Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hình thành phát triển ứng dụng lý luận nền kinh tế vĩ mô theo quy trình p4 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.52 KB, 10 trang )

31

tế cao. Vì vậy, để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
dản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế
phát triển bền vững, tất yếu phải bảo toàn và phát triển vốn,
phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
II Thực trạng KH- CN Việt Nam
1.Thành công
KH- CN đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trờng. Đã áp dụng các công nghệ
và phơng pháp nghiên cứu tiên tiến : viễn thám, địa vật lý
vào công tác điều tra, thăm dò tài nguyên thiên nhiên. Nhiều
kết quả nghiên cứu môi trờng đợc đánh giá cao : nghiên
cứu chính sánh và biện pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân
bằng sinh thái và xử lý ô nhiễm nớc, không khí ở các khu
công nghiệp tập trung, các thành phố lớn các biện pháp
trồng rừng, chống suy thái đất, cải tạo đất
KH- CN đã chú ý phát triển các ngành khoa học tự
nhiên và công nghệ cao. Nhiều thành tựu toán học, cơ học,
vất lý của ta đợc đánh giá cả ở nớc ngoài. Công nghệ
thông tin đã phát triển và mở rộng ứng dụng trong hệ thống
32

ngân hàng, quản lý hành chính, sản xuất, kinh doanh. Đồng
thời, công nghệ chế tạo vật hiệu mới, công nghệ sinh học, tự
động hoá đã từng bớc đợc quan tâm. Trong nông nghiệp.
Nhờ áp dụng những tiến bộ KH- CN về giống cây trồng, quy
trình kỹ thuật thâm canh và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ,
chúng ta đã tuyển chọn, lai tạo hàng chục giống lúa mới, phù
hợp các vùng sinh thái khác nhau, tạo mức tăng trởng quan
trọng. Nghiên cứu và tạo nhiều loại giống gia súc, gia cầm,


có giá trị kinh tế cao, thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Hơn 10
năm qua, năng suất lúa bình quân đã tăng hơn 2 lần. Tổng
sản lợng lơng thực 1998 đạt hơn 31 triệu tấn. Nhiều loại
phân vi sinh, thuốc trừ sâu vi sinh, chất kích thích tăng
trởng thực vật đã đợc sử dụng vào sản xuất, bảo vệ, phát
triển các loại cây lơng thực. Cơ cấu cây trồng đã đợc thay
đổi cơ bản. Trớc năm 1989, từ chỗ còn thiếu lơng thực,
Việt Nam đã trở thành nớc xuất khẩu gạo đéng thứ 3 thế
giới, sau Thái Lan, Mỹ.
Về thuỷ sản, nhờ áp dụng kỹ thuật mới, nhiều năm
nay, nuôi ba ba, sinh sản đã thành nghề giàu có ở nông thôn.
Đặc biệt, kỹ thuật nuôi tôm đã đợc ứng dụng khắp nơi, tạo
công ăn việc làm cho 350.000 ng dân ven biển góp phần cải
thiện và tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản, năm
33

1993 đạt 368 triệu USD, 1994 : 551,2 triệu, 1996 : 670 triệu,
1997 : 750 triệu và 2000 : 1000 triệu, tăng kơn 10 lần so với
1980. Việc nuôi trồng hải sản đã có sự đầu t khoa học thích
đáng trong việc tận dụng mặt nớc ao, hồ, nớc biển, nớc
lợ, kết hợp sản xuất nông nghiệp với nuôi tôm cá, phát triển
nuôi trồng với giữ gìn môi trờng, môi sinh, nuôi xen ghép,
quảng canh, chọn giống tốt toàn ngành hiện có 59 cơ sở đủ
tiêu chuẩn sản xuất hàng xuất khẩu
Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến đợc
áp dụng, tạo nhiều sản phẩm chất lợng cao : hàng may mặc,
thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy, điện tử nhất là
trong chế tạo máy móc, thiết bị phụ tùng và đổi mới công
nghệ, kinh doanh sản xuất ô tô, xe máy, nhằm giải quyết
nguyên vật kiệu, thiết bị thay thế. Trong công nghiệp đầu

