dung quy định về
việc tính toán mức vốn tự có và tỷ lệ vốn tự có tối thiểu so với tổng tài sản “Có” rủi ro tại
Quyết định này đã tiến khá sát so với yêu cầu tính toán vốn tự có theo chuẩn mực Basel,
điều này đảm bảo hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mạiđược an toàn hơn.
Tuy nhiên, giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế vẫn còn tồn
tại một số khoảng cách, vì thế cách tính tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực kế toán Việt
Nam chưa phản ánh hợp lý rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng Việt Nam. Hầu hết
các Ngân hàng thương mạicổ phần đều đã đạt được hệ số an toàn vốn (CAR) trên 8%,
song nếu so sánh với cách tính hệ số an toàn của Basel như đã nêu ở trên, tức là mẫu số
phải cộng thêm cả vốn dành cho rủi ro thị trường thì rất ít Ngân hàng thương mạiViệt
Nam đạt được tỷ lệ an toàn vốn ở mức trên 8%. Thêm vào đó, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
là 8% được áp dụng thống nhất cho tất cả các ngân hàng mà không tính đến sự khác biệt
trong phạm vi, quy mô cũng như rủi ro của các ngân hàng. Đối với Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN, dư nợ tín dụng tại các Ngân hàng thương mạiphải được phân loại,
trích dự phòng rủi ro và có biện pháp đặc biệt đối với các khoản nợ xấu. Các khoản nợ
được phân loại dựa trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mỗi ngân hàng và chủ yếu
dựa vào khả năng thu nợ của mỗi khoản vay. Đây đồng thời cũng là cách phân loại nợ mà
Hiệp ước Basel đã đưa ra. Phương pháp trích lập nêu tại Quyết định 493 đã tiến khá sát
với thông lệ quốc tế, cụ thể: (i) Có trích lập dự phòng chung và dự phòng riêng; (ii) Có
tính giá trị Tài sản bảo đảm và loại trừ khi tính toán số tiền phải trích lập; (iii) Cho phép
các Ngân hàng th
ương mạiđược trích lập dần trong 3 năm, phù hợp với tình hình tài
chính và kết quả kinh doanh tại các Ngân hàng thương mại. Nhìn chung, quy định của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về giới hạn tín dụng với một nhóm khách hàng có liên
quan tương đối phù hợp với yêu cầu của Basel. Tuy nhiên, Quyết định 457/2005/QĐ-
NHNN quy định giới hạn tín dụng của Tổ chức tín dụng với một nhóm khách hàng có
liên quan là 60%, trong khi tỷ lệ này theo Basel chỉ là 25%. Ngoài ra, theo quy định trên
thì việc trích lậ

