Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm sứ bát tràng của công ty cổ phần sứ bát tràng thuộc tổng công ty thương mại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.62 KB, 103 trang )

TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện đường lối chiến lược CNH - HĐH mà Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một
nước có nền kinh tế công nghiệp hiện đại, bảo đảm dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng công tác
xuất nhập khẩu nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại với
mục tiêu kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 115%, kim ngạch
nhập khẩu tăng bình quân hàng năm 10%. Nhìn lại chặng đường phát triển
của hoạt động ngoại thương Việt Nam cho thấy, mặc dù còn rất khiêm tốn
song đã đi những bước rất vững chắc khai thác mọi tiềm năng để phát triển,
khẳng định chỗ đứng của mình ở thị trường trong nước và Quốc tế.
Trong xu thế mở cửa và hoà nhập vào nền kinh tế thế giới theo tinh
thần đổi mới kinh tế của Nhà nước ta, việc mở rộng hoạt động của các doanh
nghiệp ra các thị trường nước ngoài là một xu hướng tất yếu khách quan đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế đất nước nói chung và của doanh nghiệp nói
riêng. Hoạt động xuất khẩu là một mặt của lĩnh vực ngoại thương có vị trí
đáng kể trong nền kinh tế quốc dân góp phần kích thích sản xuất hàng hoá
trong nước phát triển, tăng tích luỹ ngoại tệ cho đất nước để thực hiện tái sản
xuất mở rộng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân và thực hiện CNH - HĐH đất nước.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu trong
toàn bộ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại.
Qua quá trình học tập ở trường và thực tập tại Công ty Kinh doanh và Xuất
nhập khẩu, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Biện pháp thúc đẩy
xuất khẩu mặt hàng gốm sứ Bát Tràng của Công ty Cổ Phần Sứ Bát
Tràng thuộc Tổng công ty Thương Mại Hà Nội”.
Đề tài gồm 3 chương:
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp


Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU MẶT HÀNG
THỦ CÔNG MỸ NGHỆ
Chương II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GỐM SỨ BÁT
TRÀNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SỨ BÁT TRÀNG THUỘC TỔNG
CÔNG TY THƯƠNG MẠI HÀ NỘI.
Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU MẶT
HÀNG GỐM SỨ BÁT TRÀNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SỨ BÁT
TRÀNG HÀ NỘI.
Do hạn chế về thời gian và khả năng tìm hiểu về tình hình thực tế có
hạn, đề tài của em không tránh khỏi những sai sót, mong được sự cảm thông
và đóng góp ý kiến của các thầy cô, các cán bộ kinh doanh ở Công ty. Em
mong rằng các ý kiến và biện pháp mà em đưa ra trong luận văn này góp phần
thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất khẩu ở Công ty Cổ Phần Sứ Bát Tràng Hà
Nội.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS - TS VŨ SỸ
TUẤN ( Phó hiệu trưởng nhà trường ), đồng thời cảm ơn sự giúp đỡ quý báu
của các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại Thương, các bạn đồng nghiệp. Em
cũng chân thành cảm ơn các cô, các chú, các anh, các chị công tác tại Công ty
Cổ Phần Sứ Bát Tràng Hà Nội đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện để em
hoàn thành đề tài này.

Hà nội, Ngày 5 tháng 1 năm 2007
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG
THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VÀ MẶT HÀNG GỐM SỨ
I.KHÁI NIỆM, SỰ CẦN THIẾT, VAI TRÒ XUẤT KHẨU:
1.Khái niệm và các hình thức xuất khẩu :
1.1 Khái niệm và các hình thức xuất khẩu:
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó

không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ
mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài
nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ,
qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh
tế ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động
kinh tế đối ngoại đem lại những hiệu quả đột biến cao hoặc có thể gây thiệt
hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ thể
trong nước tham gia không dễ dàng khống chế được.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế
đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi
doanh nghiệp đã đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình.
Mục đích của kinh doanh xuất khẩu là khai thác được lợi thế của các
quốc gia trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất
nước. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện
với nhiều loại mặt hàng khác nhau. Phạm vi hoạt động xuất khẩu rất rộng cả
về không gian và thời gian.
1.2 Các hình thức xuất khẩu:
Hoạt động xuất khẩu được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
nhưng những hình thức chủ yếu thường được các doanh nghiệp ngoại thương
lựa chọn là:
1.2.1 Xuất khẩu trực tiếp:
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
Sơ đồ kênh phân phối trực tiếp
Đây là hình thức mà hàng hoá được mua hay bán trực tiếp của nước
ngoài không qua trung gian. Theo hình thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập
khẩu trực tiếp ký kết hợp đồng ngoại thương. Các doanh nghiệp ngoại thương
tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước sau đó bán
các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài (có thể qua một số công
đoạn gia công chế biến).

Ưu điểm: của hình thức xuất khẩu này là lợi nhuận của đơn vị kinh
doanh xuất khẩu thường cao hơn các hình thức khác do giảm bớt được các
khâu trung gian. Với vai trò là người bán trực tiếp, các đơn vị kinh doanh chủ
động trong kinh doanh, có điều kiện tiếp cận thị trường, nắm bắt được các
thông tin một cách nhạy bén hơn để tự mình có thể thâm nhập thị trường, đưa
ra được những ứng xử linh hoạt, thích ứng với thị trường và do vậy có thể đáp
ứng nhu cầu thị trường, gợi mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt
động kinh doanh tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình
về sản phẩm nhãn hiệu… dần dần đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới.
Nhược điểm: Hình thức này đòi hỏi phải ứng trước một số vốn khá lớn
để sản xuất hoặc thu mua hàng và có thể gặp nhiều rủi ro. Đối với đơn vị mới
Doanh nghiệp sản
xuất
Môi giới
Người tiêu dùng cuối
cùng
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
tham gia kinh doanh thì áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện về vốn
sản xuất hạn chế, am hiểu thương trường quốc tế còn ít, uy tín nhãn hiệu còn
xa lạ đối với khách hàng.
1.2.2 Xuất khẩu gián tiếp:
Sơ đồ kênh phân phối gián tiếp
Đây là hình thức xuất khẩu qua trung gian thương mại.
Ưu điểm: Người trung gian giúp cho người xuất khẩu tiết kiệm được
thời gian, chi phí, giảm bớt nhiều việc liên quan đến tiêu thụ hàng. Ngoài ra,
người trung gian còn có thể giúp cho người xuất khẩu tín dụng trong ngắn hạn
và trung hạn bởi vì trung gian có quan hệ với công ty vận tải, ngân hàng…
Nhược điểm: Lợi nhuận bị chia xẻ do tổn phí, doanh nghiệp xuất khẩu
mất mối quan hệ trực tiếp với thị trường, thông tin nhiều khi không chính xác.

