BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
CƠ SỞ THANH HÓA- KHOA KINH TẾ
d&c
CHUYÊN ĐỀ MÔN HỌC
ĐỀ TÀI: DỰA VÀO MÔN HỌC KINH TẾ VĨ MÔ, PHÂN
TÍCH ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT TẠI
VIỆT NAM
GVHD : LÊ DUY THÀNH
SVTH :
MSSV :
LỚP :
Thanh Hóa, tháng 02 năm 2013
Chuyên đề môn học
GVHD: Lê Duy Thành
LỜI NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
SVTH:
Chuyên đề môn học
GVHD: Lê Duy Thành
MỤC LỤC
LỜI NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN 2
MỤC LỤC 3
LỜI MỞ ĐẦU 1
1: Lý do chọn đề tài 1
2: Mục tiêu nghiên cứu 1
3: Đối tượng nghiên cứu 1
4: Phạm vi nghiên cứu 1
5: Phương pháp nghiên cứu 1
6: Kết cấu chuyên đề 1
NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN MÔN HỌC KINH TẾ VĨ MÔ 3
1.1: CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ VĨ MÔ 3
1.1.1: Mô tả môn học 3
1.1.2: Hệ thống kinh tế vĩ mô 3
1.1.3: Vị trí và mục đích của môn học 4
1.1.4: Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu 4
1.2: CHƯƠNG 2: HẠCH TOÁN THU NHẬP QUỐC DÂN 6
1.2.1: Khái niệm hạch toán thu nhập quốc dân 6
1.2.2: Hố cách GDP và số nhân 6
1.2.3: Điều chỉnh hố cách: 7
1.3.1: Khái niệm về lạm phát - thất nghiệp 7
1.3.2: Chỉ số đo lường lạm phát 8
1.3.3: Nguyên nhân đưa đến lạm phát 9
1.3.4: Tác hại của lạm phát đối với kinh tế 9
1.3.5: Thất nghiệp 10
1.4: CHƯƠNG 4: CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH 10
1.5: CHƯƠNG 5: TIỀN TỆ NGÂN HÀNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 11
1.6: CHƯƠNG 6: THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 13
1.7: CHƯƠNG 7: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 14
1.8: TÓM TẮT CHƯƠNG 1 15
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 16
SVTH:
Chuyên đề môn học
GVHD: Lê Duy Thành
2.1: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 16
2.1.1: Nguyên nhân dẫn đến lạm phát 16
2.2: NHẬN XÉT TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT TỚI NỀN KINH TẾ 18
2.2.1: Tác động của lạm phát tới lĩnh vực sản xuất 18
2.2.2: Tác động hoạt động của ngân hàng 18
2.2.3: Ảnh hưởng của lạm phát tới đời sống của người dân 19
2.3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KIẾM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM 20
2.4: TÓM TẮT CHƯƠNG 2: 23
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC KINH TẾ VĨ MÔ 24
3.1: GIẢNG DẠY MÔN HỌC 24
3.1.1: Giáo trình, tài liệu môn học, giảng dạy 24
3.1.2: Cơ sở vật chất 24
3.1.3: Tính thực tiễn, thiết thực của môn học 25
3.3: TÓM TẮT CHƯƠNG 3 26
KẾT LUẬN 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
1/ Sách 28
2/ Tạp chí 28
3/ Trang Web 28
SVTH:
Chuyên đề môn học 1
GVHD: Lê Duy Thành
LỜI MỞ ĐẦU
1: Lý do chọn đề tài
Trong suốt 3 năm học chúng ta đã được học rất nhiều môn từ căn bản đến
chuyên ngành, mỗi môn học đều mang lại cho chúng ta những kiến thức quan
trọng tạo nền tảng vững chắc, trang bị kiến thức cho chúng ta để làm việc thực
tế. Trong đó em thích nhất là môn học kinh tế vĩ mô. Bởi Môn kinh tế vĩ mô
cung cấp các kiến thức nền về kinh tế học trước khi chúng ta học các môn
chuyên ngành kinh tế và qua môn học sẽ giúp cho chúng ta biết được mô hình
nền kinh tế quốc dân và hoạt động của nền kinh tế. Ngày nay nền kinh tế trên
thế giới nó chung và nước ta nói riêng luôn gặp phải những vấn đề lạm phát, suy
thoái, thất nghiệp vì vậy các doanh nghiệp nên có một cái nhìn đúng đắn về
nền kinh tế để hoạch định chiến lược phát triển cho doanh nghiệp của mình.
Chính vì vậy, em chọn môn học kinh tế vĩ mô làm chuyên đề môn học, một
môn học thú vị.
2: Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa những cơ sở lý luận về kinh tế vĩ mô.
- Phân tích thực trạng tình hình lạm phát ở nước ta
- Đưa ra một số giải pháp để khắc phục tình trạng lạm phát
3: Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu môn học kinh tế vĩ mô
- Tình hình lạm phát ở nước ta
4: Phạm vi nghiên cứu
- thời gian thực hiện: từ 5/11/2011 đến 5/12/2011
- phạm vi nghiên cứu : tình trạng lạm phạt ở nước ta, các số liệu của cục
thống kê từ nam 2008 đến nay.
5: Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp diễn dịch
6: Kết cấu chuyên đề
SVTH:
Chuyên đề môn học 2
GVHD: Lê Duy Thành
Ngoài phần mở đầu, mục lục đề tài gồm 3 phần chính:
- Chương 1: Tổng quan về môn học kinh tế vĩ mô
- Chương 2: Phân tích thực trạng tình hình lạm phát ở Việt Nam
- Chương 3: Nhận xét và đánh giá môn học .
SVTH:
Chuyên đề môn học 3
GVHD: Lê Duy Thành
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN MÔN HỌC KINH TẾ VĨ MÔ
1.1: CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ VĨ MÔ
1.1.1: Mô tả môn học
Kinh tế vĩ mô là môn học kinh tế học căn bản cung cấp cho sinh viên kiến
thức đại cương về mô hình nền kinh tế quốc dân và hoạt động của nền kinh tế.
