Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hình thành phát triển ứng dụng lý luận nền kinh tế vĩ mô theo quy trình p5 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.55 KB, 10 trang )

41

1. Mặc dù tồn tại số lợng đáng kể các cơ quan nghiên
cứu khoa học công nghệ và dới nhiều dạng thực phong phú,
nhng các viện nghiên cứu, các trờng đại học thờng mạng
nặng tính hàn lâm và ít gắn bó hữu ích với các tổ chức kinh
tế. Ngoài mối quan hệ lỏng lẻo giữa cơ quan nghiên cứu và
các đơn vị kinh tế còn một khía cạnh nữa là bản thân hệ
thống cơ quan nghiên cứu vẫn thiếu phơng pháp luận tiếp
cận có hiệu quả tới hệ thống kinh tế. ở đây đòi hỏi sự hợp
tác, trao đổi qua lại nhiều vòng giữa các nhà khoa học và đại
diện của các khu vực sản xuất. Các hãng luôn đợc coi nh
nhân vật trung tâm của đổi mới khoa học công nghệ Đáng
tiếc phơng pháp này còn xa lạ đối với VN.
Thiếu những định hớng rõ ràng, cụ thể đã làm cho
các chơng trình nghiên cứu khoa học công nghệ trở nên kéo
hiệu quả
2. Cơ cấu của đội ngũ hoạt động khoa học công nghệ
hiện mất cân đối đáng kể so với cơ cấu nền kinh tế. Trong
các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, việc khắc phục khoảng
trống bằng cách chuyển các nhà nghiên cứu khoa học cơ bản
sang cũng cha đáp ứng đợc yêu cầu đòi hỏi tối thiểu.
42

Mặt khác, sự phân bố của lực lợng khoa học công
nghệ không sát với địa bản hoạt động kinh tế. Trên thực tế,
có nhiều vùng kinh tế còn nh vùng trắng của hoạt động
khoa học công nghệ
3.Thực tế đổi mới vừa qua đã xuất hiện một nghịch lý
và mở của mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế thì nó lại
làm cho vị thế của các nhà khoa học trong nớc giảm xuống


tơng đối. Một bộ phận không nhỏ đội ngũ các nhà khoa học
công nghệ buộc phải làm thêm nghề khác hoặc đổi hẳn
nghề.
Sự lão hoá của đội ngũ khoa học cũng lý giải một
phần cho hiện tợng này. Tuổi trung bình của cán bộ khoa
học công nghệ làm việc ở các viện nghiên cứu là 45- 46 tuổi,
tuổi trung bình của cán bộ nghiên cứu có trình độ cao vào
khoảng 55 và 60 có thể do nhiều lý do, trong đó một lý do
quan trọng là : coi giai đoạn hiện nay nh là quá độ chuyển
đổi từ mô hình nghiên cứu khoa học công nghệ kiểu cũ sang
mô hình nghiên cứu kiểu mới. Đối với lớp trẻ, hình mẫu các
nhà nghiên cứu thế hệ trớc không còn mấy hấp dẫn, họ
đang tìm kiếm những con đờng khác, những phơng thức
hoạt động khoa học khác
43

4. Chúng ta từng hy vọng có thể thông qua hoạt động
đầu t nớc ngoài vào VN để nhận đợc những công nghệ
cần thiết tiến hành CNH, HĐH. Tuy nhiên thực tế diễn ra
không nh mong muốn. Trớc hết, luồng đầu t nớc ngoài
đang có xu hớng chững lại sẽ hạn chế khuôn khổ chuyển
giao công nghệ. Thứ hai, cơ cấu đầu t với 18,7% vào khách
sạn dụ lịch là một nhân tố góp phần hạn chế quy mô
chuyển giao công nghệ tiên tiến. Thứ ba, ngay trong bản
thân lĩnh vực công nghiệp, các chủ đầu t nớc ngoài dờng
nh chẳng hề sốt sắng du nhập các công nghệ tiên tiến vào
VN, thay vào đó, họ chú ý nhiều đến các công nghệ thế hệ
cũ cho phép thu lại lợi nhuận tức thì từ lao động rẻ, môi
trờng đầu t dễ dãi và miền đất đầu t mới mẻ.
3. Nguyên nhân của những thực trạng ấy