1.2.3 Xuất khẩu uỷ thác:
Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao
cho đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc
Người tiêu
dùng cuối
cùng
Môi giới
Bán lẻ
Bán buôn
Doanh
nghiệp sản
xuất
Đại lý
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
một số lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng
với chi phí của bên uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác
chính là tiền thù lao trả cho đại lý.
Ưu điểm: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh
doanh, tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi
nhuận là hoa hồng cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất
khẩu nên tất cả các chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký
kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí
trong hoạt động kinh doanh của công ty.
Nhược điểm: Do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh
doanh thấp không bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và
khách hàng bị thu hẹp vì công ty không có liên quan tới việc nghiên cứu thị
trường và tìm kiếm khách hàng.
1.2.4 Chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất:
Đây là hình thức mua của nước này bán cho nước khác, không làm thủ

tục xuất nhập khẩu và thường hàng đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước
nhập khẩu. Người kinh doanh chuyển khẩu trả tiền cho người xuất khẩu và
thu tiền của người nhập khẩu hàng hóa đó. Thường khoản thu lớn hơn tiền trả
cho người xuất khẩu, do đó người kinh doanh thu được số chênh lệch (lãi).
Các mặt hàng này (tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu) được
miễn thuế xuất nhập khẩu.
Xét về đường đi của hàng hoá tái xuất và chuyển khẩu giống nhau. Chỗ
khác nhau là kinh doanh chuyển khẩu chủ yếu là kinh doanh dịch vụ vận tải,
còn tái xuất là loại hình hợp đồng kinh doanh hàng hoá: nhập khẩu để xuất
khẩu hàng đó, không qua chế biến, thu lãi tức thời. Người kinh doanh bỏ vốn
ra mua hàng, bán lại hàng đó để thu lời nhiều hơn. Việc giao dịch thực hiện ở
ba nước: Nước xuất khẩu, nước tái xuất, nước nhập khẩu. Giao dịch tái xuất
là giao dịch ba bên ở ba nước.
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
1.2.5 Mua bán đối lưu:
Đây là hoạt động giao dịch trong đó hoạt động xuất khẩu kết hợp chặt
chẽ với hoạt động nhập khẩu. Mục đích của hoạt động xuất khẩu không phải
nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là thu về một lượng hàng hoá khác tương
đương với giá trị của lô hàng xuất khẩu. Yêu cầu của buôn bán đối lưu là cân
bằng về tổng giá trị xuất nhập khẩu, chủng loại hàng hoá quý hiếm, giá cả.
Doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức này để nhập khẩu nhiều loại hàng hoá
mà thị trường trong nước đang rất cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước
thứ ba.
1.2.6 Gia công quốc tế:
Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một
bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm
của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại
cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là chi phí gia công).
Gia công quốc tế là hình thức xuất khẩu khá phổ biến, được nhiều

nước, đặc biệt là các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào áp dụng.
Thông qua hình thức này, họ vừa tạo cho người lao động có công ăn việc làm,
lại vừa tiếp nhận được công nghệ mới. Mặt khác, nước này lại không phải bỏ
ra nhiều vốn và cũng không lo về thị trường tiêu thụ.
Các nước đặt gia công cũng có lợi vì họ có thể tận dụng được nguồn
nguyên liệu phụ và nhân công dồi dào với giá rẻ của nước nhận gia công.
Song hình thức này cũng có hạn chế là các nước nhận gia công bị phụ thuộc
vào nước đặt gia công về số lượng, chủng loại hàng hoá gia công đồng thời
cũng bị o ép về phí gia công.
2. Sự cần thiết và vị trí xuất khẩu:
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
Hoạt động kinh tế là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Lực lượng sản xuất càng phát triển, phân công lao động càng mở rộng
thì sự khác biệt giữa các quốc gia trên thế giới càng sâu sắc, không chỉ khác
biệt về truyền thống văn hoá mà còn là sự chênh lệch về trình độ nhận thức,
công nghệ kỹ thuật cũng như về năng suất lao động, giá thành sản phẩm từ đó
làm xuất hiện lợi thế mới của mỗi quốc gia. Điều này đòi hỏi các quốc gia
phải có những biện pháp thích hợp nhằm phát huy triệt để lợi thế của mình
trong sự phân công lao động và trao đổi mậu dịch quốc tế. Đó chính là việc
một quốc gia có thể mua từ các quốc gia khác những hàng hoá mà bản thân
không sản xuất được hoặc sản xuất ra không đáp ứng yêu cầu do giá thành
cao mà chất lượng lại kém. Và như vậy có nghĩa là, quan hệ thương mại đã
không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà không ngừng phát triển và lan
rộng trên phạm vi quốc tế thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.
Xuất khẩu hàng hoá đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước,
góp phần thúc đẩy hơn nữa vào quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Với
Việt Nam ta, xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng từ lâu đã được
coi là một mặt hoạt động không thể thiếu được của hoạt động kinh tế đối
ngoại, là một phương tiện quan trọng để phát triển nền kinh tế đất nước.

Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu phân phối lưu thông của quá trình
tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa sản xuất và tiêu dùng giữa
nước này với nước khác. Như vậy thương mại quốc tế bắt nguồn từ:
- Thương mại quốc tế bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên
của sản xuất giữa các nước. Điều kiện tự nhiên quy định sự khác biệt về khả
năng sản xuất của mỗi quốc gia, điều đó làm cho các quốc gia phải tiến hành
trao đổi hàng hoá với nhau.
- Lợi thế so sánh giữa các quốc gia là khác nhau nên đã thúc đẩy các
quốc gia trao đổi hàng hoá. Lợi thế so sánh của một quốc gia biểu hiện ở chi
phí cơ hội để sản xuất ra một sản phẩm của quốc gia đó. Các quốc gia sẽ sản
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
xuất những sản phẩm có lợi thế với chi phí thấp nhất rồi sau đó tiến hành trao
đổi với quốc gia khác. Hoạt động thương mại quốc tế trên cơ sở này giúp cho
các quốc gia tiêu dùng nhiều hơn những sản phẩm so với khi các quốc gia này
tự sản xuất tất cả sản phẩm hàng hoá mà không tiến hành trao đổi thương mại
quốc tế.
- Hiệu quả kinh tế theo quy mô là các chi phí sản xuất thực tế được
đánh giá dưới hình thức nguồn lực huy động sẽ giảm xuống khi quy mô tăng
lên. Nghĩa là hàng hoá sẽ trở nên rẻ hơn khi quy mô sản xuất tăng lên.
Nguyên nhân là khi sản xuất với quy mô lớn, người ta có thể tiết kiệm được
trong việc sử dụng máy móc và thiết bị chuyên môn hoá. Hơn nữa, do phân
công công việc ra giữa nhiều người khác nhau, mỗi người có thể trở thành
chuyên gia theo một khía cạnh của quá trình sản xuất thông qua kinh nghiệm
và sự đào tạo chuyên môn. Với các nước đó, những lợi ích do ngoại thương
xuất phát từ việc chuyên môn hoá các loại sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh.
- Sự đa dạng về nhu cầu tiêu dùng, sở thích tiêu dùng cũng dẫn đến quá
trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia. Ngày nay, nhu cầu về sản phẩm
hàng hoá phát triển ở một mức rất cao. Người tiêu dùng không chỉ mong
muốn thoả mãn nhu cầu sinh lý, tự nhiên mà còn mong muốn thoả mãn các

nhu cầu về văn hoá, tinh thần… Chính điều này giải thích cho nhiều hiện
tượng xảy ra trong thế giới người tiêu dùng khi họ thích tiêu dùng sản phẩm
ngoại thay vì các sản phẩm được sản xuất trong nước thị hiếu khác nhau giữa
các nước, giữa một người điều này giải thích vì sao phải đa dạng hoá sản
phẩm trong thương mại quốc tế.
Đây là một số cơ sở chính dẫn đến sự ra đời của hoạt động thương mại
quốc tế. Ngoài ra còn nhiều cơ sở khác như quan hệ hỗ trợ, quan hệ vay nợ,
mục đích tìm kiếm lợi nhuận, sự độc quyền về bản quyền, bằng phát minh
sáng chế…
3.Vai trò của xuất khẩu :
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
Kinh doanh xuất khẩu tạo điều kiện cho nhiều quốc gia có thể phát huy
tối đa những lợi thế của mình về vốn, công nghệ, tài nguyên, nguồn lao động.
Đồng thời, kinh doanh xuất khẩu cũng tạo điều kiện cho nhiều quốc gia đang
phát triển và những quốc gia kém phát triển có điều kiện tiếp thu được những
công nghệ, kinh nghiệm quản lý kinh doanh tiên tiến của các quốc gia đi
trước.
Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát
triển kinh tế và thực hiện quá trình CNH - HĐH đất nước. Vai trò của xuất
khẩu được thể hiện qua các điểm sau:
3.1 Đối với nền kinh tế quốc dân.
* Xuất khẩu là phương tiện chính góp phần tạo nguồn vốn chủ yếu cho
nhập khẩu phục vụ CNH - HĐH đất nước.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
- Đầu tư nước ngoài.
- Vay nợ, viện trợ.
- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ.
- Xuất khẩu hàng hoá.
Trong đó nguồn thu từ xuất khẩu hàng hoá là nguồn vốn quan trọng

nhất, chiếm tỷ trọng lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến,
phương pháp quản lý… Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi
là nguồn chủ yếu để huy động phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay
nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và
người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó vì đây là nguồn
chính đảm bảo cho đất nước có thể trả nợ được.
Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hướng nhập khẩu phục vụ tốt sản
xuất và tiêu dùng, bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, nâng cao hiệu quả
sản xuất, nhập khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế - thương mại với nước ngoài,
góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Xuất khẩu và nhập
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của nhau, xuất
khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu.
Đối với nước ta, để tránh được nguy cơ tụt hậu thì trong chính sách
CNH -HĐH, Đảng và Nhà nước ta coi nhập khẩu máy móc, thiết bị, công
nghệ hiện đại là một nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản trong chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát
triển.
* Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Có hai cách nhìn nhận và tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
- Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt
quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát
triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động
chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất, thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng triển
chậm. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.
- Coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để
tổ chức sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới

để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển
thuận lợi.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho
sản xuất phát triển và ổn định.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và tạo
ra một năng lực sản xuất mới.
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
+ Xuất khẩu góp phần trong việc hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích
nghi được với thị trường.
+ Xuất khẩu thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất
từng quốc gia. Khoa học công nghệ càng phát triển thì phân công lao động
càng sâu sắc. Ngày nay, nhiều sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được
thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này,
người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp
ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Như vậy, mỗi nước có thể tập trung vào sản xuất
một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá
mà mình cần.
* Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm
và cải thiện đời sống nhân dân.
Xuất khẩu tác động đến nhiều mặt của đời sống nhân dân. Trước hết,
sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu người lao động và tạo ra thu
nhập không thấp. Hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng
phát triển kéo theo hàng triệu người tham gia lao động vào lĩnh vực này và
dần dần nâng cao mức sống của người dân. Bởi vì, xuất khẩu phát triển đã
kéo theo hàng loạt các ngành nghề khác phát triển, khôi phục lại những ngành