p dự phòng của các ngân hàng Việt Nam dựa trên tình trạng nợ quá hạn
của các khoản nợ chứ không dựa trên cơ sở hạch toán kế toán nhằm đánh giá khả năng
thu hồi nợ dự kiến. Thanh tra ngân hàng cũng chỉ kiểm tra việc tuân thủ của ngân hàng
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 12
với quy định mà chưa kiểm tra mức dự phòng trích lập có phản ánh đúng khả năng thu
hồi dự kiến hay không.
Mô hình tổ chức Thanh tra Ngân hàng và hệ thống pháp luật về thanh tra, giám
sát ngân hàng còn bất cập so với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân
hàng, nhất là so với yêu cầu thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro. Cụ thể, theo Hiệp
ước Basel, rủi ro tín dụng được xác định chủ yếu dựa trên hệ thống phân loại nợ nội bộ
với hệ thống chỉ tiêu khá phức tạp nhằm đánh giá khả năng thu hồi nợ đối với từng khoản
vay. Trong khi đó, việc phân loại nợ của các Ngân hàng thương mạiViệt Nam dựa trên
các thông số có tính bề mặt như căn cứ chủ yếu vào số ngày gia hạn nợ và số ngày
chuyển sang nợ quá hạn. Các yếu tố định tính khác phản ánh đúng chất lượng và khả
năng thu nợ của khoản vay như tình hình tài chính, rủi ro trong kinh doanh của khách
hàng, rủi ro phi tài chính… đều chưa được đưa vào Hệ thống cho điểm tín dụng của các
Ngân hàng thương mại. Rủi ro thị trường chưa đóng vai trò trọng yếu trong rủi ro hoạt
động của các Tổ chức tín dụng, chưa có các quy định về rủi ro thị trường và do đó chưa
áp dụng nguyên tắc của Basel về điều chỉnh tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với rủi ro thị
trường. Ngân hàng nhà nước có thực hiện kiểm tra việc thiết lập các giới hạn cụ thể về rủi
ro thị trường bao gồm cả rủi ro cho hoạt động kinh doanh ngoại hối và việc xây dựng hệ
thống thông tin và kiểm soát nội bộ để đảm bảo việc tuân thủ các giới hạn rủi ro thị
trường của các Tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, mức độ kiểm tra khác nhau phụ thuộc vào
từng loại hình Tổ chức tín dụng và phụ thuộc vào kỹ năng và kiến thức của các cán bộ
thanh tra. Các Ngân hàng thương mại Việt Nam hầu như vẫn chưa áp dụng các công cụ
phòng ngừa rủi ro thị trường một cách đầy đủ. Các sản phẩm Hedging hầu như chưa được
triển khai, ngoại trừ một số biện pháp như quản lý trạng thái ngoại hối, quản lý danh mục
đầu tư thông qua việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, tránh đầu tư tập trung…Các Ngân
hàng thương mại Việt Nam chưa nhận thức đúng và đủ và loại hình rủi ro hoạt động nên

cũng chưa có nguồn dự phòng thích đáng và phù hợp đối với loại hình rủi ro này. Mặ
c dù
vậy, trong thực tế, các Ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn luôn phải đối mặt với loại
rủi ro này với mức độ nguy hiểm ngày càng lớn
Một quy định cũng đáng lưu ý là năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành danh
mục về vốn pháp định của các tổ chức tín dụng mà hiểu một cách đơn giản, đối với một
ngân hàng, đến hết năm 2010 phải có vốn đ
iều lệ tối thiểu là 3.000 tỷ đồng. Điều này cho
thấy cơ quan giám sát và các ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam
đã bắt đầu ý thức thêm về tầm quan trọng của việc điều chỉnh hoạt động theo Hiệp ước
quốc tế Basel.

BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 13
2.2. Năm 2007:
Bối cảnh đã thay đổi kể từ năm 2007, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam gặp phải
hai vấn đề lớn gồm: (1) rủi ro về mặt thanh khoản và (2) rủi ro từ các hoạt động liên quan
đến chứng khoán và bất động sản.
Rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng gia tăng do cung tiền được mở rộng
với tốc độ cao cộng với sự nở rộng quá nhanh của một số ngân hàng, nhất là các ngân
hàng nhỏ mà phần đông là mới thành lập hay được nân cấp lên từ các ngân hàng nông
thôn. Điều này đã tạo ra sự mất cân đối trong việc huy động vốn và cho vay của các ngân
hàng.
Những ngân hàng lớn có lợi thế về mặt huy động vốn do mạng lưới và quan hệ có
sẵn, khi cung tiền được mở rộng họ đã huy động được rất nhiều tiền, nhưng khả năng cho
vay chỉ ở một mức nào đó nên các ngân hàng này đã dư ra một lượng vốn khá lớn. Ngược
lại các ngân hàng mới nâng cấp hay mới thành lập cần phải mở rộng hoạt động nên cần
vốn. Cung - cầu gặp nhau và hoạt động vay mượn trên thị trường liên ngân hàng là khá
dễ dàng với lãi suất rất phải chăng.
Kết quả là một số ngân hàng đã đi vay các tổ chức tín dụng khác (vay liên ngân