Nội dung môn học gồm cách tính tổng sản lượng quốc gia; sản xuất và tăng
trưởng; tổng chi tiêu và sản lượng quốc gia; những dao động của tổng chi tiêu;
tổng cầu và tổng cung; tiền tệ, ngân hàng, giá cả và lãi suất; cung-cầu lao động
và thất nghiệp; lạm phát; chính sách tài chính và chính sách tiền tệ và tìm hiểu
về tỉ giá hối đoái và cán cân thanh toán.
Kinh tế vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên cứu về đặc
điểm,cấu trúc và hành vi của cả một nền hinh tế nói chung kinh tế học vĩ mô và
kinh tế học vi mô là hai lĩnh vực chung nhất của kinh tế học.
Kinh tế vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học nghiên cứu sự vận đông và
những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên binh diện toàn bộ nền
kinh tế cuốc dân
1.1.2: Hệ thống kinh tế vĩ mô
Có nhiều cách mô tả hoạt đông của nền kinh tế.theo cách tiếp cạn hệ
thống,nền kinh tế được xem như một hệ thống – gọi là hệ thống kinh tế vĩ mô.hệ
thống này như P.A samuelson mô tả - được đặc trưng bởi 3 yếu tố:đầu vào,đầu
ra và hộp đen kinh tế vĩ mô
Các yếu tố đầu vào bao gồm:
- Những tác động từ bên ngoài,bao gồm chủ yếu là các biến số phi kinh
tế.thời tiết ,dân số,chiến tranh…
- Những tác động chính sách,bao gồm các công cụ của nhà nước nhằm điều
chỉnh hộp đen kinh tế vĩ mô,hướng tới các mục tiêu đã định trước.
SVTH:
Chuyên đề môn học 4
GVHD: Lê Duy Thành
Các yếu tố đầu ra bao gồm:
- Sản lượng,việc làm ,giá cả,xuất – nhập khẩu.đó là các biến do hoạt động
của hộp đen kinh tế vĩ mô tạo ra.
- Yếu tố trung tâm của các hệ thống là hộp đen kinh tế vĩ mô,còn foij là nền
kinh tế vĩ mô.hoạt động của hộp đen như thế nào sẽ quyết định chất lượng của
các biến đầu ra.hai lực lượng quyết định sự hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô
là tổng cung và tổng cầu.
1.1.3: Vị trí và mục đích của môn học
Môn kinh tế vĩ mô cung cấp các kiến thức nền về kinh tế học trước khi sinh
viên học các môn chuyên ngành kinh tế. Kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô là môn
học kinh tế đại cương nền tảng cho các môn kinh tế ứng dụng và các môn về
kinh tế kinh doanh được dạy cho sinh viên chuyên ngành kinh tế, phát triển
nông thôn.
Mục đích:
Các thành tựu kinh tế vĩ mô của một đất nước thường được đánh giá theo 3
dấu hiệu chủ yếu ;ổn định,tăng trưởng và công bằng xã hội.
Sự ổn định kinh tế là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế
như lạm phát,suy thoái,thất nghiệp trong thời kỳ ngắn hạn .
Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi giải quyết tốt những vấn đề dài hạn hơn,có
liên quan đến việc phát triển kinh tế.
Công bằng trong phân phối vừa là vấn đề xã hội vừa là vấn đề kinh tế.
1.1.4: Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu
Để đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên,Nhà nước có thể sử dụng
nhiều công cụ chính sách khác nhau.mỗi chính sách lại có những công cụ riêng
biệt.dưới đây là một số chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu thường sử dụng trong
lịch sử lâu dài và đa dạng của họ.
• Chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ để
hướng nền kinh tế vào một mức sản lượng và việc làm mong muốn.
SVTH:
Chuyên đề môn học 5
GVHD: Lê Duy Thành
Chính sách tài khóa có hai công cụ chủ yếu là chi tiêu của chính phủ và
thuế.chi tiêu của chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp với quy mô chi tiêu công
cộng,do đó có thể trực tiếp tác động đến tổng cầu và sản lượng.thuế làm giảm
các khoản thu nhập ,do đó làm giảm chi tiêu của khu vực tư nhân,từ đó cũng tác
động đến tổng cầu và sản lượng.thuế khóa cũng có thể tác động đến đầu tư và
sản lượng về mặt dài hạn
Trong thời gian ngắn ,1 đến 2 năm,chính sách tài khóa có tác động đến sản
lượng thực tế và lạm phát ,phù hợp với các mục tiêu ổn định kinh tế.
Về mặt dài hạn chính sách tài khóa có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu
kinh tế,giúp cho tăng trưởng và phát triển lâu dài
• Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ chủ yếu nhằm tác động đến đầu tư tư nhân,hướng nền
kinh tế tới mức sản lượng và việc làm mong muốn .
Chính sách tiền tệ có hai công dụng chủ yếu là cung ứng tiền tệ và lãi
suất.khi ngân hàng trung ương thay đổi cung tiền lãi suất sẽ tăng hoặc giảm,tác
động đến đầu tư tư nhân ,do vậy ảnh hưởng tới tổng cầu và sản lượng.
Chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tổng sản phẩm quốc dân
(GNP) thực tế về mặt ngắn hạn,song đó tác động đến đầu tư,nên nó cũng có ảnh
hưởng đến GNP tiềm năng về mặt dài hạn
• Chính sách thu nhập
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các biện pháp(công cụ) mà chính
phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công,giá cả để kiềm chế lạm phát.
Chính sách này sử dụng nhiều loại công cụ,từ các công cụ có tính chất cứng
rắn như đồng giá,đồng lương,những chỉ dẫn chung để ấn định tiền công và giá
cả,những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá cả và tiền lương….đến
những công cụ mềm dẻo hơn như việc hướng dẫn,khuyến khích bằng thuế thu
nhập….
• Chính sách kinh tế đối ngoại
SVTH:
Chuyên đề môn học 6
GVHD: Lê Duy Thành
Chính sách kinh tế đối ngoại trong các nền kinh tế mở là nhằm ổn định tỷ
giá hối đoái và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp nhận
được.
Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân
băng,các quy định về hàng rào thuế quan bảo hộ mậu dịch, và cả những biện
pháp tài chính và tiền tệ khác,tác động vao hoạt động xuất khẩu.