Do tỷ lệ cán bộ KH- CN trong các doanh nghiệp còn
thấp ; cấu trúc và phân bố đội ngũ cha hợp lý ; số cán bộ
đợc đào tạo về các ngành KH và KT chỉ chiếm 15,4% trong
tổng số đội ngũ cán bộ KH- CN ; sự phân bố cán bộ KH- CN
theo vùng lãnh thổ còn mất cân đối lớn. Đội ngũ cán bộ KH
đông nhng cha mạnh
44

Chất lợng đào tạo cán bộ KH- CN thấp. Về trình độ,
cha cập nhật CN và tri thức hiện đại của thế giới, bị hổng
nhiều về CN cao, quản tri kinh doanh, tiếp thị, ngoại ngữ
Đội ngũ cán bộ KH- CN nớc ta có tiềm năng trí tuệ đáng
kể, tiếp thu nhanh tri thức mới, nhng còn thiếu tính liên kết
cộng đồng, khó hợp tác giữa cơ quan và cá nhân, thiếu cán
bộ đầu đàn có khả năng tổ chức và thực hiện những chơng
trình nghiên cứu mang tính đột phá cao. Lực lợng chuyên
gia giỏi ở các ngành hiện nay rất mỏng, phần lớn chỉ nắm lý
thuyết, thiếu thực hành. Trớc sức hấp dẫn của các doanh
nghiệp và các cơ sở liên doanh với nớc ngoài, đa số hệ
thống cơ quan nghiên cứu- triển khai không giữ đợc đội
ngũ cán bộ trẻ, có năng lực. Nhiều cán bộ KH- CN có kinh
nghiệm và trình độ, bỏ chuyên môn làm dịch vụ. Chính sách
đối với cán bộ KH- CN chậm đổi mới, nên không khuyến
khích đội ngũ cán bộ làm KH phát huy hết khả năng của
mình trong nghiên cứu. Việc tổ chức sắp xếp lại các cơ quan
KH- CN triển khai chậm.
Có sự mất cân đối lớn trong phân bố theo vùng lãnh
thổ mạng lới các cơ quan nghiên cứu- triển khai. Nhiều cơ
quan nghiên cứu có chức năng trùng lắp, không đồng bộ.
Việc sắp xếp và đầu t cho các cơ quan này không theo các

45

hớng u tiên trọng điểm. Cơ sở vật chất của cơ quan nghiên
cứu- triển khai các trờng đại học, nghèo nàn, lạc hậu : phần
lớn đợc xây dựng và trang bị đã trên 30 năm trình độ thiếu
bị thua kém ngay cả các cơ sở doanh nghiệp trong nớc.
Đầu t tài chính cho KH- CN từ ngân sách, nhà nớc
ở nớc ta, hiện còn thấp. Do vậy, nền khoa học của ta chỉ
giải quyết những vấn đề trớc mắt, cha tạo đợc kết quả
KH lớn, tầm cỡ chiến lợc. Việc sử dụng tài chính cho KH-
CN hiện nay với một cơ chế thờng thúc ép chúng ta rơi vào
thế phả chi, chia bị động,. Số chơng trình và đề tà cấp nhà
nớc, cấp bộ còn nhiều và dàn trải so với khả năng kinh phí
hiện có. Nguồn ngoại tệ viện trợ không điều chỉnh đợc
trong phạm vi quản lý nguồn vốn KH- CN, nên hiệu quả còn
thấp. Việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà
nớc cho hoạt động nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, cha
có cơ chế và chính sách đồng bộ để khuyến khích các doanh
nghiệp, các tổ chức t nhân tự nguyện đầu t. Nhiều cơ quan
nghiên cứu- triển khai, hoạt đông KH- CN còn dựa chủ yếu
vào ngân sách Nhà nớc. Thực tế trên đã dẫn đến một nghịch
lý: vốn cho KH-CN gần nh duy nhất từ nhà nớc lại bị phân
chia dàn trải.Trong khi đó, một số lĩnh vực cần đầu t thích
đáng :giáo dục y tế bảo vệ môi trờng hoặc những hớng
46

nghiên cứu triển khách quan trọng mang ý nghĩa chiến lợc
lại bị hạn chế do thiếu vốn .Việc thực hiện một phần vốn
trong tổng giá trị dự án đầu t cho công tác nghiên cứu triển
khai vẫn cha đợc thực hiện, do nghiên cứu khoa học công

nghệ cha đợc coi là một nội dung chỉ trong cơ chế quản lý
đầu t.Vai trò của khoa học công nghệ cha thể hiện bằng
biện pháp cụ thể về mức đầu t tài chính,chế độ cán bộ, cha
tạo lập đợc hệ thống chính sách thích hợp để thúc đẩy các
nhà hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ phảI dựa trên
KH- CN và hớng theo nhu cầu của sự phát triển kinh tế- xã
hội.
Sau khi đợc chuyển thành cơ quan quản lý nhà nớc
về các hoạt động KH- CN, Bộ KH- CN và môI trờng đã
từng bớc phát huy vai trò quản lý nhà nớc trong việc giám
sát, kiểm tra các hoạt động KH- CN, quản lý nhà nớc về
chuyển giao CN, trình độ CN trong sản xuất và bảo vệ môi
trờng. Tuy nhiên, công tác quản lý cha thể hiện đợc tính
đồng bộ, cha gắn kết chặt chẽ với quản lý kinh tế và xã hội,
cha tạo lập thị trờng rộng rãi cho KH- CN. Nhiều công
trình KH khi áp dụng vào sản xuất, còn gặp trở ngại. Bởi sản
xuất cha thực sự có nhu cầu KH. Cạnh đó, nhiều viện
nghiên cứu có khả năng đáp ứng nhu cầu của sản xuất, lại
47

không có đơn đặt hàng. Hiện tợng tách rời gữa KH và sản
xuất còn phổ biến.
Thành tựu KH, các tiến bộ CN, cha đợc áp dụng
rộng rãi nên cha tạo chuyển biến rõ nét về năng suất, chất
lợng, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Cha
tạo đợc những ngành nghề mới xuất phát từ kết quả của
hoạt động KH- CN. Thị trờng cho KH- CN cha đợc hình
thành. Trình độ CN nói chung còn ở mức thấp. Trong các
ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị hiện tại lạc
hậu so với thế giới và hình thành từ nhiều nguồn chắp vá.

Mẫu mã hàng hoá đơn điệu, chất lợng sản phẩm thấp, khả
năng cạnh tranh, xuất khẩu kém. Quy mô dự án còn nhỏ,
cha tơng xứng với tầm nhiệm vụ cấp nhà nớc, phần lớn
chỉ dừng ở quy mô ngành, địa phơng, hoặc cấp cơ sở, ít có
tác dụng thúc đẩu sản xuất.
Công tác quản lý KH- CN tuy đã đợc đổi mới,
nhng cha đồng bộ và hoàn chỉnh. Cơ chế quản lý các
chơng trình trọng đIúm cấp nhà nớc còn nhiều thủ tục
rờm ràc không chặt chẽ, cha bảo đảm tập trung các nguồn
lực vào những mục tiêu chủ yếu. Cơ chế chính sách hiện
hành không khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp tiến
48

hành nghiên cứu triển khai hoặc có chiến lợc lâu dàI về đổi
mới CN, đổi mới sản phẩm.