nghề truyền thống, khắc phục số nông nhàn trong lĩnh vực nông nghiệp ngày
càng triệt để hơn. Xuất khẩu phát triển thúc đẩy quá trình liên doanh liên kết,
hàng loạt các ngành nghề mới ra đời đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu những vật
phẩm tiêu dùng thiết yếu mà trong nước không tự sản xuất được hoặc sản xuất
với giá thành cao phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu
cầu của người dân.
* Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại. Xuất khẩu nâng cao uy tín nước ta trên thị trường thế giới và tăng
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
cường các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế
đối ngoại có sự tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là
hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy
các mối quan hệ khác như: du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế
phát triển theo. Ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Xuất khẩu có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế
đất nước. Hiện nay, Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy
các ngành kinh tế hướng vào xuất khẩu, khuyến khích các khu vực tư nhân
mở rộng xuất khẩu để giải quyết việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
3.2 Đối với doanh nghiệp trong nước:
- Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều
kiện tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới. Những yếu tố này
đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị
trường.
- Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện
công việc quản trị sản xuất và kinh doanh cho phù hợp với thời đại. Đồng thời
xuất khẩu còn tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để tái đầu tư vào quá

trình sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao
động, tạo ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng
tiêu dùng. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân vừa thu
được lợi nhuận.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị
trường, mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đôi
bên cùng có lợi. Vì vậy, đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số bán và lợi
nhuận. Đồng thời chia sẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh
tăng cường uy tín kinh doanh của công ty. Từ đó có điều kiện học hỏi, tiếp
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ phía đối tác nước ngoài, góp phần nâng
cao năng lực chuyên môn cho các thành viên trong doanh nghiệp.
- Kinh doanh xuất khẩu phát huy được những khả năng vượt trội của
doanh nghiệp và khắc phục được những hạn chế của doanh nghiệp.
- Xuất khẩu khuyến khích phát triển các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động
sản xuất, Marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh.
Có thể nói một cách khái quát rằng xuất khẩu góp phần quan trọng
trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế
của một quốc gia.
II.NỘI DUNG VỀ XUẤT KHẨU MẶT HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT
NAM :
Hàng thủ công mỹ nghệ có nhiều chủng loại là những mặt hàng thuộc
các ngành nghề truyền thống, được sản xuất bởi các nghệ nhân, thợ thủ công
có tay nghề tinh xảo và độc đáo truyền từ đời này sang đời khác và được phát
triển theo nhu cầu của cuộc sống. Đời sống được cải thiện thì nhu cầu về các
hàng hoá này sẽ tăng lên, cả cho tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu.
Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ

mang lại lợi ích kinh tế thiết thực mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội rộng lớn.
Là sản phẩm của những ngành nghề thủ công truyền thống, mang đậm
nét của một nền văn hoá dân tộc, nên hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ là
những vật phẩm đáp ứng nhu cầu sử dụng trong cuộc sống hàng ngày mà còn
là những sản phẩm phục vụ đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu thưởng thức
nhẽng tinh hoa văn hoá của các dân tộc. Vì vậy, hàng thủ công mỹ nghệ vừa
có nhu cầu ngày càng tăng ở trong nước, vừa có nhu cầu cao trên thị trường
quốc tế theo sự phát triển giao lưu văn hoá giữa các quốc gia, giữa các dân
tộc trên thế giới. Quan tâm và có chính sách thoả đáng phát triển các ngành
nghề này, mở rộng tiêu thụ các sản phẩm được làm ra trên thị trường trong
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
nước và thị trường quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu, làm sống động những ngành
nghề truyền thống là thiết thực bảo tồn và phát triển một trong những di sản
văn hoá quý giá của dân tộc, nó cũng tạo điều kiện cho các nước khác hiểu
thêm về Việt nam .
Các ngành nghề thủ công mỹ nghệ nếu được phát triển tốt đều có sức
hút mạnh mẽ nguồn lao động dồi dào trong nước, nhất là trong điều kiện hiện
nay và trong những nam trước mắt lao động nước ta còn dư thừa nhiều. Phát
triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có tác dụng lớn trong ciệc
tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập chính đáng cho lao động trong nước,
góp phần xoá đói giảm nghèo, có tác dụng tích cực trong việc đẩy lùi các tệ
nạn xã hội bảo đảm an ninh trật tự. Trong quá trình phát triển và xuất khẩu
các loại hàng hoá này không những thu hút hàng triệu lao động không có việc
làm ở thành thị và nông thôn mà còn tạo cơ hội sử dung và đào tạo các nghệ
nhân, thợ giỏi góp phần bảo tồn vốn quý di sản dân tộc.
1. Vài nét về quá trình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam
1.1Xuất khẩu trong thời kỳ trước năm1990
Từ xa xưa, theo sử sách ghi lại thì các mặt hàng hàng thủ công mỹ nghệ
truyền thống của ta xuất khẩu qua các cảng Vân Đồn ,Vạn Ninh tồn tại suốt