Trên đây là tập hợp các chính sách và công cụ chính sách chủ yếu mang sắc
thái lý thuyết phù hợp với nền kinh tế thị trường đã phát triển.
Trong thực tế biểu hiện và sự vận dụng các chính sách nay rất đa dạng ,đặc
biệt là các nước đang phát triển.
1.2: CHƯƠNG 2: HẠCH TOÁN THU NHẬP QUỐC DÂN
1.2.1: Khái niệm hạch toán thu nhập quốc dân
“Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là chỉ tiêu phản ánh giá trị bằng tiền của
toàn bộ sản phẩm cuối cùng do công dân của một nước sản xuất ra trong
khoảng thời gian nhất định,thường là một năm”.
Hệ thống kế toán thu nhập quôc dân là thước đo của tổng sản phẩm và thu
nhập hàng năm. Nó cũng là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế cũng như việc
hiểu biết về các thành phần kinh tế tác động với nhau như thế nào. Phương pháp
đo toàn diện nhất đối với sản phẩm của chúng ta là GDP và GNP. Sự khác biệt
giữa GDP và GNP đó là : GDP là giá trị tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng
được sản xuất trên lãnh thổ một nước, còn GNP là giá trị tất cả hàng hóa và dịch
vụ cuối cùng do công dân 1 nước sản xuất ra
1.2.2: Hố cách GDP và số nhân
Hố cách GDP: sự khác biệt hay chênh lệch giữa chi tiêu ở mức GDP cân
bằng với GDP ở mức toàn dụng
Hố cách suy thoái: chênh lệch của mức chi tiêu mong muốn theo sản lượng
toàn dụng thấp hơn mưc sản lượng toàn dụng.
Hố cách lạm phát: chênh lệch cua mức chi tiêu mong muốn theo mức sản
SVTH:
Chuyên đề môn học 7
GVHD: Lê Duy Thành
lượng toàn dụng vượt qua mức sản lượng toàn dụng.
Số nhân đơn giản: là số nhân theo đó một sự thay đổi ban đầu của chi tiêu
sẽ tạo ra một sự thay đổi chi tiêu được hình thành sau một loạt các vòng chi tiêu
kéo theo.
1.2.3: Điều chỉnh hố cách:
Theo quan điểm của Keynes cần có sự can thiệp của chính phủ
Theo quan điểm cổ điển không cần sự can thiệp của chính phủ
GDP là chỉ tiêu tốt về phúc lợi kinh tế nhưng nó không phải là chỉ tiêu hoàn
hảo về phúc lợi. Vì một số yếu tố tốt đẹp như thời gian nghỉ ngơi sẽ bị loại bỏ ra
khỏi GDP. Tổng Thu nhập của các gia đình, công ty, chính phủ cung cấp sức
mua để mua sản phẩm. Khi sức mua được sử dụng, GDP cũng được sáng tạo
thêm và quá trình sản xuất mới được tiếp tục.
1.3: CHƯƠNG 3 : CHÚNG TA CÙNG NHAU TÌM HIỂU VỀ LẠM PHÁT
– THẤT NGHIỆP
1.3.1: Khái niệm về lạm phát - thất nghiệp
Lạm phát là hiện tượng giảm mãi lực của đồng tiền. Điều này cũng đồng
nghĩa với “vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao khiến với cùng
một số lượng tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả một
giá cao hơn để hưởng cùng một dịch vụ. Một khái niệm khác về lạm phát là khối
lượng tiền được lưu hành trong dân chúng tăng lên do nhà nước in và phát hành
thêm tiền vì những nhu cầu cấp thiết (chiến tranh, nội chiến, thâm thủng ngân
sách v.v ). Trong khi đó, số lượng hàng hoá không tăng khiến dân chúng cầm
trong tay nhiều tiền quá sẽ tranh mua khiến giá cả tăng vọt có khi đưa đến siêu
lạm phát. Những ví dụ cùng cực nhất của siêu lạm phát đã xảy ra tại Đức trong
những năm đầu thập niên 1920 khi tỉ lệ lạm phát lên tới 3.25 x 106 mỗi tháng,
có nghĩa là giá cả tăng gấp đôi mỗi 49 tiếng đồng hồ hoặc tại Hungary sau Thế
chiến thứ hai với tỉ lệ lạm phát 4.19 x 1016 (giá cả tăng gấp đôi mỗi 15 giờ đồng
hồ).
SVTH:
Chuyên đề môn học 8
GVHD: Lê Duy Thành
1.3.2: Chỉ số đo lường lạm phát
• Chỉ số giá cả sản xuất PPI (Producer Price Index): Đây là chỉ số giá
thành sản xuất của một số mặt hàng và dịch vụ tiêu biểu. Mang so sánh với thời
kỳ trước để tính ra tỉ lệ tăng giảm như thế nào. Chỉ số PPI tuy có thể là dấu báo
hiệu hiện tượng lạm phát nhưng chưa hẳn lạm phát sẽ bắt buộc phải xảy ra.
• Chỉ số giá cả tiêu thụ CPI (Consumer Price Index): chỉ số giá cả của một
số nhu yếu phẩm và dịch vụ tiêu biểu. Chỉ số CPI cho biết tỉ lệ lạm phát thật sự
đang xảy ra khi so sánh với thời kỳ trước đó. Ảnh hưởng của lạm phát đối với
nền kinh tế Lạm phát khó có thể là một điều tốt lành cho nền kinh tế trừ trường
hợp ở mức độ nhẹ và trong tầm kiểm soát của chính phủ. Ví dụ, hàng năm chính
phủ có thể phát hành thêm một lượng tiền mới để tiêu xài cho những chương
trình công cộng hoặc giải quyết thiếu hụt ngân sách khiến đồng tiền được xoay
vòng tạo ra thêm của cải, trực tiếp đẩy cao tổng sản lượng quốc dân GDP (Gross
Domestic Product) lên thêm một mức. Dĩ nhiên nếu quá đà sẽ có nguy cơ gây ra
lạm phát nặng hoặc siêu lạm phát và làm các hoạt động kinh tế sẽ bị tê liệt.