hàng) để cho vay lại khách hàng, trong khi về nguyên tắc vay liên ngân hàng với lãi suất
rất thấp thường chỉ để bù đắp những thiếu hụt tạm thời về mặt thanh khoản hay yêu cầu
dự trữ của ngân hàng nhà nước và nguồn vốn sử dụng để cấp tín dụng nên là vốn huy
động trực tiếp.
Khi lạm phát ở mức báo động, chính sách thắt chặt tiền tệ được đưa ra một quá
mạnh và có ph
ần đột ngột đã làm lộ ra những vấn đề về quản lý cũng như rủi ro thanh
khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thêm vào đó, việc các Ngân hàng thương mạitham gia quá tích cực vào các hoạt
động kinh doanh chứng khoán và bất động sản như cho vay để kinh doanh cổ phiếu hay
mua bán bất động sản cũng như một số nghiệp vụ khác của ngân hàng đầu đã tạo ra
những tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho hệ thống tài chính.
Một số chính sách có tính chữa cháy như Chỉ thị 03 vào tháng 5/2007 khống chế
dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán không vượt quá 3% tổng dư nợ cho vay đã không
những không có tác dụng, mà còn gây ra những tác động tiêu cực khác.
Hơn thế, khi Việt Nam gặp khó khăn do lạm phát tăng cao chưa từng có kể từ
những năm đầu thập niên 1990, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tồi tệ nhấ
t kể từ
cuộc đại khủng hoảng và suy thoái 1929-1933 ở Mỹ xảy ra mà một trong những nguyên
nhân chính là việc dỡ bỏ quy tách bạch giữa hoạt động của các Ngân hàng thương mạivà
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 14
ngân hàng đầu tư, đã làm cho nhu cầu có một quy định chặt chẽ về đảm bảo an toàn trong
hoạt động của các tổ chức tài chính trở nên cấp thiết hơn. Đề án Cải cách tổ chức và hoạt
động Thanh tra Ngân hàng (Quyết định số 1976/QĐ-NHNN) đã nêu lên 7 nội dung cơ
bản trong đó nhấn mạnh việc chuyển hướng từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra - giám sát
dựa trên cơ sở rủi ro và hợp nhất kết hợp với thanh tra - giám sát tuân thủ phù hợp với
thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của Uỷ ban Giám sát ngân hàng Basel nhằm nâng cao
năng lực cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động ngân hàng”.
2.3. Năm 2010:

Tháng 5/2010. Ngân hàng Nhà nước (NGÂN HÀNG NHÀ NƯớC) đã chính thức
ban hành Thông tư 13/2010/TT-NGÂN HÀNG NHÀ NƯớC có hiệu lực từ 01/10/2010
về Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Thông tư 13 đề cập đến các tỷ lệ bảo đảm an toàn chính yếu như sau:
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu;
- Giới hạn tín dụng;
- Tỷ lệ khả năng chi trả;
- Giới hạn góp vốn, mua cổ phần;
- Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động;
(a) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:
“1. Tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ chức tín dụng
(tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ)”
2. Tổ chức tín dụng phải thực hiện Báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định của
pháp luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ quy định tại Khoản 1 Điều này,
phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nh
ất vốn, tài sản của
tổ chức tín dụng và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất)”
¾ Tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ được xác định như sau
:
Tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ = Vốn tự có/Tổng tài sản “Có” rủi ro
Trong đó:
- Vốn tự có là tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 trừ đi các khoản phải trừ.
9 Vốn từ có Cấp 1 bao gồm các khoản để tính vốn cấp 1 trừ đi các khoản phải trừ
9 Vốn từ có Cấp 2 bao gồm các khoản để tính vốn cấp 2
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 15
9 Các khoản phải trừ khi tính vốn tự có
- Tổng tài sản “Có” rủi ro
( Điều 5, Mục 1, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)