từ thời Lý thế kỷ XI đến thời Lê - Trịnh và Nguyễn Huệ - Tây Sơn (thế kỷ
XVIII ) và về sau còn qua cảng Phố Hiến, Kẻ chợ, Cửa Thuận An, Hội An,
Phan Thiết, Bến Nghé, Nhà Rồng, Khi đó, sản phẩm xuất khẩu của ta
ngoài các nông lâm hải sản, còn có đồ gốm, đồ gỗ mây tre, giấy dó, tơ lụa, đồ
bạc Đầu thế kỷ XX, hàng thủ công mỹ nghệ của ta thường xuyên tham gia
các Hội chợ, đấu xảo tại Pháp có thợ trình diễn sản xuất, chế tác tại chỗ. Như
vậy, từ lâu đời sản phẩm thủ công mỹ nghệ của ta đã có mặt trên thị trường
thế giới.
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
Năm 1975, sau khi thống nhất đất nước, ta đã khai thác thế mạnh của các
ngành truyền thống này để đẩy mạnh xuất khẩu. Trong thời kỳ 1976-1990,
hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của ta chủ yếu bao gồm: các loại thảm len,
thảm đay, thảm cói, chiếu cói, hàng mây tre đan, mành trúc, mành cọ, hàng
thêu ren, khăn trải giường , tuyệt đại bộ phận các hàng hoá này được xuất
khẩu sang thị trường các nước Liên Xô cũ và Đông Âu. Kim ngạch xuất khẩu
có năm đạt gần 250tr.R/USD (chủ yếu là Rúp), chiếm 37% trong kim ngạch
xuất khẩu của cả nước (1985), cá biệt có năm tỷ trọng lên đến 53% (1979),
bình quân trong 10 năm 1976-1985 tỷ trọng hàng thủ công mỹ nghệ trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam là gần 40%.
Vào thời kỳ cuối những năm 1980 ta bắt đầu xuất khẩu một số các mặt
hàng khác với khối lượng lớn nên tỷ trọng nhóm hàng thủ công mỹ nghệ
giảm đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Bình quân trong
thời kỳ 1986 - 1990, tỷ trọng cả hàng công nghiệp nhẹ và hàng thủ công mỹ
nghệ chỉ còn 29,7% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong thời kỳ này có
năm đạt khá cao (gần 250 triệu R/USD) nhưng chủ yếu là tính giá bằng Rúp
theo giá hình thành không thay đổi trong thời gian dàI ; nên nếu xét về thực tế
thì giá này thường cao hơn giá cùng lọi xuất khẩu sang thị trường ngoại tệ tự
do chuyển đổi từ 1,5 đến 2 lần. Dođó, trị giá thực của kim ngạch xuất khẩu

tính bằn USD cũng chỉ khoảng 130-150 triệu USD/năm.
1.2. Xuất khẩu trong thời kỳ sau năm 1990
Từ năm 1991, khi thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu, thị trường chủ yếu
của hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu trong thời kỳ trước của nước ta bị mất,
các ngành hàng thủ công mỹ nghệ gặp rất nhiều khó khăn trong xuất khẩu
dẫn đến sản xuất bị thu hẹp , lao động không có việc làm, việc chuyển đổi thị
trường đòi hỏi thời gian tìm kiếm bạn hàng mới, thị trường mới. Sau vài năm
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
lao đao trong cơ chế mới, dần dần một số ngành nghề tìm được lối thoát, khôi
phục và phát triển phục vụ cho cả nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Năm 2002, theo thống kê của hải quan , kim ngạch xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ đã đạt 121 triệu USD; trong đó trên 50% là hàng gốm sứ mỹ
nghệ (khoảng 62 - 63 triệu USD) và khoảng 25% là hàng gỗ mỹ nghệ (30
triệu USD). Năm 2003, do cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, kim ngạch
xuất khẩu của hàng thủ công mỹ nghệ Việt nam chỉ đạt 118 triệu USD. Năm
2004 tình hình đã được cải thiện tổng kim ngạch cả năm đạt 168 triệu USD,
tăng 51,28% so với 2003.
Kim ngạch xuất khẩu trên đây chưa tính đến nhóm hàng đồ gỗ gia dụng,
đây cũng là những mặt hàng thủ công (tuy trong sản xuất có một số khâu sử
dụng thiết bị máy móc công nghiệp - chủ yếu là xử lý nguyên liệu) nhóm hàng
này năm 2002 kim ngạch xuất khẩu đạt gần 70 triệu USD, năm 2003 đạt 60
triệu USD, năm 2004 đạt khoảng 70-90 triệu USD, năm 2005 vừa qua kim
ngạch mặt hàng này đã đạt được khoảng 120 triệu USD.
2. Nhóm mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam
Trên thực tế xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam chủ yếu
hướng vào một số nhóm mặt hàng chính sau :
2.2.1 Nhóm sản phẩm gỗ
Bao gồm các sản phẩm gỗ hoàn chỉnh, chủ yếu là đồ gỗ gia dụng và gỗ
mỹ nghệ.

Đồ gỗ mỹ nghệ bao gồm tranh gỗ , tượng gỗ , hàng sơn mài , đồ gỗ gia dụng
có chạm, khảm, sơn mài là nhóm hàng hiện nay đang có tỷ trọng xuất khẩu
cao nhất trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và cũng là mặt hàng có thế
mạnh trong tương lai. Nếu năm 2002 kim ngạch các loại hàng này đạt được
30 triệu USD, thì năm 2005 đã đạt được gần 60 triệu USD. Dự tính trong 5
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
năm 2006-2010 với mức tăng trưởng trung bình 15 - 20% có thể đạt mục tiêu
cho kim ngạch xuất khẩu cho năm 2010 vào khoảng 150 triệu USD.
Chúng ta cũng nên xếp các sản phẩm đồ gỗ gia dụng vào nhóm hàng thủ
công mỹ nghệ. Bởi vì, đồ gỗ gia dụng có nhiều loại, chủ yếu là những sản
phẩm của lao động thủ công có tay nghề truyền thống, các khâu sản xuất
công nghiệp có sử dụng thiết bị máy móc chế biến gỗ là khâu xử lý nguyên
liệu đầu vào, tương tự như khâu công nghiệp xử lý đất sét, cao lanh trong
ngành đồ gốm. Mặt khác đồ gỗ gia dụng nếu được sản xuất chế biến thêm các
khâu trạm, khảm, sơn mài thì lại trở thành đồ gỗ mỹ nghệ.
Xuất khẩu đồ gỗ gia dụng năm 2002 đạt kim ngạch gần 70 triệu USD
tăng gần 19% so với năm 2001, năm 2005 đạt được 90 triệu USD, năm 2006
ước tính đạt được khoảng 120 - 130 triệu USD. Dự tính với tốc độ tăng trung
bình như hiện nay (khoảng 25%/năm) đến năm 2010 kim ngạch riêng của
mặt hàng này có thể đạt khoảng 350 - 400 triệu USD.
Như vậy đối với nhóm sản phẩm gỗ, (bao gồm cả đồ gỗ gia dụngvà gỗ
mỹ nghệ) có thể tính kim ngạch khoảng 200 triệu USD trong năm 2005 và dự
tính năm 2010 sẽ dạt khoảng 500-550 triệu USD
2.2.2. Nhóm hàng gốm, sứ mỹ nghệ
Đây cũng là nhóm hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam hiện đang được
thị trường nước ngoài ưa chuộng và có nhiều khả năng phát triển nhanh trong
hiện tại, cũng như trong tương lai.
Năm 2002 trong tổng kim ngạch xuất khẩu 121triệu USD hàng thủ công
mỹ nghệ (không kể đồ gỗ gia dụng) thì trên 50% là hàng gốm sứ mỹ nghệ

