Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

những tác động môi trường chủ yếu ngành thủy sản việt nam đương đầu trong 2015-2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.25 KB, 19 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
CHỦ ĐỀ :NHỮNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG CHỦ YẾU NGÀNH THỦY SẢN
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẦU TRONG 2015-2020.

GVHD: TS.TRỊNH QUỐC TRUNG
DANH SÁCH NHÓM:
1/ TRẦN THỊ QUỲNH CHÂU (giới thiệu+phân tích môi trường)
1
2/ PHAN NGỌC TRƯỜNG GIANG (tổng hợp+phân tích luật pháp)
3/ TRẦN THỊ HỒNG (phân tích xã hội+kinh tế)
4/ NGUYỄN HIỀN LÊ MAI (giới thiệu+phân tích công nghệ)
5/VÕ THỊ HOÀI THU (phân tích kinh tế +chính trị)

❶Tổng quan về ngành thủy sản Việt Nam hiện nay:
Việt Nam nằm ở phía đông bán đảo Đông Dương với chiều dài đường bờ biển hơn
3.200 km, vùng đặc quyền kinh tế biển rộng hơn 1 triệu km2,nhiều ngư trường
lớn, nguồn lợi thủy sản dồi dào, ven biển có nhiều eo, vũng, vịnh, đầm, cùng hệ
thống sông ngòi dày đặc với diện tích mặt nước hơn 1,4 triệu ha là những điều
kiện tự nhiên thuận lợi giúp Việt Nam có nhiều thế mạnh nổi trội để phát triển
2
ngành công nghiệp thủy sản. Từ lâu, Việt Nam đã trở thành quốc gia sản xuất
và xuất khẩu thủy sản hàng đầu khu vực, cùng với Indonesia và Thái Lan. Khai
thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thủy sản trở nên quan trọng của nền
kinh tế.
Tính đến tháng 11/2009, do sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới,
xuất khẩu thủy sản giảm 8,2% so với cùng kì năm ngoái.
Ngoài nguyên nhân từ sự sụt giảm nhu cầu từ các nước nhập khẩu chính, nguyên nhân


một phần cũng xuất phát ngay chính từ hoạt động của ngành thủy sản Việt Nam như
nguồn nguyên liệu chế biến không ổn định, tình hình sản xuất và khai thác không thuận
lợi.
Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, trong giai đoạn 2006-2008, tốc độ tăng
xuất khẩu hàng thuỷ sản đạt trung bình 19%/năm. Sau mức giảm 5,5% của năm 2009,
xuất khẩu thuỷ sản trong 6 tháng đầu năm 2010 đạt 2,02 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng
kỳ năm 2009.
Thống kê kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
giai đoạn 2005-6 tháng/2010
3
Mặc dù trở thành nước xuất khẩu thủy sản nhiều năm nhưng các mặt hàng thuỷ sản xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn còn khá đơn điệu, chủ yếu là cá, tôm, nhuyễn thể, các
loại thuỷ sản đông lạnh và thuỷ sản khô. Tuy cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu của
nước ta đã được bổ sung thêm các mặt hàng có giá trị như cá ngừ, nghêu và một số đặc
sản khác nhưng nhìn chung vẫn còn khá đơn điệu. Công nghệ chế biến của ngành thủy
sản Việt Nam vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của thế giới. Sau đây là một số
mặt hàng hải sản xuất khẩu chính của Việt Nam.
Cá các loại: trong 6 tháng/2010, lượng xuất khẩu cá đạt gần 449 nghìn tấn, kim ngạch đạt
hơn 1 tỷ USD, tăng 18,9% về lượng và 16,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2009. Chiếm
66% kim ngạch xuất khẩu cá các loại trong 6 tháng/2010 là nhóm hàng cá tra, basa với
lượng xuất khẩu đạt hơn 304 nghìn tấn, tăng 12,3%, trị giá đạt 653 triệu USD, tăng 6% so
với 6 tháng/2009. Tiếp theo là cá ngừ đạt hơn 41 nghìn tấn, tăng 66%, trị giá hơn 155
triệu USD, tăng 83,7%; cá khô: 17,2 nghìn tấn, tăng 61,2% với trị giá là 36,2 triệu USD,
giảm 6,3%; cá loại khác: 86,2 nghìn tấn, trị giá gần 229 triệu USD, tăng 21% về lượng
và tăng 24,8% về trị giá so với 6 tháng/2009.
Tôm các loại: lượng xuất khẩu trong 6 tháng/2010 đạt 87,2 nghìn tấn với trị giá hơn 718
triệu USD, tăng 19,2% về lượng và 19,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó,
lượng xuất khẩu tôm sú đạt 48,7 nghìn tấn, tăng 93,5%, trị giá đạt 467 triệu USD, tăng
97,5%; tôm chân trắng đạt 22,5 nghìn tấn, tăng 89%, trị giá hơn 144 triệu USD, tăng
96%; tôm loại khác đạt gần 16 nghìn tấn với trị giá là 107 triệu USD, giảm 55,7% về