¾ Tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất được xác định như sau:
Tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất = Vốn tự có hợp nhất/Tổng tài sản “Có” rủi ro hợp nhất
Trong đó:
- Vốn tự có hợp nhất được xác định bằng tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 trừ đi các khoản phải
trừ.
9 Vốn từ có Cấp 1 bao gồm các khoản để tính vốn cấp 1 (bao gồm chênh lệch tỷ giá
hối đoái phát sinh trong quá trình hợp nhất Báo cáo tài chính) trừ đi các khoản
phải trừ
9 Vốn từ có Cấp 2 bao gồm các khoản để tính vốn cấp 2
- Tổng Tài sản “Có” rủi ro hợp nhất
( Điều 6, Mục 1, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
(b) Giới hạn tín dụng:
- Tổ chức tín dụng căn cứ quy chế nội bộ về quản lý chất lượng tín dụng để xây
dựng, ban hành quy định về các tiêu chí xác định một khách hàng và nhóm khách hàng
có liên quan, chính sách tín dụng đối với khách hàng và các giới hạn tín dụng áp dụng đối
với một khách hàng và nhóm khách hàng có liên quan, trong đó tối thiểu phải có các nội
dung sau đây:
¾ Tiêu chí cụ thể xác định một khách hàng, nhóm khách hàng có liên quan.
¾ Giới hạn tín dụng đối với một khách hàng, nhóm khách hàng có liên quan.
¾ Kế hoạch đa dạng hóa hoạt động tín dụng, phương pháp theo dõi và quản
lý đối với các khoản cấp tín dụng ở mức từ 5% vốn tự có c
ủa tổ chức tín dụng trở lên.
Từng khoản cho vay hoặc bảo lãnh, cho thuê tài chính và tổng các khoản cho vay hoặc
tổng các khoản bảo lãnh, tổng các khoản cho thuê tài chính vượt quá 10% vốn tự có của
tổ chức tín dụng phải được Hội đồng quản trị hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc người
được Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản tr
ị ủy quyền thông qua theo phân cấp,
ủy quyền quy định tại chính sách tín dụng nội bộ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
- Quy định nội bộ về các tiêu chí xác định một khách hàng và nhóm khách hàng
có liên quan, các giới hạn tín dụng áp dụng đối với một khách hàng và nhóm khách hàng

BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 16
có liên quan phải được sửa đổi, bổ sung phù hợp với nội dung sửa đổi, bổ sung các quy
định nội bộ về quản lý chất lượng tín dụng, chính sách tín dụng đối với khách hàng khi hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ được sửa đổi, bổ sung hàng năm.
( Điều 7, Mục 2, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
(c) Giới hạn cho vay, bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá:
Dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng bao gồm dư nợ cho vay theo hợp đồng tín
dụng; số dư nợ tổ chức tín dụng ủy thác cho tổ chức tín dụng khác cho vay; số dư các
khoản tổ chức tín dụng đã trả thay do thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với khách hàng.
9 Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được
vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
9 Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách
hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó tổng dư nợ cho
vay đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định (15% vốn tự có).
9 Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có
liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó tổng dư nợ
cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định (15% vốn tự có).
9 Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một nhóm
khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong
đó tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ
lệ quy định (25% vốn tự có).
( Điều 8, Mục 2, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
(d) Giới hạn cho thuê tài chính
9 Tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá
30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính.
9 Tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một nhóm khách hàng có liên quan
không được vượt quá 50% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính, trong đó mứ
c cho thuê
tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định (30% vốn tự có).