(khoảng 62 - 63 tr.USD). Hàng gốm sứ cũng có nhiều loại: không kể gốm sứ
xây dựng và gốm sứ kỹ thuật, các loại gốm dân dụng và mỹ nghệ cũng có nhu
cầu ngày càng tăng cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Gốm sứ xây dựng
có nhiều loại là gốm sứ mỹ nghệ . Trong sản xuất gốm sứ mỹ nghệ dù có ứng
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
dụng một số quy trình kỹ thuật công nghệ và sử dụng một số thiết bị máy móc
hiện đại ở một số khâu nhất định , thì sản phẩm của ngành hàng này vẫn chứa
đựng đậm nét của sản phẩm thủ công truyền thống có tính văn hoá và mỹ
thuật cao. Vì vậy, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu cần được sự
khuyến khích , hỗ trợ , ưu đãi mạnh mẽ của nhà nước để biến triển vọng tốt
đẹp của ngành nghề này thành hiện thực trong những năm tới .
Nếu năm 2002- 2005 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng khoản
100 - 120 triệu USD, thì có thể đạt mục tiêu tăng trưởng trung bình 18 -
20%/năm trong thời kỳ 2005- 2010 và đến năm 2010 đạt kim ngạch 250 -
300 triệu USD.
2.2.3 Nhóm hàng mây tre đan
Trong thời kỳ trước năm 1990, nhóm hàng này được phát triển và xuất
khẩu với khối lượng tương đối lớn. Năm 1989, riêng công ty xuất nhập khẩu
Mây tre Việt nam đã xuất khẩu đạt kim ngạch trên 50 triệu Rúp/USD, trong
đó chủ yếu là hàng mây tre đan, bương đan, mành tre, trúc, cọ Những năm
đầu của thập kỷ 90, do thị trường Liên xô cũ và Đông Âu bị thu hẹp đối với
xuất khẩu của ta, nên sản xuất và xuất khẩu các loại hàng này bị đình trệ,
giảm sút đáng kể. Trong vài năm gần đây có khôi phục lại được một phần. Sơ
bộ đánh giá kim ngạch hiện nay chỉ đạt khoảng 20 - 25 triệu USD/năm. Xét
thấy tình hình như trên, các doanh nghiệp cần đổi mới mẫu mã hàng và Nhà
nước cần hỗ trợ để các doanh nghiệp có thể trở lại với các thị trường cũ và
mở rộng thêm thị trường mới .
Theo báo cáo của các thương vụ của Việt nam ở nước ngoài, thì hiện nay
Philipin xuất khẩu loại hàng này đạt kim ngạch khoảng 110 - 125 triệu

USD/năm, Inđônêxia xuất khẩu khoảng 50 triệu USD/năm, Trung quốc xuất
khẩu nhóm hàng thảm len và sản phẩm đan từ các loại cây đạt kim ngạch
trên dưới 1 tỷ USD/năm.
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
Nếu chúng ta làm tốt công tác tiếp thị , xúc tiến thương mại và thực hiện
tốt các chính sách hỗ trợ của nhà nước thì việc các doanh nghiệp có thể trở lại
thị trường cũ và còn có cơ hội chinh phục các thị trương mới. Thực tế đã cho
ta thấy mục tiêu phấn đấu năm 2005 trở lại mức 30 - 40 triệu USD kim ngạch
xuất khẩu của nhóm hàng này đã đạt được và hiện nay chúng ta đang đặt ra
mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 sẽ đạt được mức kim ngạch khoảng 60 - 80
triệu USD/năm.
2.2.4 Một số mặt hàng khác
Nhóm hàng thảm các loại: (thảm len , thảm đay – cói , thảm xơ dừa …)
Mặt hàng thảm trước năm 1990 Việt nam xuất khẩu với khối lượng
tương đối lớn ( mỗi năm xuất khẩu khoảng 3 triệu m2 thảm đay, gần 2,5 triệu
m2 thảm cói, gần nửa triệu m2 thảm len …). Sau năm 1990 ta gần như mất
hẳn thị trường xuất khẩu các loại hàng hoá này, số lượng xuất khẩu hàng năm
giảm mạnh gây nhiều khó khăn cho sản xuất và lực lượng lao động trong
ngành này. Vài năm gần đây ngành này đã có dấu hiệu hồi phục : Thái Bình
đã có thị trường xuất khẩu mặt hàng đệm ghế cói ( gần 500 nghìn chiếc với
giá 0,7 USD/chiếc , dự kiến sẽ tăng lên 1 triệu chiếc/năm, ngoài ra còn xuất
khẩu được loại thảm cói đay với giá 1,5 USD/m2 ); Nam Định cũng xuất khẩu
được mỗi nam khoảng 1 triệu sản phẩm đay, 300 nghìn sản phẩm cói; Hải
Phòng, Nam Định, Hà Tây vẫn có xuất khẩu thảm len mỗi năm khoảng 15 -
25 nghìn m2/năm. Ngoài ra còn có sản phẩm thảm xơ dừa của Bình Định
cũng rất phát triển
Nhìn chung, thị trường xuất khẩu nhóm hàng này hiện nay vẫn còn khó
khăn. Nếu làm tốt công tác thị trường, xúc tiến thương mại và có chính sách
hỗ trợ của nhà nước thì trong những năm tới ngành này sẽ phát triển thêm một