lượng và 63,1% về trị giá so với 6 tháng/2009.
4
Mực và bạch tuộc: trong 6 tháng đầu năm 2010, cả nước xuất khẩu 41,7 nghìn tấn với trị
giá là 173,4 triệu USD, tăng 0,9% về lượng và 8,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2009.
Trong đó, lượng xuất khẩu mực đạt 24,1 nghìn tấn với trị giá là 121 triệu USD, giảm
1,8% về lượng và tăng 9,1% về trị giá; bạch tuộc đạt 17,6 nghìn tấn với trị giá là 52,5
triệu USD, tăng 4,9% về lượng và 7,3% về trị giá so với 6 tháng/2009.
Thuỷ sản loại khác: lượng xuất khẩu thuỷ sản loại khác trong 6 tháng/2010 đạt gần 20,2
nghìn tấn với trị giá đạt 82,6 triệu USD, giảm 26,6% về lượng và giảm 16% về trị giá so
với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, xuất khẩu cua, ghẹ các loại đạt 5,2 nghìn tấn với trị giá
gần 38 triệu USD, tăng 9,2% về lượng và giảm 13,6% về trị giá so với 6 tháng đầu năm
2009.
Thống kê lượng và kim ngạch xuất khẩu một số nhóm hàng thủy sản trong 6 tháng
đầu năm 2010:
5
Trong tương lai ngành thủy sản Việt Nam còn phải đương đầu với những tác động từ môi
trường bên ngoài, bên trong và nhiều tác động khác. Dưới đây là những yếu tố thuộc
phân tích PESTLE nhằm để chỉ ra những tác động môi trường chủ yếu mà ngành thủy
sản phải đương đầu trong vòng 5-10 năm tới.
❷Phân tích bằng công cụ P.E.S.T.L.E:
2.1/Công cụ phân tích P.E.S.T.L.E là gì?
P.E.S.T.L.E. là một công cụ phân tích Marketing (Policy - Economic- Social -
Technology- Law – Environment) tức là Chính trị - Kinh tế - Xã hội - Công nghệ - Luật
pháp - Môi trường. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành kinh tế, các
yếu tố này là các yếu tố bên ngoài của của doanh nghiệp và ngành, và ngành phải chịu
các tác động của nó đem lại như một yếu tố khách quan. Các doanh nghiệp dựa trên các
tác động sẽ đưa ra những chính sách, hoạt động kinh doanh phù hợp.
2.2/Phân tích cụ thể:
2.2.1/Yếu tố chính trị-P(political factors):
-chính sách thuế:

+. Ngày nay, đứng trước thách thức về cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường nội
địa, các quốc gia đã tăng cường sử dụng các công cụ bảo hộ ngày càng tinh vi thông qua
6
các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng của WTO, trong đó có thuế chống bán phá
giá. Vì vậy, các vụ kiện bán phá giá xảy ra trên thế giới ngày càng tăng về số lượng chủ
thể tham gia và ngày càng mở rộng phạm vi hàng hoá áp dụng. Trong những ngày trung
tuần tháng 3/2009, Bộ thương mại Mỹ DOC công bố kết quả cuối cùng của đợt xem xét
hành chính thuế chống bán phá giá đối với một số sản phẩm cá tra fillet đông lạnh tại
Việt Nam, theo đó các công ty xuất khẩu thủy sản đều được dỡ bỏ hàng rào thuế chống
bán phá giá, điển hình là: Công ty CP thủy hải sản Minh Phú, Công ty Chế biến thủy sản
và XNK Cà Mau, Công ty CP XNK Thủy sản An Giang và Công ty TNHH Phương Nam
đều giảm xuống gần bằng 0%.
+việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống còn 25% tăng lợi nhuận sau thuế và lợi
nhuận giữ lại cho các doanh nghiệp,đem đến cơ hội đầu tư nhiều hơn.Tuy nhiên mức thuế
này so với các nước khác trên thế giới vẫn còn khá cao nên chưa thực sự đem đến nhiều
lợi ích cho doanh nghiệp.
+Theo Công văn số 97 ngày 11/01/2010 của TCT, mặt hàng thủy sản được sơ chế qua
các công đoạn làm sạch, cắt lát, bảo quản lạnh, ở khâu kinh doanh thương mại áp dụng
mức thuế suất thuế GTGT 5% thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ.
- nguồn tài trợ từ chính phủ
+ODA trong giai đoạn 2010 của Việt Nam là 8,063.85 tỷ USD, trong đó hơn 1,4 tỷ USD
là viện trợ không hoàn lại.Tuy nhiên do tình hình kinh tế thế giới trong những năm gần
đây lâm vào khủng hoảng mà mở đầu là đế chế kinh tế Mỹ hùng mạnh nên trong 5 năm
tới (2010-2015),nguồn viện trợ ODA sẽ giảm đi khá đáng kể.
+Chính phủ đã có chính sách hỗ trợ và tạo thuận lợi để ĐBSCL phát triển: phê duyệt quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2025; quy hoạch xây
dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050; phê duyệt Đề án thành lập
vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL, trong đó xác định ĐBSCL là vùng trung tâm lúa
gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản của cả nước, đồng thời, là một trung tâm
năng lượng lớn.