khí đội ngũ cán bộ khoa học trong nớc, đã có khả năng
tiếp thu và làm chủ công nghệ mới. CN chế biến nông- lâm-
hải sản cũng đợc đẩy mạnh một bớc
Trong lĩnh vực năng lợng, nhiều công trình, nghiên
cứu KH- CN đã tập trung vào công tác quy hoạch, sử dụng
hợp lý các nguồn năng lợng. Đổi mới CN xây dựng các nhà
máy thuỷ điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phơng pháp giảm
34

tổn thất năng lợng trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ
thống năng lợng đã phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn
xã ở khu vực nông thôn, hơn 50% hộ gia đình đã có điện sử
dụng.
Trong giao thông vận tải, KH- CN đã góp phần quan
trọng vào việc nâng cấp và phát triển mạng lới, đờng bộ,
đờng sắt, đờng thuỷ, đờng sông đã xây dựng một số
công trình quan trọng bằng việc áp dụng các CN mới : đóng
tàu biển trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân
bay Tân Sơn Nhất, thắng thầu nhiều công trình giao thông ở
Lào, Campuchia với việc áp dụng CN mới trong gia cố nền
móng và thi công mặt đờng.
Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng thông tin hiện đại bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông
tin vệ tinh, cáp sợi quang đủ mạnh để hoà nhập mạng
thông tin quốc tế và khu vực. Viễn thông nớc ta hiện đợc
xếp vào một trong những nớc có tốc độ phát triển nhanh
nhất thế giới. Bên cạnh mạng lới hữu tuyến điện phát triển
rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa dạng, các hệ thống
thông tin di động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển
mạnh, đợc các tổ chức kinh tế, cơ quan trong và ngoài nớc

35

sử dụng. Thị trờng tin học nớc ta những năm qua, có tốc
độ tăng trởng trung bình hằng năm khoảng 40-50%. Hiện
các cơ quan Đảng, chính phủ đang sử dụng hàng vạn chiếc
máy vi tính, trong đó lu giữ nhiều thông tin, số liệu bí mật
quan trọng. Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh
quốc gia. Trên đà ấy, việc sử dụng máy vi tính ở nớc ta bắt
đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang hình thức sử
dụng mạng cục bộ và mạng diện rộng
Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức
khoẻ ban đầu, miễn dịch học, cắt giảm, tỷ lệ mắc các chứng
bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà, bại liệt, sởi
Kết hợp y học truyển thống với y học hiện đại, sản xuất
nhiều mặt hàng thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng và
chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm : viêm gan,
viêm não Nhật Bản
Đến nay nớc ta đã có đội ngũ cán bộ KH- CN hơn
800.000 ngời trình độ đại hoc, 8.775 phó tiến sĩ- tiến sĩ,
gần 3.000 giáo s- phó giáo s, hơn 45.000 cán bộ nghiên
cứu triển khai thuộc hơn 300 viện nghiên cứu- trung tâm và
hơn 20.000 nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy
trong 105 trờng đại học, cao đẳng, hơn 80 cơ sở đào tạo sau
36

đại học. Đây thực sự là một vốn quý cho sự nghiệp CNH,
HĐH, đợc đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau .
2.Hạn chế
a.Đầu t cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp
Việt Nam cha có chính sách khoa học dông nghệ

nhất quán thể hiện bằng hệ thống pháp luật nh các quốc gia
khác. Thời gian qua Đảng và Nhà nớc đã có nhiều cố gắng
tạo nguồn tài chính để đầu t cho khoa học và công nghệ
nhng cha thể đáp ứng đợc nhu cầu phát triển. Theo số
liệu thống kê từ năm 1965 đến nay, mức đầu t tài chính từ
ngân sách nhà nớc dành cho hoạt đông nghiên cứu và triển
khai chiếm từ 0,2% đến 0,82% thu nhập quốc dân. Trong 10
năm đổi mới, nớc ta đạt đợc những thành tựu kinh tế đáng
mừng, tổng kinh phí đầu t cho khoa học và công nghệ đợc
nâng lên dần, nhng do giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị
thực tế của vốn đầu t không tăng. Theo số liệu của Bộ KH-
CN và môi trờng thì đầu t tài chính cho kha học công nghệ
cha vợt quá 1% ngân sách tiêu dùng hằng năm. Chi phí
bình quân hằng năm cho một cán bộ khoa học công nghệ từ
ngân sách nhà nớc khoảng 1.000 USD, rất thấp so với mức
37