bước mới. Dự kiến với tốc độ tăng hiện nay được duy trì thì có thể năm 2010
xuất khẩu mặt hàng này sẽ đạt kim ngạch khoảng 20 - 25 triệu USD/năm .
Nhóm hàng thêu, ren thổ cẩm:
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
Hàng thêu ren, khăn thêu trải bàn, ga trải giường, áo gối thêu, áo thêu
kimônô trước đây ta cũng xuất khẩu với khối lượng tương đối lớn vào thị
trường Liên xô cũ và Đông Âu. Sau năm 1990 xuất khẩu các hàng hoá này
giảm nhiều. Tuy nhiên, nhu cầu thị trường thế giới đối hàng thủ công (thêu
tay) và hàng ren vẫn có những dấu hiệu không ổn định, tăng giảm thất thường.
Nhiều tỉnh, thành phố còn duy trì được ngành nghề xuất khẩu này như: Thái
Bình, Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng, Thanh Hoá đều có xuất khẩu trong
những năm gần đây.
Hàng thổ cẩm, sản phẩm truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số
ở các vùng như Lao Cai (Sa Pa), Ninh Thuận (Mỹ Nghiệp) và ở các tỉnh phía
Bắc, dân tộc Thái, mường đều có truyền thống dệt thổ cẩm hiện đang được
Chính phủ quan tâm đầu tư, nhưng sản phẩm sản xuất ra chủ yếu bán cho
khách du lịch (coi như xuất khẩu tại chỗ).
Hiện nay, không có số liệu chính xác nhưng theo ước lượng kim ngạch
xuất khẩu loại mặt hàng này đạt khoảng 10triệu USD/năm. Nếu chúng ta thực
hiện tốt công tác xúc tiến thương mại và khách hàng thì dự kiến năm 2010
kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sẽ đạt khoảng 20 - 25 tr.USD .
Ngoài ra chúng ta cũng còn một số các mặt hàng thủ công mỹ nghệ
mang tính truyền thống khác như: chạm bạc, khắc đá, đồ đồng đúc chạm.
Những mặt hàng này là những mặt hàng truyền thống tinh xảo khá nổi tiếng,
nhưng thị trường xuất khẩu còn hẹp và có nhiều khó khăn. Như: sản phẩm đá
mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng) thu hút gần 100 hộ gia đìnhlàm nghề thường
xuyên, nghề chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình) nổi tiếng từ lâu đời .
Năm 2005, chúng ta đã đạt được kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ khoảng 300 - 350 triệu USD (nếu không kể đồ gỗ gia dụng thì chỉ có

180 - 220 triệu USD) và mục tiêu phấn đấu đạt kim ngạch khoảng 900 - 1000
triệu USD vào năm 2010 (nếu không tính đến đồ gỗ gia dụng thì chỉ khoảng
550 - 600 triệu USD), với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 25%/năm.
Nếu tốc độ tăng trưởng bình quân chỉ đạt 20% thì kim ngạch 2010 chỉ đạt
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
khoảng 780-800 triệu USD, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 15% thì kim
ngạch chỉ còn 600-700 tiệu USD. Nhưng thực tế về xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ trong những năm qua cho ta thấy mục tiêu có tốc độ tăng trưởng
trung bình 25% một năm là hoàn toàn có cơ sở đạt được.
Nếu đạt được mục tiêu phấn đấu năm 2010 kim ngạch xuất khẩu hàng
thủ công mỹ ngệ khoảng 900-1000 triệu USD sẽ có một ý nghĩa quan trọng.
Mục tiêu đó sẽ tương đương với việc chúng ta có thêm khoảng 4 triệu tấn gạo
để xuất khẩu.
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2005 và mục tiêu phấn đấu đến
năm 2010
Đơn vị: triệu
USD
Kim ngạch xuất khẩu Năm 2005 Năm 2010
- Đồ gỗ gia dụng 120-130 350-400
- Đồ gỗ mỹ nghệ 50- 60 120-150
- Gốm, sứ mỹ nghệ 100-120 250-300
- Mây, tre đan 30-40 60-80
- Thảm các loại 10 20-25
- Thêu ren, thổ cẩm 10 20-25
- Các loại khác 10 20-30
Tổng 330-380 840-1010
(Nguồn: vụ Kế hoạch và Thống kê Bộ TM)
2.3 Thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam
Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam đến nay đã có mặt trên 50 nước và

lãnh thổ ở khắp các châu lục của thế giới . Thị trường xuất khẩu loại hàng
hoá này trong mấy chục năm qua có nhiều thăng trầm, có khi thuận lợi, có lúc
khó khăn , nhưng nhìn chung trong những năm gần đây đã có chiều hướng
phát triển tốt , hàng hoá phát triển đa dạng và mở rộng được nhiều thị trường
mới theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ thị trường và quan hệ
buôn bán với các nước trên thế giới .
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
Trước năm 1990, mặt hàng này của Việt nam chủ yếu là xuất khẩu sang
các nước Liên xô cũ và Đông Âu. Hiện nay, hàng thủ công mỹ nghệ Việt nam
đã có mặt ở hơn 50 nước, chủ yếu là thị trường các nước Âu - Mỹ và một số
thị trường Châu Á như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc và một số nước ở
Trung Đông. Nhưng chúng ta cũng cần thấy rằng, ta chưa xuất được nhiều
vào các thị trường có nhu cầu và dung lượng lớn.
Thị trường các nước Tây Âu, Bắc Âu
- Thị trường EU là khu vực thị trường rộng lớn, xuất khẩu của ta
sang khu vực thị trường này trong những năm gần đây tăng khá nhanh, hiện
nay chiến tỷ trọng gần bằng trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng của
Việt nam. Đây cũng là khu vực thị trường ta xuất khẩu được nhiều loại hàng
thủ công mỹ nghệ và có nhiều triển vọng mở rộng và đẩy mạnh tiêu thụ một
số loại hàng ta có khả năng phát triển.
Sản phẩm gỗ của ta hiện nay đang thâm nhập rất tốt vào thị trường EU,
thị trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới, đây cũng là một trong các thị
trường trọng điểm cho đồ gỗ chế biến của ta.
Hàng gốm, sứ mỹ nghệ cũng là nhóm hàng đang tiêu thụ mạnh sang thị
trường này. Thông qua Hội chợ Frankfurt hàng năm tại Đức, một số công ty
của ta đã thành đạt trong việc nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, ký được
nhiều hợp đồng xuất khẩu hàng gốm sứ mỹ nghệ. Đặc biệt hàng gốm sứ Việt
nam đã được nhiều khách hàng ưa chuộng, có thương nhân đã chuyển toàn bộ
đơn đặt hàng từ các nước xung quanh để tập trung đặt hàng vào Việt nam và