+ Tổ chức FAO đã tài trợ cho ngành thủy sản Việt Nam 250.000 USD để xóa đói giảm
nghèo và nâng cao khả năng cạnh tranh của thủy sản Việt Nam. Đây là nguồn tài trợ quan
7
trọng giúp cho ngành thủy sản Việt Nam phát triển bền vững, đáp ứng chỉ tiêu yêu cầu
chất lượng của thị trường thế giới.
-chính sách đối ngoại,khuyến khích hợp tác đầu tư:
+ Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản chính thức có hiệu lực từ ngày
01/10/2009, trong đó, 86% nhóm hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam vào thị trường
Nhật Bản (thị trường tiêu thụ thủy sản lớn và ổn định) được ưu đãi về thuế. Thị trường
Nga mở cửa trở lại với nhiều doanh nghiệp Việt Nam trong đó có Công ty CP Nam Việt;
Công ty CP XNK Thủy sản An Giang v.v Nhờ đó thúc đẩy giá trị xuất khẩu ngành thủy
sản nói riêng,giá trị xuất khẩu Việt Nam nói chung,mở rộng thị trường tiềm năng đồng
thời tham gia vào thị trường mới.
+Quan hệ ngoại giao được tạo lập và củng cố đưa ra nhiều cơ hội hơn cho xuất khẩu các
mặt hàng thủy sản nói riêng và xuất khẩu nói chung,đặt nền tảng cho doanh nghiệp trong
nước trong việc tham gia vào thị trường quốc tế.
+Xu hướng bảo hộ thương mại, các hàng rào kỹ thuật, kiểm dịch chặt chẽ và thường
xuyên ban hành các tiêu chuẩn mới khắt khe hơn về dư lượng kháng sinh và an toàn vệ
sinh thực phẩm. Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đang trong quá trình triển khai dự luật
nông nghiệp 2008 (Farmbill), trong đó có điều khoản nhằm hạn chế việc nhập khẩu cá tra
của Việt Nam, dựa trên việc mở rộng định nghĩa catfish và đưa cá tra của Việt Nam vào
danh sách này để chuyển đối tượng này từ USFDA sang USDA quản lý.
-Sự bình ổn chính trị:thể chế chính trị và an ninh quốc gia luôn được củng cố và giữ vững
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt động kinh doanh và đầu
tư.Đây là một điểm mạnh của Việt Nam có sức hút đối với nhiều tập đoàn lớn.
-Chiến tranh xung đột:tranh chấp khu vực biển Đông với Trung Quốc gần đây gây không
ít khó khăn đến khai thác đánh bắt thủy sản của ngư dân.
2.2.2/Yếu tố kinh tế-E(economic factors):
-tỉ giá hối đoái:
+Tỷ giá USD, giá vàng trong năm 2009-2010 liên tiếp biến động,và được dự báo sẽ tiếp

tục biến đổi trong những năm tới.Mức giá USD thị trường tự do có lúc lên đến 19.600
8
đồng/USD. Mức giá phổ biến trong hệ thống liên ngân hàng đã lên đến mức 18.495 -
18.800 đồng/USD (mua vào và bán ra).Tỷ giá nâng lên ở một mức hợp lý nhằm khuyến
khích xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu.
+việc tăng tỷ giá sẽ rất có lợi cho các DN xuất khẩu thuỷ sản bởi thông thường có tới
90% các hợp đồng xuất khẩu của các doanh nghiệp thủy sản được thanh toán bằng đô la
Mỹ. Theo dự báo của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào năm 2010 sẽ
đạt khoảng 4,7 tỉ đô la Mỹ, nếu nhân với 500-600 đồng/USD chênh lệch tỷ giá thì số tiền
các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản nhận được không hề nhỏ. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
cũng cần xem xét khía cạnh lợi ích của người nông dân. Tỷ giá tăng đồng nghĩa với việc
giá các mặt hàng nguyên liệu đầu vào (đặc biệt là TACN) sẽ tăng mạnh trở lại. Nếu giá
cả đầu ra không được đảm bảo, tình trạng bỏ ao, đầm nuôi tôm hay cá tra, basa có thể tiếp
diễn trở lại, gây ảnh hưởng lớn tới an toàn nguyên liệu. Do vậy, các DN chế biến cần chủ
động hơn trong việc gắn kết và hỗ trợ người nông dân nhằm đảm bảo nguồn cung nguyên
liệu trong dài hạn, phục vụ nhu cầu chế biến xuất khẩu.
-tốc độ tăng trưởng kinh tế(GDP):
+Mức GDP năm 2008 công bố là 6,23,năm 2009 là 5,5% ,dự báo năm 2010 là 8,2%.
Nguyên nhân là do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.Mặc dù nền kinh tế
đang có những hồi phục nhưng vẫn còn rất chậm.
-lạm phát: Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung sản phẩm được huy
động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm. Lạm
phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
-khủng hoảng kinh tế thế giới:
+Nền kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng năm 2008 mở đầu là Mỹ đã ảnh hưởng
không ít đến nền kinh tế Việt Nam. Từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, EU, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Nga, Đông Âu, đều gặp nạn. Giữa tháng 11 vừa qua, “người khổng lồ” Trung
quốc cũng phải thừa nhận, khủng hỏang tài chính tòan cầu gây thiệt hại cho kinh tế nước
này, việt nam cũng không ngọai lệ, không nằm ngoài vùng gió xóay của “cơn bão khủng
hỏang tài chính”. Những thị trường lớn như Mỹ, EU và Nhật Bản thể hiện khá rõ nhưng