( Điều 9, Mục 2, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
(e) Tỷ lệ về khả năng chi trả:
Cuối mỗi ngày, tổ chức tín dụng phải xác định và có các biện pháp để đảm bảo
các tỷ lệ về khả năng chi trả cho ngày hôm sau như sau:
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 17
9 Tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “Có” thanh toán ngay và tổng Nợ
phải trả.
- Tổng tài sản “Có” thanh toán ngay (Phụ lục 5)
- Tổng Nợ phải trả được xác định bằng số dư trên khoản mục Tổng nợ phải trả
(Phụ lục 6).
9 Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày
tiếp theo kể từ ngày hôm sau và tổng tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp
theo kể từ ngày hôm sau đối với đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và đồng đô la
Mỹ (bao gồm đồng đô la Mỹ và các ngoại tệ khác còn lại được quy đổi sang đô la Mỹ theo
tỷ giá liên ngân hàng cuối mỗi ngày).
- Tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau (Phụ
lục 6).
- Tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau (Phụ
lục 7).
( Điều 12, Mục 3, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
(f) Giới hạn góp vốn, mua cổ phần:
Mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng trong một doanh nghiệp, quỹ đầu
tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh
nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác đó, trừ trường hợp góp vốn, mua
cổ phần thành lập công ty trực thuộc theo quy định của pháp luật.
Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng và các công ty con, công ty
liên doanh, công ty liên kết của tổ chức tín dụng trong cùng một doanh nghiệp, quỹ đầu
tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh
nghiệp, quỹ đầu t

ư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác đó.
( Điều 16, Mục 4, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
(g) Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động:
Tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với điều
kiện trước và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả
và các tỷ lệ bảo
đảm an toàn khác quy định tại Thông tư này và không được vượt quá tỷ lệ dưới đây:
9 Đối với ngân hàng: 80%
9 Đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng: 85%
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 18
9 Tiền gửi của cá nhân dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn;
9 Tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức (trừ Kho bạc Nhà nước), bao gồm cả tiền
gửi có kỳ hạn của tổ chức tín dụng khác và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài;
9 Tiền vay của tổ chức trong nước (trừ Kho bạc, tiền vay của tổ chức tín
dụng khác trong nước) và tiền vay của tổ chức tín dụng nước ngoài;
9 Vốn huy động từ tổ chức, cá nhân dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá
( Điều 18, Mục 5, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
 THÔNG TƯ 19 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13 cho sát với
thực tiễn hơn:
- Các tỷ lệ đảm bảo an toàn quy định tại Thông tư này gồm: Tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu; giới hạn tín dụng; tỷ lệ khả năng chi trả; giới hạn góp vốn, mua cổ phần; tỷ lệ
cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động.
Nội dung cũ là tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động.
- Số dư tiền gửi không kỳ hạn, trị giá sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn gửi tại
các tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân hàng chính sách Xã hội; Số dư tiền gửi có kỳ hạn, trị
giá sổ sách của vàng gửi có kỳ hạn đến hạn thành toán gửi tại các tổ chức tín dụng khác,
trừ Ngân hàng chính sách Xã hội.

Nội dung trong thông tư cũ là "Phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi không
kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn gửi tại các tổ chức tín dụng khác, trừ
Ngân hàng Chính sách Xã hội và số dư tiền gửi không kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng
gửi không kỳ hạn của các tổ chức tín dụng khác gửi tại tổ chức tín dụng.
Phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi có kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng
gửi có kỳ hạn đến hạn thanh toán gửi tại các tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân hàng Chính
sách Xã hội và số dư tiền gửi có kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng có kỳ hạn đến hạn thanh
toán của các tổ chức tín dụng khác gửi tại tổ chức tín dụng"
¾ Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động:
- Tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với
điều kiện trước và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả và các tỷ lệ
đảm bảo an toàn khác quy định tại Thông tu này và việc cấp tín dụng từ nguồn vốn huy
động không vượt quá tỷ lệ dưới đây:
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 19
Đối với ngân hàng : 80%; đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng 85%.
- Cấp tín dụng quy định tại Khoản 1 Điều này bao gồm các hình thức cho vay,
cho thuê tài chính, bao thanh toán, chiết khấu giấy tờ có giá và công cụ chuyển
nhượng (bỏ cấu phần "bảo lãnh").
- Nguồn vốn huy động được bổ sung một số điều theo hướng nới rộng nguồn vốn
huy động được đem cho vay bao gồm:
9 Tiền gửi của cá nhân dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn;
9 Tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức, bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức tín
dụng khác và chi nhánh ngân hàng nước ngoài; (không loại trừ tiền gửi của Kho
bạc Nhà nước như trong Thông tư 13 chưa sửa đổi).
9 Vốn huy động từ tổ chức, cá nhân dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá.
- Trong khoản 3.3 điều 18 mục 5 về “Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động”,
thông tư 19 bổ sung khoản nguồn vốn huy động được đem cho vay bao gồm 25% tiền gửi
không kỳ hạn của tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng) và tiền vay của tổ chức tín dụng