hứa hẹn giúp đỡ đầu tư mở rộng sản xuất tăng lượng hàng cung ứng cho thị
trường này lên 2-3 lần so với hiện nay .
Các mặt hàng như mây, tre, lá đan , các sản phẩm bàn ghế, trang trí
nội thất bằng nguyên liệu song mây, hàng thêu ren cũng được thị trường này
ưa chuộng và chúng ta đã thực hiện xuất khẩu được khối lượng đáng kể như
hàng mây tre xuất sang Tây Âu; thảm cói, đệm cói sang Hà Lan, Tây Ban
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
Nha, Ý…; hàng thêu ren, thảm dệt sang thị trường Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Áo,
Đức
Trong khu vực thị trường này , hầu hết các nước đều nhập hàng thủ
công mỹ nghệ của ta, trong đó có một số thị trường nhập khẩu với kim ngạch
tương đối lớn. Riêng 8 tháng đầu năm 2004, ta đã xuất khẩu sang Đức 7,6
triệu USD; Bỉ 6,2 triệu USD; Hà Lan 5,9 triệu USD; Anh 4,2 triệu USD
hàng thủ công mỹ nghệ.
Nhưng thực tế cho ta thấy, nhu cầu của thị trường này về hàng thủ công
mỹ nghệ Việt nam là rất lớn nhưng do các cơ sở sản xuất hiện nay mới hồi
phục nên chưa đáp ứng đủ cho khách hàng.
Thực tế trên chứng minh nếu phát hiện, nắm bắt được nhu cầu thị hiếu
của từng thị trường và có giải pháp thích hợp để đáp ứng thì mở rộng được thị
trường tiêu thụ, phát triển được sản xuất, tạo được việc làm và thu nhập cho
dân.
Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là thị trường gần và có nhu cầu lớn về nhiều loại hàng xuất
khẩu của ta, và nếu xét thị trường theo từng nước thì Nhật Bản là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam từ 1991 đến nay. Nhật cũng là thị trường
tiêu thụ lớn đối với nhiều chủng loại hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
Thị trường Nhật có nhu cầu lớn về hàng gốm sứ , trong những năm gần
đây nhập khẩu mặt hàng này của Nhật tăng mạnh (riêng năm 2001 kim ngạch
nhập khẩu đạt 1tỷ USD). Tuy nhiên, thị phần mặt hàng gốm sứ Việt nam trên

thị trường Nhật chiếm rất nhỏ, theo đánh giá chung của cơ quan thương vụ,
kim ngạch xuất khẩu hàng gốm sứ của Việt Nam vào Nhật trong những năm
vừa qua chỉ đạt khoảng 5 triệu USD/năm.
TrÇn V¨n Th¾ng KTNT TC21B   Khãa LuËn tèt
nghiÖp
Người Nhật cũng có nhu cầu lớn về đồ gỗ gia dụng và đồ gỗ mỹ nghệ
của Việt Nam. Theo thống kê của Nhật , hàng năm chúng ta đã xuất khẩu
sang Nhật khoảng 60 triệu USD đồ gỗ gia dụng.
Trên thực tế bạn hàng lớn nhất của Việt nam về hàng thủ công mỹ nghệ
xuất khẩu chính là Nhật (15triệu USD 8 tháng đầu năm 2004). Để đẩy mạnh
xuất khẩu các loại hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường Nhật, các doanh
nghiệp cần được các cơ quan xúc tiến thương mại cung cấp thông tin về thị
trường, và phải có các phương thức và kênh bán hàng phù hợp (Hầu hết các
công ty thành công trên thị trường Nhật đều bán hàng thông qua chi nhánh
của mình tại Nhật ngay từ lúc khởi đầu; hoặc làm việc thông qua các công ty
thương mại có quan hệ với thị trường nhập khẩu của Nhật, hoặc liên hệ được
với các cửa hàng lớn ở Nhật ).
Thị trường Đài Loan, Hồng Kông và Hàn Quốc
Đài Loan: là thị trường nhập khẩu nhiều sản phẩm gỗ của công nghiệp,
trong đó có đồ gỗ gia dụng và mỹ nghệ, kim ngạch hàng năm khoảng 50 - 60
triệu USD, chiến 20% kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Đài Loan và
đây là thị trường còn nhiều tiềm năng ta có thể khai thác để xuất khẩu, vì thuế
nhập khẩu loạihàng này của đầi loan thấp, chỉ từ 0% đến 2,5%. Ngoài ra, một
số chủng loại hàng thủ công mỹ nghệ khác cũng được xuất sang thị trường
này như đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng).
Hồng Kông: đây là thị trường lâu nay ta đã xuất khẩu được nhiều chủng
loại hàng thủ công mỹ nghệ. Theo thống kê trong 8 tháng đầu năm 2004 kim
ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của ta sang thị trường này đạt 5,5
triệu USD. Ngoài ra thị trường Hồng Kông còn là thị trường chuyển khẩu lớn
của các nước Châu Á, các mặt hàng của các nước sẽ được nhập khẩu vào

Hồng Kông sau đó sẽ được tái xuất sang các thị trường khác như Châu Âu,
Châu Mỹ
* Một số thị trường tiềm năng khác

×