bình quân của thế giới hiện là 55.324 USD và kếm các nớc
trong khu vực châu á . Mức đầu t thấp nhng lại phân tán
và không ít trờng hợp sử dụng lãng phí. Tuy Đảng và Nhà
nớc đã có nhiều chủ trơng, nghị quyết sáng suốt, nhấn
mạnh vai trò của khoa học công nghệ và coi trọng nó không
kém gì các quốc gia khác trên thế giới, nhng mức đầu t
cho khoa học vẫn rất thấp. Có 2 khả năng lý giải tình hình
trên. Thứ nhất, nếu huy động gấp đôi vốn cho nghiên cứu
khoa học và công nghệ thì việc nghiên cứu khoa học có
mang lại hiệu quả thiết thực hay không trong khi trình độ
quản lý khoa học hiện tại còn yếu kém. Thứ hai, ngân sách
nhà nớc trong nhiều năm thâm hụt, phải bảo đảm chi cho
nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu t kinh phí cho

khoa học nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của ngời
lãnh đạo và các cơ quan quản lý của Nhà nớc. Rốt cục quy
định trong các văn bản và chỉ thị của Đảng dành 2% ngân
sách hằng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ vẫn
không thực hiện đợc.
Với mức đầu t nh vậy nên chỗ làm việc chật chội,
thiết bị lạc hậu, phòng thí nghiệm và cụng cụ thí nghiệm
thiếu cơ quan khoa học và công nghệ chỉ có thể hoạt động
cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trớc mắt mà không
38

thể tạo ra đợc thành quả khoa học có tầm chiến lợc. Nếu
không có các chính sách điều chỉnh, các cơ quan nghiên cứu
khoa học chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ
cán bộ nghiên cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những công
việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết.
b.Lực lợng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu
Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ
chủ yếu thuộc trung ơng cho thấy : trong số 22.313 cán bộ
công nhân viên thì số ngời có trình độ trên đại học là 2.509
ngời, cao đẳng và đại học 11.447 ngời và dới cao đẳng là
8.357
Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ
chỉ có 15,1% là nữ, cũng trong số các cán bộ có trình độ học
vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các chức vụ lãnh đạo.
So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành còn thiếu
lực lợng lao động có trình độ khoa học- kỹ thuật. Trớc
tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn đầu t nớc ngoài,
công ty t nhân đã thu hút số lợng đáng kể lao động có
trình độ chuyên môn cao từ các cơ quan khoa học công nghệ

39

của nhà nớc. ở tất cả các đối tợng lao động, số trờng hợp
ra đi nhiều hơn số trờng hợp đến, đặc biệt với số cán bộ
khoa học có học vị cao, số ra đi vợt hẳn số đến.
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học
hàm khá cao. Bình quân chung là 57,2 tuổi trong đó giáo s
là 59,5 tuổi và phó giáp s là 56,4 tuổi. Số cán bộ cán học vị,
học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 56
trở lên là 65,7%, riêng giáo s chiếm tới 77,4% và phó giáo
s chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa tuổi các cán bộ khoa
học công nghệ có học hàm thì phần đông giáo s có tuổi trên
60 và phó giáo s có tuổi từ 56 đến 60. Khi một bộ phận lớn
các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không có
khả năng làm việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại cha
đợc chuẩn bị bồi dỡng đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ
khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tơng lai rất
gần.
c.Sự phân bố lực lợng lao động khoa học không hợp lý
Có thể nói sự phân bố lực lợng lao động mất cân đối
giữa các ngành, các khu vực giữa các vùng, giữa các thành
phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho quá trình phát triển,
40

càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các
vùng, các ngành.
Một điều mà nhiều ngời nhìn thấy rất rõ là trong
nhiều năm, đặc biệt sau khi chuyển sang kinh tế thị trờng
thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và dờng nh
đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả

của nó sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm
trọng. Khoa học công nghệ là một hệ thống, cũng nh một
nền kinh tế nếu không có hạ tầng cơ sở tốt thì không thể phát
triển đợc. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những ngành
ứng dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ
đa khoa học đến chỗ bế tắc và không có đủ năng lực tiếp
thu làm chủ các lĩnh vực khoa học công nghệ mới.
d. Những bất cập giữa KH- CN và hoạt động kinh tế ở
VN
Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học
công nghệ và hoạt động kinh tế là cơ sở quan trọng bảo đảm
cho sự phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, ở VN hiện
nay giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế
lại bộc lộ những bất cập rõ rệt

×