khác có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên(trừ tiền vay của tổ chức tín dụng khác trong nước để bù
đắp thiếu hụt tạm thời đối với các tỷ lệ về khả năng chi trả theo quy định tại Khoản 1 điều
14) và tiền vay của tổ chức tín dụng nước ngoài.
Nội dung này không có trong thông tư 13 và được bổ sung thêm.
 NHẬN XÉT:
¾ Thêm lý do để “áp” đúng CAR là 9%.
Ngay khi ban hành, tháng 5/2010, Thông tư 13 đã vấp phải sự phản ứng của các
Tổ chức tín dụng. Phản ứng này càng trở nên mạnh mẽ khi Hiệp hội Ngân hàng (VNBA)
có văn bản kiến nghị chính thức gửi lên Thống đốc Ngân hàng nhà nước. Song, công
bằng mà nói, việc ban hành một văn bản như Thông tư 13 là cần thiết khi kinh tế thế giới
vừa trải qua khủng hoảng tài chính và những y
ếu kém trong hoạt động của các Tổ chức
tín dụng trong nước ngày càng lộ rõ. Nhưng “chiếc áo“ tránh mưa, chống nóng này có vẻ
được thiết kế chưa phù hợp với vóc dáng, thói quen của các Tổ chức tín dụng. Tuy nhiên,
đại đa số các Ngân hàng thương mại đáp ứng được yêu cầu của Thông tư 13. Và việc
thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của Tổ chức tín dụng bao giờ
cũng khó kh
ăn, nhưng phải kiên quyết. “Có thể phải điều chỉnh Thông tư 13, nhưng
không thể lùi thời gian thực hiện”.
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 20
Điểm đáng chú ý đầu tiên trong Thông tư 13 là nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
(CAR) của các Tổ chức tín dụng từ 8% lên 9%. Một số Ngân hàng thương mại cho rằng
họ không có khả năng đáp ứng yêu cầu này trong vòng vài tháng (tính từ khi Thông tư 13
ban hành đến 1/10/2010). Tuy nhiên, Ngân hàng nhà nước lập luận, thông tin về việc
nâng CAR đã được đưa ra từ lâu, khi nhiều nước đã, đang chịu hậu quả nặng nề của cuộc
khủng hoảng tài chính, bắt nguồn từ ngành ngân hàng - bảo hiểm. Hơn nữa, Ủy ban Giám
sát Ngân hàng Basel - nhóm các cơ quan giám sát ngân toàn cầu, đã thông qua Thỏa
thuận yêu cầu các ngân hàng tăng gấp đôi tỷ lệ CAR (từ 7% lên 14%). Trong đó, vốn cấp
hai tăng mạnh nhất, từ 2% lên 7% tổng tài sản. Vốn cấp một cũng phải nâng từ 4% lên