biến động về nhập khẩu trong đó có nhập khẩu thực phẩm. Khủng hoảng tài chính đã lan
đến Nga, Ucraina và Ba Lan, một số ngân hàng không đủ vốn họăc xiết chặt tín dụng
9
khiến các nhà nhập khẩu không vay được tiền để thanh toán hàng nhập khẩu và đã có nhà
nhập khẩu từ chối nhận hàng.
+ Hiện nay đồng Euro và đồng bảng Anh đang mất giá khiến một số nhà nhập khẩu
Châu Âu bị thua lỗ. Nhiều nhà nhập khẩu Châu Âu yêu cầu thanh toán bằng đồng Euro,
vì vậy càng tăng thêm khả năng mất lãi khi xuất hàng. Hàn Quốc – một thị trường tiêu
thụ đáng kể thủy sản – đến nay đã cầu cứu FED hỗ trợ. Còn Ucraina, nhà nhập khẩu lớn
nhất cá tra phi lê Việt Nam, cũng đang trông chờ vào những khoản cứu trợ của EU.
+ Như vậy, khủng hoảng kinh tế xảy ra ở các nước phát triển lại là những thị trường
tiêu thụ chính sản phẩm xuất khẩu từ các nước đang phát triển, rõ ràng sẽ ảnh hưởng lớn
đến nhiều ngành sản xuất của nước này. Ngành xuất khẩu thủy sản nhiều nước đang dần
phải hứng chịu những hậu quả của suy thóai kinh tế và khủng hỏang tài chính.
+Ngành thủy sản nước ta đã hòa nhập vào thị trường thế giới từ rất sớm. Hiện nay,
thủy sản Việt Nam đã có mặt trên hơn 150 thị trường thế giới. Mỗi năm, xuất khẩu đều có
khó khăn riêng về thị trường, về kiện tụng chống bán phá giá và rào cản VSATTP (dư
lượng kháng sinh và hóa chất cấm ) Nhưng tác động khủng hoảng tài chính lan rộng ở
các nước phát triển có lẽ là năng nề nhất và bất khả kháng đối với xuất khẩu nói chung.
-lãi suất:
+ Lãi suất ngân hàng tuy đã hạ nhiệt(vào khoảng 13%/năm), song vẫn còn rất cao so với
khả năng sinh lợi của DN. Trong khi đó nguồn hỗ trợ tín dụng của nhà nước không còn.
Một số đơn vị đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong giai đoạn tín dụng cao trước đây,
nay gặp nhiều khó khăn khi nợ đáo hạn.Đối với doanh nghiệp các ngành nông-lâm –ngư
được hỗ trợ 2%.
-cung-cầu:
+Các doanh nghiệp không ngừng tăng cường củng cố chất lượng sản phẩm,mở rộng diện
tích nuôi trồng,đảm bảo nguồn cung cấp dồi dào .
+ Theo kết quả nghiên cứu mới đây của FAO cho thấy lượng tiêu thụ mặt hàng thủy sản
bình quân đầu người mỗi năm hiện đang ở mức 16Kg và sẽ tăng lên 19Kg vào đầu năm