Nhiều người quan niệm việc chính phủ in thêm tiền trong giới hạn cho phép của
nền kinh tế là một hình thức thu “thuế lạm phát”. Chính phủ sử dụng khoản phụ
trội này để quân bình ngân sách với hi vọng sang năm kinh tế tiếp tục phát triển
sẽ được nộp ngân sách nhiều hơn. Một chút lạm phát cũng khiến doanh nghiệp
kiếm thêm lợi nhuận vì thông thường từ khâu nhập nguyên liệu (giá trước lạm
phát) đến lúc hoàn thành sản phẩm bán được cao giá hơn cũng tốt thêm cho
doanh vụ.
Ngoài những trường hợp kể trên, bao giờ lạm phát cũng có ảnh hưởng xấu
đối với kinh tế. Tỉ lệ lạm phát bao nhiêu là vừa phải cũng tùy thuộc vào tình
hình phát triển kinh tế của từng nơi, đặc điểm của nền kinh tế của từng quốc gia
khác nhau. Theo lẽ thông thường thì tỉ lệ lạm phát nếu giữ được ở mức thấp hơn
tỉ lệ phát triển kinh tế thì là điều tốt. Do đó, các quốc gia đang ở giai đoạn kinh
tế cất cánh (tỉ lệ phát triển xấp xỉ 10%) có thể chấp nhận một tỉ lệ lạm phát cao
SVTH:
Chuyên đề môn học 9
GVHD: Lê Duy Thành
hơn các quốc gia đã phát triển (tỉ lệ phát triển dưới 5%)
1.3.3: Nguyên nhân đưa đến lạm phát
Có nhiều trường phái kinh tế khác nhau đưa ra các lý thuyết về nguyên nhân
đưa đến lạm phát, trong số đó trường phái Neo-Keynesian có vẻ được chấp nhận
hơn cả với “mô hình tam giác” nói lên ba dạng lạm phát chính và những nguyên
nhân của nó:
• Lạm phát do nhu cầu tăng (Demand-pull inflation).Lạm phát do nhu cầu
sản xuất và dịch vụ (gọi chung là Tổng Thu Nhập Quốc Dân GDP) tăng trong
khi tỉ lệ thất nghiệp còn thấp. Còn gọi là Phillips Curve - đường cong Phillips.
Nói cách khác là khi nhu cầu kinh tế tăng mà thị trường lao động bị hạn chế sẽ
gây lạm phát.
• Lạm phát do đột biến giá cả (Cost-push inflation).Giá cả một số nguyên
vật liệu trọng yếu, ví dụ giá dầu hoả, tăng cao bất thường có thể đưa đến lạm
phát vì hiện tượng dây chuyền, các mặt hàng khác sẽ tăng theo.
• Lạm phát sẵn có tự nhiên (Built-in inflation).Lạm phát sẵn có, liên quan
đến hiện tượng “vòng xoắn giá/lương” (price/wage spiral) nghĩa là hiện tượng
công nhân luôn luôn muốn được trả lương cao hơn (dĩ nhiên rồi), chủ bắt buộc
phải trả thêm vì không tìm đâu ra công nhân nữa, kinh tế phát triển nên ai cũng
có công ăn việc làm cả rồi. Người chủ muốn chuyển chi phí phụ trội này qua
người tiêu thụ nên tăng giá sản phẩm lên. Công nhân, đồng thời là người tiêu
thụ, thấy giá lên lại đòi lương cao hơn nữa. Cái vòng luẩn quẩn này cuối cùng
gây ra lạm phát. Cả ba dạng này có thể cộng hưởng và tạo ra mức lạm phát hiện
hành của nền kinh tế của một quốc gia.
1.3.4: Tác hại của lạm phát đối với kinh tế
Đối với các quốc gia đang phát triển, tác hại dễ thấy nhất là lạm phát phủ
định (negate) tăng trưởng kinh tế nếu bằng hay cao hơn tăng trưởng kinh tế. Ví
dụ theo World Factbook, nếu một nền kinh tế tăng trưởng kinh tế ở mức 8.4%
nhưng tỉ lệ lạm phát lên tới 8.3%. Như vậy, trung bình người dân có thu nhập
SVTH:
Chuyên đề môn học 10
GVHD: Lê Duy Thành
cao hơn 8.4% nhưng đời sống sinh hoạt mắc hơn 8.3% cùng thời kỳ thì coi như
cũng không tích lũy được gì. Tiêu chuẩn đời sống không được cải thiện bao
nhiêu. Nếu không có biện pháp ngăn chận, lạm phát sẽ làm tê liệt dần bộ máy
kinh tế vì doanh nhân sẽ không thiết tha hoạt động sản xuất nữa vì không có lợi
nhuận. Tâm lý chung sẽ chỉ mua bán “chụp giựt” và chuyển tài sản thành kim
loại quý hay ngoại tệ mạnh để tránh lạm phát. Điều này rõ ràng không có lợi cho
sự xoay vòng của đồng tiền để phát triển nền kinh tế.
Đối với các quốc gia công nghiệp (industrialized countries) mà xã hội đã
chuyển qua dạng xã hội tiêu thụ rồi thì lạm phát tác hại theo một qui trình 3
bước:
- Lạm phát
- Giảm phát
- Suy thoái kinh tế
1.3.5: Thất nghiệp
Là tình trạng người trong lực lượng lao động không tìm được việc làm.
Sự mất mát kinh tế vĩ mô do nạn thất nghiệp gây ra là sản lượng hàng hóa và
dịch vụ bị giảm sút. Luật Okun giả thiết rằng cứ 1% thất nghiệp sẽ làm giả sút
2% sản lượng. Cái giá mà con người phải trả cho thất nghiệp không chỉ bao gồm
các mất mát tài chính ngoài ra còn bao gồm cả những sự trả giá về tâm lý, thể
chất và xã hội.
Muốn giảm thất nghiệp chu kỳ cần áp dụng chính sách chống suy thoái,
muốn giảm thất nghiệp tự nhiên cần phải tạo thuận lợi cho người lao động trong
quá trình tìm viêc.
Luôn luôn có sự đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp nhưng
không có sự đánh đổi trong dài hạn.