7%. Như vậy, dù muốn hay không, các Tổ chức tín dụng Việt Nam phải nâng CAR lên để
dần thu hẹp khoảng cách với thế giới, vì Việt Nam đã là thành viên của WTO.
¾ Quy định thứ hai vấp phải phản ứng mạnh của các Tổ chức tín dụng là tỷ
lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động chỉ được ở mức 80%.
Theo Ngân hàng nhà nước, tỷ lệ này giảm nhằm quản lý nguồn vốn huy động,
góp phần đảm bảo an toàn về khả năng chi trả, thanh khoản của Tổ chức tín dụng. Nhưng
với các Ngân hàng thương mại thì tỷ lệ này sẽ làm chi phí vốn của ngân hàng tăng, giảm
tăng trưởng tín dụng, dẫn đến giảm doanh thu của ngân hàng. Hơn nữa, trong cơ cấu
nguồn vốn huy động được sử dụng để cho vay, ví như những nhánh của một cái cây, thì
Thông tư 13 sẽ “chặt” bớt hai “nhánh” lớn là tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức và tiền
gửi của kho bạc; và một nhánh nhỏ là nguồn tiền vay của các Tổ chức tín dụng khác.
Theo Hiệp hội ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn (chủ yếu của tổ chức) thường chiếm
15% - 20% tổng vốn huy động của các Ngân hàng thương mại. Trong bối cảnh nguồn
vốn huy động khó khăn như hiện nay thì việc cắt đến 20% nguồn đầu vào sẽ ảnh hưởng
lớn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng năm nay. Do đó Ngân hàng nhà nước sẽ phải cân
nhắc, thay vì “chặt” hẳn nhánh này thì sẽ chỉ “tỉa” bớt cành của nhánh. Nhưng để giữ lại
nhánh lớn, Ngân hàng nhà nước sẽ phải có một quy định kèm theo nhằm khắc phục đặc
thù của nguồn vốn này là thường biến động mạnh vào những ngày cuối tháng, cuối quý -
thời điểm các tổ ch
ức phải chi trả, thanh toán nhiều hơn.
¾ Nhánh lớn thứ hai là tiền gửi của Kho bạc Nhà nước.
Trên thực tế, phần lớn lượng tiền gửi của Kho bạc Nhà nước đang nằm tại các
Ngân hàng thương mại Nhà nước. Hơn nữa, thực hiện chủ trương giảm sử dụng tiền mặt,
tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong việc nộp thuế, m
ột số Ngân hàng thương
mại đã ký thỏa thuận hợp tác tay ba giữa ngân hàng, kho bạc và hải quan trong việc thu
các khoản thu vào ngân sách nhà nước. Mô hình này mới được triển khai trong khoảng
hai năm trở lại đây và đang được các Ngân hàng thương mại nhân rộng. Nếu giờ Thông
BASEL và tiến trình hội nhập vào hệ thống NHTM VN PGS.TS.Trần Huy Hoàng
Trang 21

tư 13 “chặt” nhánh này, các Ngân hàng thương mại chắc chắn sẽ không còn thiết tha gì
với công việc đếm, giữ tiền “hộ“ hai ngành Kho bạc và Hải quan.
¾ Hiệp hội ngân hàng cũng đề nghị Ngân hàng nhà nước nên tính nguồn
tiền vay của các tổ chức tín dụng trong nước vào nguồn vốn huy động, vì về bản chất
nguồn tiền này giống với nguồn tiền gửi của các Tổ chức tín dụng trong nước.
Thực tế, hoạt động thị trường liên ngân hàng từ đầu năm đến nay khá sôi động.
Thậm chí nguồn vốn từ thị trường này không chỉ để bù đắp thiếu hụt thanh khoản tạm
thời - như vai trò chính của nó, mà đôi khi được các Ngân hàng thương mại lớn sử dụng
như nơi “kiếm ăn“ trên lưng những ngân hàng nhỏ. Lãi suất và lượng giao dịch trên thị
trường này liên tục tăng là minh chứng cho thấy nguồn vốn này không chỉ để bù đắp
thiếu hụt thanh khoản tạm thời mà đã được ngân hàng nhỏ đưa vào tín dụng, thậm chí sử
dụng “quá tay” - là tiềm ẩn rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng. Như vậy, việc Ngân hàng
nhà nước sẽ phải có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro là lẽ đương nhiên, nhưng không
thể “chặt” phứt nhánh nhỏ này, mà thêm điều kiện chặt chẽ hơn hiện nay để thị trường
liên ngân hàng vẫn giữ được vai trò điều tiết vốn giữa các Tổ chức tín dụng.

×