10
2015. Lượng tiêu thụ sẽ tăng mạnh tại các nước đang phát triển với mặt hàng chủ yếu là
các sản phẩm có giá trị thấp và xu huớng tiêu dùng các mặt hàng có giá trị cao sẽ có xu
hướng chững lại tại các nước phát triển.
+Về dự báo dài hạn, tổng lượng thủy sản, tổng nhu cầu và tổng lượng tiêu thụ mặt hàng
này trên thế giới sẽ tiếp tục tăng trong vòng 3 thập niên tới đây, nhưng sau đó sẽ bắt đầu
giảm tốc và giữ mức duy trì ổn định.
-Cạnh tranh:nhìn chung Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao trong ngành thủy sản,đặc
biệt là xuất khẩu cá tra và cá basa đang là thế mạnh.Đứng thứ 6 về xuất khẩu thủy
sản,chúng ta tin tưởng rằng vị trí này sẽ lên cao hơn. Cạnh tranh càng cao càng thúc đẩy
phát triển chất lượng sản phẩm.Một số doanh nghiệp trong ngành cạnh tranh gay gắt là
một trong những nguyên nhân dẫn đến việc bán phá giá.
-xuất nhập khẩu & cán cân thương mại:Do tình hình tỷ giá có những biến động nên thúc
đẩy xuất khẩu,hạn chế nhập khẩu,cán cân thương mại được dịch chuyển.
2.2.3/Yếu tố xã hội-S(social factors):
Về mặt tôn giáo, đa số các đạo (trừ những người theo đạo Phật và ăn chay trường) đều có
thể ăn thủy sản, đó là một thế mạnh của ngành thủy sản.
Ở một số nước sử dụng thủy sản làm thức ăn chính của mình như Nhật Bản, có nhu cầu
lớn về mặt hàng này nên đây chính là một trong những thị trường trọng điểm của
ngành thủy sản Việt Nam. Chúng ta chưa chế biến được cá Nóc, nhưng ở một số
nước như Nhật, Đài Loan, Trung Quốc thì đây lại được coi là thức ăn rất ngon, nắm
được thị hiếu đó, nước ta cũng đã xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô vào các thị
trường tiềm năng này.
Văn hóa ăn uống khác nhau của mỗi nước tạo nên một lợi thế riêng cho ngành thủy sản,
nếu các nước phương Đông thích cá Nóc thì ở Mỹ lại rất chuộng cá da trơn (cá basa,
cá tra), tính đến tháng 6/2010, nước ta đã xuât khẩu hơn 304 ngàn tấn cá basa, cá tra,
chiếm 66% kim ngạch xuất khẩu. Còn những mặt hàng hải sản như tôm, ghẹ, mực,
bạch tuộc….lại là sự lựa chọn hàng đầu của các nước thuộc khối EU.
11
Thủy sản là thức ăn đã được ưa chuộng từ rất lâu về trước không chỉ ở Việt Nam mà còn

ở khắp nơi trên Thế giới. Đặc biệt ở nước ta còn sử dụng cá để chế biến nước mắm (1
loại gia vị không thể thiếu của mỗi gia đình và chỉ có ở Việt Nam), tạo nên một văn
hóa ẩm thực đặc trưng của nguời Việt.
Những tháng gần đây, dịch heo tai xanh và cúm gia cầm lại xuất hiện ở nước ta, gây khó
khăn cho nông dân và những người nội trợ. Người tiêu dùng chuyển sang ăn thủy hải
sản nhiều hơn, nhu cầu về mặt hàng này tăng cao, giá cả cũng theo đó tăng lên. Tạo
một động lực giúp cho ngành thủy sản phát triển hơn.
Bên cạnh đó, ý thức của mọi người về sức khỏe ngày càng cao, họ biết được ăn thủy sản
có lợi cho tim mạch và xương, lại kéo dài tuổi thọ, vì vậy việc sử dụng thủy sản
nhiều hơn trong các bữa ăn sẽ trở thành xu hướng tất yếu.
2.2.4/Yếu tố công nghệ-T(technological factors):
Công nghệ là một yếu tố quan trọng, góp phần không nhỏ đến sự phát triển của toàn
nền kinh tế quốc dân, trong đó có ngành thủy sản.
Công nghệ càng phát triển, càng có nhiều giống mới ra đời và được ứng dụng rộng rãi
trong ngành nuôi trồng, đem lại năng suất cao và chất lượng ngày một hoàn thiện. các
nhà khoa học đã nghiên cứu thành công và tạo ra các giống mới với nhiều đặc tính tốt
hơn như cá tra, cá ba sa, tôm sú, tôm he chân trắng, tôm càng xanh, cá rô đơn tính,
nhuyễn thể hai mảnh, tu hài, hải sâm, bào ngư, rong biển… là những thực phẩm có giá trị
dinh dưỡng cao, lợi ích kinh tế lớn. các nghiên cứu này đã giải quyết không ít việc làm,
góp phần nâng cao đời sống cho người dân ven biển, đặc biệt là vùng duyên hải Nam
trung bộ.
Hiện nay, công nghệ sử dụng năng lượng mặt trời đang được thử nghiệm tại một số
địa phương ven biển. Hệ thống này gồm có những tấm pin mặt trời, năng lượng được hấp
thu và chuyển đến bình ắc quy, cung cấp điện cho các thiết bị thổi khí oxy vận hành. Oxy
được chuyển đến gần đáy ao nhờ các ống dẫn khí, vi sinh vật cũng được dử dụng kết hợp
12
để cải thiện chất lượng nước trong ao nuôi. Qua quá trình thử nghiệm, kết quả thu được là
rất khả quan, sử dụng được nguồn năng lượng tự nhiên, giảm thiểu ô nhiễm và các chất
gây bẩn trong ao hồ, loại bỏ khả năng bị nhiễm độc từ các nguồn năng lượng khác kkhi
hô hấp qua mang của cá và tôm nuôi.