1.4: CHƯƠNG 4: CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
Chính sách tài chính là khái niệm dùng để chỉ việc chính phủ thay đổi chi
tiêu hoặc thuế để ổn định hoạt động của nền kinh tế. Chính sách tài chính bao
gồm 2 công cụ là chi tiêu và thuế.
SVTH:
Chuyên đề môn học 11
GVHD: Lê Duy Thành
Thất bại vĩ mô xảy ra khi các mức chi tiêu mong muốn không bằng với giá
trị sản xuất ở điều kiện làm việc đầy đủ gây ra thất nghiệp và lạm phát. Việc chi
tiêu của người tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố ngoài thu nhập và thu
nhập hiện có. Việc tiết kiệm của người tiêu dùng biểu hiện bằng sự rò rỉ của
luồng luân chuyển. Đó là nhừng luồng tiền không quay lại thị trường sản phẩm,
thuế và nhập khẩu cũng làm rò rỉ tiền ra khỏi nền kinh tế. Những khoản rò rỉ đó
được bù lại bằng các khoản đầu tư, chi tiêu của chính phủ và xuất khẩu. Mất cân
bằng trong chi tiêu sẽ gây ra lạm phát và thất nghiệp, không có sự điều chỉnh tự
động nào để trở lại mức việc làm đầy đủ.
Chính sách thuế của chính phủ không trực tiếp tác động lên tổng cầu, nó
gián tiếp làm thay đổi tổng cầu thông qua việc làm thay đổi hành vi của khu vực
tư nhân. Khi chính phủ thay đổi thuế thì tác động đầu tiên của nó là làm thay đổi
thu nhập sử dụng của mọi người.
Theo lý thuyết Keynes, nền kinh tế không thể tự cân bằng và ổn định được
chính vì vậy cần có sự can thiệp của chính phủ. Những chính sách tài chính của
chính phủ đề cập tới cách dùng thuế và chi tiêu chính phủ như thế nào để đạt
được kết quả vĩ mô như mong muốn. Mục tiêu của chính sách tài chính là lấp
đầy khoảng cách GDP, khi sử dụng chính sách tài chính thì ngân sách của chính
phủ có thể thăng dư, thâ hụt hay cân bằng một cách ngẫu nhiên.Trong thực tế,
đôi khi chính sách tài chính sẽ gây ra sự khó khăn trong nền kinh tế chính vì vậy
một số nhà kinh tế cho rằng nên sử dụng cơ chế tự ổn định như thuế và trợ cấp
để hạn chế phần nào sự biến động của nền kinh tế.
1.5: CHƯƠNG 5: TIỀN TỆ NGÂN HÀNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Tiền: Một cách khái quát, là những gì được thừa nhận chung để làm trung
gian cho việc mua bán hàng hóa.
Sử dụng tiền: Trung gian trao đổi, dự trữ giá trị, đơn vị tính toán
Loại tiền: Tiền hàng, tiền pháp lệnh
Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ đảm nhận chức năng cơ bản trong việc
SVTH:
Chuyên đề môn học 12
GVHD: Lê Duy Thành
tạo thuận lợi cho việc trao đổi và chuyên môn hóa, do vậy cho phép tăng sản
lượng. Ngân hàng trung ương có năng lực tạo ra tiền tệ bằng cách cho vay.
Trong việc cấp các khoản vay, ngân hàng tạo nên các khoản tiền gửi giao dịch
mới mà chúng sẽ trở thành một phần của cung tiền tệ. Tiềm năng tạo tiền của
mỗi ngân hàng đều bị giới hạn bởi các qui định của chính phủ. Ngân hàng TW
kiểm soát tiền tệ của mỗi quốc gia bằng 3 công cụ cơ bản đó là tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở.
Theo quan điểm của phái Keynes, nhu cầu về tiền là quan trọng. Nhu cầu
này phản ánh mong muốn giữ tiền cho các mục đích giao dịch, đầu tư và dự
phòng. Tác động qua lại giữa cung và cầu tiền tệ quyết định lãi suất cân bằng.
Chính sách tiền tệ là khái niệm dùng để chỉ việc chính phủ thay đổi cung
tiền hoặc lãi suất để ổn định hoạt động của nền kinh tế. Cơ quan hoạch định
chính sách tiền tệ là chính phủ hoặc ngân hàng TW, nhưng cơ quan thực thi
chính sách tiền tệ luôn luôn là ngân hàng TW.
Sự gia tăng cung ứng tiền làm giảm lãi suất cân bằng, ngược lại giảm cung
ứng tiền sẽ làm tăng lãi suất cân bằng. Để chính sách tiền tệ phát huy hết tác
dụng, lãi suất phải thể hiện được hết những thay đổi trong cung tiền và chi tiêu
đầu tư phải phản ứng được với những thay đổi trong lãi suất. Không có điều
kiện nào được đảm bảo. Trong tính trạng bẫy thanh khoản, người ta muốn giữ
tiền không hạn chế ở mức lãi suất thấp nào đó. Lãi suất sẽ không giảm xuống
mức thấp này khi cung tiền tăng cao. Hơn nữa kỳ vọng của nhà đầu tư sẽ làm
thay đổi quyết định đầu tư.
Để chống thất nghiệp, chính phủ cũng có thể sử dụng chính sách tiền tệ.
Trong trường hợp này chính phủ phải thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng,
thông qua việc mua trái phiếu chính phủ, giảm lãi suất chiết khấu hoặc cắt giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, họ phải trả giá cho thành công này bằng mức
lạm phát cao hơn.
Mặc dù các đòn bẩy tài chính có vẻ ấn tượng nhưng trên thực tế trong nền
SVTH:
Chuyên đề môn học 13
GVHD: Lê Duy Thành
kinh tế thì không được tốt lắm. Thất nghiệp và lạm phát gia tăng khó có thể thực
hiện các chính sách tài chính nêu ra trên lý thuyết. Ở một chừng mực nào đó, sự
thất bại của chính sách kinh tế còn phản ánh các nguồn lực khan hiếm và những
mục tiêu mang tính cạnh tranh. Ngoài ra còn tồn tại những vấn đề về đo lường,
lập kế hoạch và vần đề thực thi.