iii Một số giảI pháp
Trớc hết, chúng ta cần đặt lên hàng đầu tính hiệu
quả trong công tác nghiên cứu khoa học, phát triển cân đối
cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, nhng hiện
nay cần u tiên tập trung hơn đến nghiên cứu ứng dụng. Mọi
phơng pháp dù mới, dù cũ, nhng nếu nó hớng khoa học
vào phục vụ sản xuất, hiện đạI hó nền kinh tế, nâng cao năng
suất lao động và chất lợng sản phẩm, đối với chung ta lúc
này đều là phơng pháp tốt để phát triển khoa học. Cả hai
lĩnh vực này đều phảI nhằm hớng vào giảI quuết những đòi
hỏi cấp bách của sản xuất, kết hợp chặt chẽ với sản xuất.
Mặt khác cần đề phòng tác dụng tiêu cực của việc ứng dụng
khoa học vào sản xuất chạy theo lợi nhuận quá đáng đến
mức gây ô nhiễm môi trờng và làm cạn kiệt tài nguyên

thiên nhiên Khoa học có tính độc lập tơng đối trong sự
phát triển của nó, luôn đợc tích luỹ, có tính kế thừa, đợc
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ nớc này qua nớc
49

khác. Nhờ thế một nớc lạc hậu đI sau có thể đuổi kịp các
nớc phát triển nếu có những chính sách khôn ngoan, biết
tiếp thu thành tựu khoa học của nớc khác và biết vận dụng
phù hợp với điều kiện nớc mình. Chúng ta cần biết tranh
thủ tiếp thu những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công
nghệ hiện đại của các nớc phát triển bằng mọi cách có thể
đợc, nếu việc làm ấy có hiệu quả cao hơn, dỡ tốn kém hơn
đầu t nghiên cứu trong nớc.
Các ngành mũi nhọn nh đIửn tử tin học và các công
nghệ cao cấp cần đợc tập trung u tiên phát triển hơn cả. Vì
chính những ngành đó sẽ kéo toàn bộ nền kinh tế tiến tới
trình độ hiện đại, tự động hoá một cách nhanh chóng.
Mục tiêu lâu dài của chúng ta là tiến tới độc lập, tự
chủ về khoa về học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nhng
trong giai đoạn trớc mắt cũng nên đi bắt chớc, mô phỏng,
làm thủ để rồi rút kinh nghiệm tiến tới cải tiến và phát minh
công nghệ mới.
Đồng thời chúng ta cần phải tạo vốn cho hoạt động
KH- CN. Vốn là nguồn lực để phát triển khoa học công
nghệ. Không có vốn hoặc có nhng thấp hơn mức cần thiết
50

đều không có điều kiện thực hiện các mục tiêu KH- CN.
Kinh nghiệm ở các nớc cho thấy, vốn để phát triển khoa
học- công nghệ thờng đợc huy động từ hai phía nhà nớc

và khu vực doanh nghiệp, trong đó phần nhiều là từ các
doanh nghiệp.
TạI Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng lần thứ hai
(khóa VIII), khi một lần nữa khẳng định công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc phải bằng và dựa vào khoa học, công
nghệ , Đảng ta đã đa ra chính sách đầu t khuyến khích,
hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ, theo đó, một phần
vốn ở các doanh nghiệp đợc dành cho nghiên cứu, đổi mới
công nghệ và đào tạo nhân lực. Một phần vốn từ các chơng
trình kinh tế- xã hội và dự án đợc dành để đàu t cho khoa
học- công nghệ nhằm đẩy mạnh việc nghiên cứu- triển khai
và đảm bảo hiệu quả của dự án.
Tạo động lực, tạo vốn cho hoạt động khoa học- công
nghệ phải đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế về khoa học,
công nghệ.
Có thể nói, đây là điều kiện rất quan trọng để phát
triển khoa học- công nghệ. Nếu không thực hiện có hiệu quả

×