Cùng với sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản, ngành chế biến cũng đã mở
rộng quy mô, tỉ lệ với những tiến bộ khoa học kĩ thuật. Năm 1985, năng lực chế biến
đông lạnh chỉ với 72 nhà máy đông lạnh, cấp đông được 381 tấn / ngày, chủ yếu là làm
đông khối, xuất nguyên liệu thô, đến năm 2005, cả nước đã có tổng cộng 439 nhà máy
đông lạnh với tổng công suất 4262 tấn/ ngày, chuyển sang sản xuất các sản phẩm có giá
trị gia tăng bằng dây chuyền tiên tiến ở mức độ khu vực và thế giới. Việt Nam đã trở
thành nước xuất khẩu thủy sản thứ 6 trên thế giới.
Áp dụng những tiến bộ của khoa học kĩ thuật, việc khai thác thủy hải sản cũng đã
phát triển rất nhiều. Số lượng tàu cá từ 29.323 (năm 1985) đã tăng lên 90.880 chỉ sau 20
năm,công suất của các phương tiện đánh bắt cũng cao hơn, có khả năng đánh bắt xa bờ
trong thời gian dài với sản lượng lớn, khai thác triệt để nguồn lợi khổng lồ trên biển.
Việt Nam đã xây dựng được công nghệ bảo quản thực phẩm gồm hợp chất hữu cơ và
đá xay bảo quản tôm ngay từ khi thu hoạch, giữ cho chất lượng tôm được lâu hơn.
Với đà phát triển như thế, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào một tương lai tươi
sáng của ngành chế biến thủy sản trong 5 – 10 năm tới.
2.2.5/Yếu tố pháp luật-L(legal factors):
Hoạt động của ngành thủy sản phải nằm trong khuôn khổ cho phép của các luật như
Luật thủy sản, Luật tài nguyên môi trường, Luật lao động, Luật an toàn thực phẩm,
…và gần đây nhất là các văn bản pháp quy khác như thông tư 25, thông tư 51 của
nhà nước.
Theo điều 16 Luật thủy sản, “các tổ chức, cá nhân khai thác thủy sản phải có giấy
phép khai thác thủy sản, trừ trường hợp cá nhân khai thác thủy sản bằng tàu cá có
trọng tải dưới 0.5 tấn hoặc không sử dụng tàu cá”. Như vậy, việc khai thác thủy sản
của ngư dân với quy mô lớn sẽ bị giới hạn thời gian hoạt động, thời hạn của giấy
13
phép, các điều kiện để được cấp giấy phép… theo điều 26.5 Luật thủy sản, “các tổ
chức, cá nhân nuôi trồng thủy sản phải thực hiện các quy định của pháp luật về bảo
vệ môi trường” trong khi đa số các tổ chức này khó có thể tuân theo yêu cầu trên vì
các hoạt động nuôi trồng thủy sản làm nhiễm hữu cơ nguồn nước bởi thức ăn thừa,
làm quá trình lan truyền phèn diễn ra mãnh liệt.

Thông tư 25/2010/TT-BNNVPTNT buộc những nhà xuất khẩu thủy sản vào Việt Nam
phải đăng ký qua cơ quan có thẩm quyền của nước đó nhưng từ trước đến nay công ty
thường mua trực tiếp từ các tàu cá chứ không qua doanh nghiệp nên sẽ vị phạm thông tư
25.
Tuy nhiên, chính phủ đã kịp thời đưa ra thông tư 51 để chỉnh sửa một số điều trong
thong tư 25 đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghịêp thủy sản Việt Nam được
diễn ra bình thường.
Bên cạnh đó, luật pháp quốc tế cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của
ngành này như Luật chống bán phá giá của Mỹ là một rào cản lớn đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu cá da trơn vào nước này, hay luật IUU về nhập khẩu thủy sản vào
EU, tất cả lô hàng hải sản muốn vào được thị trường EU đều phải chứng minh nguồn
gốc (vùng biển khai thác, tàu khai thác…quy định điều tiên quyết để nhập khẩu sản
phẩm thuỷ sản vào EU là phải có chứng nhận về tính hợp pháp của sản phẩm) trong
khi các doanh nghiệp của nước ta thu gom sản phẩm từ các đầu nậu với số lượng
nhiều, việc kiểm soát nguồn gốc hàng hóa là không hề dễ dàng.
2.2.6/Yếu tố môi trường-E(envirnomental factors):
Bên cạnh các tác động của các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, công nghệ, pháp luật thì
yếu tố môi trường ngày càng có ảnh hưởng đối với sự phát triển của ngành thủy sản nước
ta và ngược lại.
Sự lên giá các sản phẩm thủy sản so với nông sản đã tạo nên hiện tượng nông dân ồ ạt
phá bỏ ruộng vườn, rừng ven biển để đào ao nuôi cá, nuôi tôm, đặc biệt ở các vùng ven
đô và ven biển.
14
ĐBSCL hiện có 400 ngàn ha, các tỉnh ven biển và đồng bằng bắc bộ là172.467 ha diện
tích mặt nước nuôi trồng thủy sản các loại. Hàng năm,chỉ riêng ĐBSCL đã cung cấp cho
thị trường 1,5 triệu tấn, chiếm trên 70% sản lượng thủy sản cả nước.
Tuy mang lại lợi nhuận cao cho người dân nhưng việc mở rộng diện tích nuôi trồng
thủy sản ngày càng làm cho nguồn nước ở những nơi này bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Ước tính mỗi năm, việc nuôi trồng thủy sản đã thải ra môi trường nước xấp xỉ 3 triệu
tấn bùn ở dạng chất thải hữu cơ gần như chưa được xử lý. Mầm bệnh từ các ao nuôi cũng