1.6: CHƯƠNG 6: THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Thương mại quốc tế cho phép mỗi quốc gia chuyên môn hóa trong phạm vi
của hiệu quả tương đối, làm tăng sản lượng thế giới. Với mỗi quốc gia, lợi ích
thu được từ thương mại phản ánh qua khả năng tiêu thụ vượt quá khả năng sản
xuất .
Tỷ giá thương mại sẽ nằm đâu đó giữa chi phí cơ hội của các đối tác buôn
bán. Tỷ giá thương mại xác định lợi ích thu được từ thương mại như thế nào. Rõ
ràng, một quốc gia chỉ tham gia thương mại khi tỷ giá thương mại tốt hơn đối
với các cơ hội trong nước Sự chống lại do tự do hóa thương mại phát sinh từ
công nhân và các doanh nghiệp sản xuất cạnh tranh với nhập khẩu,do việc nhập
khẩu sẽ là cho công việc ít đi và thu nhập sản xuất trong nước cũng ít đi.
Hàng rào thương mại có nhiều hình thức: hạn ngạch hạn chế số lượng hàng
hóa xuất khẩu hay nhập khẩu, thuế quan kiềm chế nhập khẩu bằng cách làm
cho mọi thứ đắt đỏ lên, các hàng rào phi thuế quan khác cũng làm cho thương
mại đắt hơn hoặc tốn thời gian hơn.
Các chính sách bảo hộ của chính phủ sẽ tạo ra những tổn thất vô ích cho nền
kinh tế, đặc biệt là hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực cho nền kinh tế.
Chính sách bảo hộ làm cho các doanh nghiệp trong nước không chịu đổi mới,
cải tiến nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó chính sách bảo
hộ cũng mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế như: tăng giá hàng hóa làm hạn
chế tiêu dùng các mặt hàng xa xỉ phẩm, bảo hộ các ngành non trẻ trong nước,
bảo vệ lao động nội địa. Ngoài ra,một quốc gia cần được bảo hộ nhằm đề phòng
các mối quan hệ xấu về chính trị giữa các nước.
SVTH:
Chuyên đề môn học 14
GVHD: Lê Duy Thành
Có 3 loại tỷ giá: tỷ giá thả nổi, tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi có quản lý.
Trong cơ chế tỷ giá cố định, nếu ngân hàng TW muốn tăng tỷ giá thì phải mua
ngoại tệ vào và ngược lại. Tỷ giá hối đoái thay đổi sẽ tác động đến xuất nhập
khẩu hàng hóa, giá hàng hóa trong nước và nợ nước ngoài.
1.7: CHƯƠNG 7: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng thực. Trong đó tăng trưởng
ngắn hạn có thể là do sự gia tăng trong việc sử dụng năng lực sản xuất. Tuy
nhiên, trong dài hạn cần phải có sự gia tăng trong bản thân năng lực. Các thước
đo cơ bản của tăng trưởng kinh tế là GDP, GNP hoặc các chỉ tiêu bình quân đầu
người. Cùng với thời gian, tăng năng suất gắn liền với tăng mức sống.
Tăng trưởng nhanh giúp cho mức sống tăng nhanh nhưng nó cũng tạo ra
những tác động khác có hại cho nền kinh tế chính vì vậy, chúng ta cần cân nhắc
để tiến tới sự tăng trưởng bền vững. Khó khăn của các nước đang phát triển là
vốn đầu tư thấp, dân số tăng nhanh nhưng chất lượng lao động lại kém. Thương
mại quốc tế chủ yếu dựa vao nông nghiệp là chính. Các chính sách của chính
phủ có thể khuyến khích tăng trưởng kinh tế theo nhiều cách: khuyến khích tiết
kiệm, đầu tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy giáo dục, kiểm soát mức
tăng dân số và thúc đẩy nghiên cứu khoa học.
Các nước kém phát triển đều thiếu lao động có tay nghề cao và trình độ
quản lý vốn, công nghệ. Mặc dù tiết kiệm trong nước có thể đáp ứng nhu cầu
đầu tư một vài lĩnh vực nhưng vẫn cần phải có nguồn đầu tư từ nước ngoài. Để
đi tìm một ngành chủ lực để phát triển, các nước phải lựa chọn giữa khuyến
khích xuất khẩu và thị trường trong nước. Xuất khẩu thu được ngoại tệ nhưng
phải đương đầu với nhiều bất ổn. Mặt khác, sản xuất cho thị trường trong nước
có thể dẫn tới chi phí cao và nhu cầu hạn hẹp. tăng trưởng kinh tế chỉ là điều
kiện cần chứ chưa đủ để phát triển kinh tê. Một quốc gia phát triển chậm nhưng
một phần nào đó vẫn có thể cải thiện được tình trạng phát triển thấp bằng các
chính sách xã hội.
SVTH:
Chuyên đề môn học 15
GVHD: Lê Duy Thành
Đánh giá sự phát triển kinh tế được thực hiện theo 3 khía cạnh: tăng trưởng
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu,các yếu tố xã hội khác. Tăng trưởng kinh tế tạo tiền
đề vật chất cho việc thực hiện mục tiêu phát triển. chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
dấu hiệu phản ánh sự biến đổi về chất và các chỉ tiêu xã hội chính là mục tiêu
cuối cùng cần đạt tới.
Các chỉ số xã hội được thể hiện trên các khía cạnh: mức độ đảm bảo nhu
cầu của con người, mức độ nghèo đói và trình độ dân trí.
1.8: TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Chương 1 đã hệ thống hóa một cái nhìn tổng quan về môn học kinh tế vĩ mô,
cụ thể như:
- Hạch toán thu nhập quốc dân
- Lạm phát- thất nghiệp
- Chính sách tài chính
- Tiền tệ ngân hàng và chính sách tiền tệ
- Thương mại quốc tế
- Tăng trưởng kinh tế
Đó là cơ sở giúp cho việc phân tích ở chương 2
SVTH:
Chuyên đề môn học 16
GVHD: Lê Duy Thành
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
QUA
2.1.1: Nguyên nhân dẫn đến lạm phát
Một trong những yếu tố cơ bản để đánh giá sự ổn định của nền kinh tế là vấn
đề lạm phát được tính trên sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng. Theo đánh giá
của cục thống kê
Biểu đồ 2.1: Diễn biến chỉ số giá 10 tháng đầu năm 2011
Nhìn vào biểu đồ ta thấy: Lạm phát của nước ta trong quý I đầu năm nay
tăng rất cao,nhưng từ quý 2 tới nay chỉ số giá đều giảm chỉ tăng nhẹ vào tháng 7.
Điều này chứng tỏ những chính sách tiền tệ với những điều chỉnh khá linh hoạt
của Ngân Hàng nhà nước mà chính phủ áp dụng đã có hiệu quả. Theo dự báo thì
CPI của tháng 11 sẽ tăng tương đương với tháng 10. Lạm phát tăng làm cho đời
sống của người dân gặp khó khăn hơn, các doanh nghiệp thì lâm vào tình trạng
phá sản hoặc đang cố gắng để không phải rơi vào tình trạng phá sản
Trong điều kiện kinh tế thế giới và VN hiện nay, lạm phát tăng nhanh ở VN
có thể giải thích bởi các lý do như:
SVTH:
Chuyên đề môn học 17
GVHD: Lê Duy Thành
Thứ nhất, do leo thang giá cả các mặt hàng tiêu dùng. Sự tăng mạnh nhu
cầu ở các nước đang phát triển nói chung và VN nói riêng trong khi cung ứng
suy giảm do tác động của sự sụt giảm nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, do su thế leo thang của nền kinh tế thế giới và sự mất giá của
đồng USD. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có cán cân
thanh toán và dự trữ phụ thuộc nhiều vào đồng đôla, sự mất giá của USD tác
động trực tiếp đến giá cả nội địa. Thực tế cho thấy , khi giá đôla giảm đã khiễn
cho giá dầu tăng kỷ lục đưa xu thế tăng giá chung ở hầu hết các quốc gia không
có chính sách kìm chế giá.
Thứ ba, do hạn chế nguồn tín dụng sản xuất. Những tháng qua, ngân hàng
nhà nước liên tục thay đổi lãi suất, yêu cầu ngân hàng nhà nước phải mua lại trái
phiếu nhà nước…trên thực tế đây là biện pháp nhằm làm giảm dòng tiền tệ lưu
thông và kiềm chế việc tăng giá. Tuy nhiên, việc làm này có hại nhiều hơn là có
lợi. Lý do là, khi giảm lãi suất, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước sẽ
gia tăng rất khó kiểm soát với tỷ giá hối đoái thả nổi như hiện nay, các ngân
hàng có thể sử dụng để cho vay vốn đầu tư như vậy lượng tiền vẫn tăng nhanh,
lạm phát tăng là điều tất nhiên.
Thứ tư, do trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, phải nhập khẩu từ
nước ngoài, trong đó đáng lưu ý có các mặt hàng mà một nước đi lên từ nông
nghiệp phải nhập khẩu lớn như thủy sản, sữa và sản phẩm sữa, rau quả, ngô, dầu
mỡ động thực vật, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu, cao su, gỗ và nguyên phụ
liệu, đường, thịt; mà một nước có bờ biển dài nhưng phải nhập muối; một nước
có tỷ lệ xuất khẩu/GDP cao, nhưng do tính gia công, lắp ráp cao mà nhập khẩu
nguyên phụ liệu lớn, như nguyên phụ liệu dệt may, giày dép, chất dẻo nguyên
liệu, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; một số loại hàng tiêu dùng có
kim ngạch lớn, như điện thoại các loại và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe máy
nguyên chiếc, hóa mỹ phẩm lên đến mấy tỷ USD
Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối
SVTH:
Chuyên đề môn học 18
GVHD: Lê Duy Thành
cùng, hay đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng
năm, phải nhập siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp.
Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu,
mà còn rất dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng hoảng,
lạm phát ) và có trục trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô ).
Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do
quy mô GDP bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng
tăng lên; nhưng có một phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng
hàng ngoại của một bộ phận dân cư.
Do đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vượt xa so với GDP, nên nhập siêu tăng
lên qua các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 mới gần 9,4 tỷ USD, đã tăng lên trên
19,1 tỷ USD thời kỳ 2001-2005 và tăng lên gần 62,8 tỷ USD thời kỳ 2006-
2010).
Sự ra tăng lạm phát ở VN hiện nay không xuất phát từ việc mất cân đối
trong cấu trúc của nền kinh tế, mà là kết quả của sự suy thoái kinh tế toàn cầu và
sự tăng giá xăng dầu và các mặt hàng lương thực.
2.2: NHẬN XÉT TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT TỚI NỀN KINH TẾ
2.2.1: Tác động của lạm phát tới lĩnh vực sản xuất
Trước áp lực lạm phát, các doanh nghiệp gặp khó khăn toàn diện trên mọi
mặt như: áp lực về giá cả nguyên liệu, tiếp cận nguồn vốn khi nhà nước sắt chặt
tiền tệ, sức mua của người dân giảm. đẩy nhiều doanh nghiệp rơi vào tình cảnh
tồn tại một cách cầm cự, hoặc thực chất “khoảng 30% doanh nghiệp Việt Nam
đóng cửa được rồi”.
2.2.2: Tác động hoạt động của ngân hàng
Lạm phát làm cho việc huy động vốn của ngân hàng gặp nhiều khó khăn.
Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng của mình chạy qua
ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động. Nhưng nâng bao nhiêu là hợp
lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Cuộc chạy đua lãi suất huy động
SVTH:
Chuyên đề môn học 19
GVHD: Lê Duy Thành
của các ngân hàng làm cho lãi suất tăng cao lên tới 17-18% năm, có ngân hàng
đưa lãi suất huy động gần lãi suất tín dụng, kinh doanh lỗ lớn nhưng vẫn phải
thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM. Lạm phát tăng cao,
ngân hàng nhà nước buộc phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để giảm khối
lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá
nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít
khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả,
với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất
cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng,
rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và
ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó
khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với
các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài
hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng
đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra
là điều khó tránh khỏi.