đã đi theo nguồn thải này ra hệ thống sông rạch làm chất lượng nhiều vùng nước suy
giảm nặng nề.
Thực tế cho thấy, hầu hết những kênh mương nhỏ trong khu vực đang bị ô nhiễm là do
sự gia tăng mang tính bùng phát diện tích nuôi trồng thủy sản, một số nơi ô nhiễm nguồn
nước nặng nề thêm do sự xuất hiện các nhà máy chế biến thủy sản.
Các kênh rạch nhỏ ô nhiễm trầm trọng đã và đang ảnh hưởng đến khả năng tự làm sạch
của nguồn nước và đe dọa tính bền vững của nghề cá vùng ĐBSCL.
Nguyên nhân của hiện tượng này là hầu hết hệ thống kênh mương đều được quy hoạch
cho mục tiêu số một là canh tác lúa, sau đó là giao thông thuỷ. Việc xem xét nhu cầu
nước cho nuôi trồng thuỷ sản ít được lưu ý.
Trong tính toán quy hoạch thủy lợi, nhiều năm qua, nơi đây thường chú trọng nhiều về
diễn biến về số lượng nước hơn là động thái thay đổi chất lượng nước. Chưa có sự tách
bạch giữa hệ thống kênh lấy nước vào đồng ruộng, ao hồ và kênh xả nước từ nơi canh tác
ra nguồn nước.
Lưu lượng thiết kế kênh không tương xứng với sự gia tăng quá lớn của diện tích nuôi
trồng thủy sản. Tần số lấy nước và xả nước ra kênh dẫn từ các ao nuôi trồng thủy sản
nhiều hơn canh tác lúa. Hầu hết các ao nuôi trồng thủy sản cũng như các cơ sở chế biến
thủy sản đều không có hệ thống xử lý nước trước khi thải ra môi trường.
Theo tính toán một cách tính gần đúng, muốn có 1 kg cá da trơn thành phẩm, người
nông dân đã phải sử dụng từ 3-5 kg thức ăn, trung bình khoảng 4 kg. Thực tế chỉ khoảng
15
17% thức ăn được cá hấp thu và phần còn lại (chừng 83%) hòa lẫn trong môi trường
nước trở thành các chất hữu cơ phân hủy. Như vậy, với ước tính khoảng 1 triệu tấn thủy
sản thì ít nhất 3 triệu tấn chất thải hữu cơ đã tuôn ra môi trường nước ở ĐBSCL.
Nguy cơ ô nhiễm thể hiện rất rõ ở các biểu hiện như nước sông rạch gần các ao nuôi
cá có mật độ cao (trên 40 cá/m
2
) đều có độ đục cao, nồng độ oxy hòa tan thấp, sự hiện
diện của tảo khá phổ biến, nước có hôi và vị nước tanh. Có nhiều tháng trong năm, người
dân ở đây không thể lấy cho ăn uống được.

Nuôi trồng theo mô hình VAC không đúng kỹ thuật làm nguồn nước bị ô nhiễm nặng
nề, dẫn đến hậu quả là cá chết hàng loạt ở Hải Phòng (tháng 7/2010), người nuôi cá phải
chịu thiệt hại không nhỏ.
Cùng với kĩ thuật nuôi không đúng, người nuôi thủy sản còn chịu nhiều thiệt hại do
nguồn nước bị nhiễm hàm lượng kim loại nặng vượt 1-33 lần mức cho phép mà chưa rõ
nguyên nhân như vụ cá chết ở Đà Nẵng tháng 8/2010.
Hiện nay, thời tiết có nhiều biến đổi bất gây ảnh hưởng tiêu cực đến ngành thủy sản.
Nhiều cơn bão xuất hiện bất thường với tần số ngày càng cao cản trở việc đánh bắt xa
bờ, làm sản lượng thu hoạch thủy hải sản giảm đáng kể, ảnh hưởng đến toàn ngành.
Hiện tượng lũ lụt không theo mùa xuất hiện gây nên những tác động mạnh mẽ lên
hoạt động nuôi trồng thủy sản, nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

16
S
-tỷ giá được nâng lên.
-Lãi suất cho vay có xu
hướng giảm.
-vị trí địa lý thuận lợi
-Nằm trong 10 nước xuất
khẩu thủy sản hàng đầu
thế giới.
-Quan hệ đối ngoại được
duy trì và giữ vững.
-chính trị bình ổn.
-hưởng ưu đãi về thuế.
-Công nghệ ngày càng
phát triển.
-Ban hành những điều luật
bảo vệ quyền lợi cho
ngành thủy sản.

W
-đầu vào của ngành chế biến
còn phụ thuộc nguồn
nguyên liêụ bên ngoài.
-Dòng vốn vào Việt Nam bị
hạn chế.
-Chất lượng còn chưa đạt
yêu cầu
-Tình hình không mấy khả
quan của thị trường chứng
khoán cả trong và ngoài
nước.
-ODA trong 5 năm tới có xu
hướng giảm.
-Chính sách áp dụng thuế
chống bán phá giá của một
số nước và nay lại thêm
chính sách "bảo hộ".
-chưa có sự quy hoạch thủy
lợi phù hợp với ngành nuôi
trồng thủy sản
O
-xu hướng tiêu dùng mặt hàng
thủy hải sản ngày càng tăng
-nhà nước khuyến khích phát
triển ngành thủy sản
-đời sống người dân ngày
càng cao.
-thu hút vốn đầu tư nước
ngoài

SO
-Tăng khả năng xuất khẩu
thủy sản.
-Tăng khả năng vay vốn
đầu tư cho ngành,giúp
doanh nghiệp giải quyết
các khó khăn tài chính Là
vốn.
-Đưa tốc độ tăng trưởng
về xuất khẩu thủy sản là
20%-25%.
WO
-
17
-Thúc đẩy kim ngạch xuất
khẩu thủy sản lên trên 6 tỷ
USD trong 2015 và7 tỷ
USD trong 2020.
-Hạn chế nhập khẩu
nguyên liệu thủy san còn
0,5 tỷ đô
-Thâm nhập thị trường
mới có tiềm năng(Nam
Mĩ,Trung Đông,Bắc
Phi),ổn định thị trường
cũ(EU,Đông
Âu,Nhật,Mỹ,Trung Quốc).
-Thu hút đầu tư nước
ngoài.
-Nâng cao doanh số tiêu

thụ trong nước.
T
-Xuất khẩu bị hạn chế.
-Tâm lý e ngại đầu tư =>thu
hút đầu tư khó khăn.
-Chính sách hạn chế của các
quốc gia nhập khẩu thủy sản.
-Một số mặt hàng thực phẩm
thay thế có khả năng nhập
khẩu nhiều hơn.
-Chính trị thế giới có những
diễn biến phức tạp.
-Thị trường xuất khẩu co hẹp
dần do xu hướng “gây khó
dễ” và tạo áp lực từ các thị
trường lớn.
ST
18
-Gây ô nhiễm môi trường .
Từ những phân tích trên, có thể dự đoán những khó khăn mà ngành thủy sản Việt Nam sẽ
phải đương đầu trong 5 – 10 năm tới như sau :
*thuận lợi
- Nền kinh tế thế giới có dấu hiệu hồi phục sau khủng hoảng, ngành thủy sản tạm
thời bước qua khó khăn.
- Công nghệ sản xuất giống phát triển, ứng dụng thành công nhiều giống mới có
năng suất và chất lượng cao.
- ứng dụng công nghệ thông tin (phần mềm truy xuất của IBM và các đối tác) để
quản lý nguồn gốc và chất lượng sản phẩm
- gia nhập WTO, hàng thủy sản Việt Nam được hưởng các ưu đãi về thuế, được đối
xử bình đẳng khi xảy ra tranh chấp thương mại

*khó khăn
- Đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm của các thị trường chính.
- Giá thức ăn cho nuôi trồng tăng.
- Tình hình biến đổi khí hậu biến đổi phức tạp gây ra các cơn bão, lũ lụt bất thường
làm ảnh hưởng đến hoạt động đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thủy sản.
- Tình hình đánh bắt không có kế hoạch làm cạn kiệt nguồn tài nguyên sẵn có.
- Môi trường sinh thái ngày càng suy thoái do ảnh hưởng của các khu công nghiệp.
19
- Các nước có những điều luật để bảo vệ quyền lợi người nuôi trồng trong nước nên
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều rào cản hơn.
- Gia nhập WTO làm chúng ta mất dần lợi thế về giá, tạo điều kiện cho các đối thủ
cạnh tranh nhảy vào thị trường Việt Nam
- Xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan
- Công nghệ nuôi trồng và chế biến thủy sản của Việt Nam cần phát triển hơn nữa
để bắt kịp với đà phát triển của các nước khác.
- Tình hình biển Đông diễn biến phức tạp.
20

×