2.2.3: Ảnh hưởng của lạm phát tới đời sống của người dân
Nguyên nhân dẫn tới lạm phát tăng cao là do chỉ số giá tiêu dùng tăng liên
tục. Làm cho đời sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là những
người có thu nhập thấp, những người làm công ăn lương có mức lương cố định,
giá cả tăng cao làm cho chi tiêu trong gia đình tăng lên. Với mức thu nhập hàng
tháng của nhiều người bây giờ không đủ trang trải cho cuộc sống, tuy nhà nước
đã quyết định tăng lương nhưng mức lương tăng không đủ đáp ứng cho mức
tăng giá. Những bà nội chợ sẽ giảm bớt khẩu phần trong mỗi bữa ăn xuống, hạn
chế tối đa việc mua sắm cho gia đình, sinh viên gặp khó khăn trong việc tiêu
dùng hàng ngày và tiền đóng học phí…. Họ không đủ khả năng chi trả cho
những nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống, làm cho người nghèo đã nghèo lại
càng nghèo hơn.
SVTH:
Chuyên đề môn học 20
GVHD: Lê Duy Thành
Lạm phát cũng có tác động khác nhau tới những người tiêu dụng có thu
nhập khác nhau( người có thu nhập cao, người thu nhập thấp) và cách thức chi
tiêu cũng khác nhau. Thay vì những người có thu nhập cao khi không lạm phát
người ta sẽ nghĩ đến việc mua ô tô, đi du lịch, ăn nhà hàng… nhưng trong tình
trạng lạm phát thì người ta lại dốc hết cho ăn uống và một chút cho việc mua
sắm quần áo. Tuy nhà nước có chính sách bình ổn giá nhằm giúp những người
thu nhập thấp giảm bớt gánh nặng trong việc chi tiêu nhưng thực tế điều đó đã đi
ngược, người thu nhập thấp không được hưởng mà những người thu nhập cao lại
được hưởng nhiều hơn.
2.3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KIẾM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT
NAM
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với chủ chương dân
giàu nước mạnh của Đảng và Nhà nước ta đề ra. Thực hiện công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trở thành một nước công nghiệp vào năm
2020, thì vấn đề chống lạm phát và kiềm chế lạm phát ở con số hợp lý luôn là
bài toán khó đối với nhà nước ta. Mặc dù trong những năm trở lại đây các biện
pháp kiềm chế lạm phát luôn được áp dụng một cách khá hiệu quả nhưng nguy
cơ tái lạm phát vẫn ở mức cao. Để kiềm chế và kiểm soát lạm phát có hiệu quả
cần áp dụng đồng bộ các biện pháp như: Đẩy mạnh phát triển sản xuất, giảm chi
phí sản xuất và lưu thông, thực hiện tiết kiệm chi tiêu, tăng nguồn vốn dự trữ,
tạo sự cân đối trong nền kinh tế, Đồng thời phải đẩy mạnh cơ chế quản lý của
nhà nước trong việc kiểm soát thị trường. Vậy để kiềm chế lạm phát cần thực
hiện các giải pháp sau:
Trước mắt, chúng ta nên ổn định giá cả: do sự không công bằng, lo lắng và
những mất mát thực tế do lạm phát gây ra thì đây chính là một biện pháp đúng
đắn. Mục tiêu này giữ cho tỷ lệ lạm phát và mục tiêu việc làm ở một mức độ phù
hợp. Tăng cường giám sát và quản lý việc bình ổn giá cả thị trường nhằm đảm
bảo quyền lợi của người tiêu dùng. Theo dự báo, thị trường hàng hóa các tháng
SVTH:
Chuyên đề môn học 21
GVHD: Lê Duy Thành
còn lại của năm 2011 có thể diễn biến phức tạp, chịu tác động bởi nhiều yếu tố
chủ quan và khách quan, trong đó đáng chú ý là áp lực lạm phát đang nổi lên,
nhất là đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm. Tình hình sản xuất kinh
doanh tiếp tục khó khăn do mặt bằng lãi suất còn cao, chi phí đầu vào cao Dự
kiến tổng mức bán lẻ năm 2011 tăng khoảng 22% so với năm 2010, đạt 1.880
nghìn tỷ đồng.
Để thực hiện mục tiêu khống chế mức tăng giá năm 2011 khoảng 18%, trong
những tháng tới, nhiệm vụ điều tiết cung cầu và bình ổn thị trường giá cả sẽ còn
nặng nề và phức tạp. Vì vậy, Bộ Công thương cho rằng cần triển khai thực hiện
các giải pháp như: Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương
theo dõi sát diễn biến cung cầu hàng hóa, giá cả, thị trường; chủ động và linh
hoạt có các biện pháp điều tiết cung cầu và bình ổn thị trường nhằm bảo đảm
sản xuất, đáp ứng nhu cầu của xã hội, không để xảy ra thiếu hàng, sốt giá, góp
phần kiềm chế lạm phát.
Bên cạnh đó là tiếp tục thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại nội
địa để góp phần bình ổn thị trường; phối hợp với Liên minh Hợp tác xã trong
việc tiêu thụ hàng hóa công nghiệp và nông nghiệp. Tăng cường kiểm soát thị
trường, đảm bảo cung ứng tốt những mặt hàng trọng yếu như xăng dầu, phân
bón, sắt thép, giấy in, xi măng, gạo, dược phẩm ; đồng thời, xử lý nghiêm các
hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá, gian lận thương mại, niêm yết giá và bán
theo giá niêm yết, kiểm soát chặt chẽ chất lượng hàng hóa và vệ sinh an toàn
thực phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Thứ hai, cần áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm lượng tiền giấy
lưu thông trong nền kinh tế như ngừng việc phát hành tiền. Biện pháp này gọi là
đóng băng tiền tệ. Nhà nước không nên phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân
sách, mà cần áp dụng các biện pháp như: phát hành trái phiếu chính phủ, tăng lãi
suất tiền gửi tiết kiệm của người dân nhằm thu hút lượng lớn tiền nhàn rỗi của
dân chúng trong một thời gian ngắn. Kiểm soát chặt chẽ trong việc tăng lãi suất
SVTH: