69
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 67, 2011
TÌNH HÌNH NHIỄM KÝ SINH TRÙNG TRÊN ĐÀN CỪU NUÔI
TẠI TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VẬT NUÔI THỦY AN
VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THUỐC TẨY TRỪ
Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Xuân Bả
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
Bùi Văn Lợi , Đại học Huế
TÓM TẮT
Chẩn đoán lâm sàng và xét nghiệm 56 mẫu phân của 14 cừu Phan Rang nuôi thử
nghiệm ở Trung tâm nghiên cứu vật nuôi Thủy An, trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
nhằm xác định thành phần loài kí sinh, tỷ lệ, cường độ nhiễm và đánh giá hiệu lực một số loại
thuốc tẩy ký sinh trùng. Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng ở cừu là 100% gồm
có 6 loài thuộc ba lớp Trematoda (sán lá), Nematoda (giun tròn), Protozoa (đơn bào), không có
ký sinh trùng thuộc lớp Cestoda (sán dây). Có 100% cừu nhiễm ký sinh trùng thuộc lớp
Nematoda và Protozoa, 85,71% cừu nhiễm ký sinh trùng thuộc lớp Trematoda. Có 80% cừu bị
nhiễm Strongyloides sp. ở mức độ (+), 37,50% cừu nhiễm Trichocephalus sp. ở mức độ (++) và
42,86% cừu nhiễm Trichostrongylidae ở mức độ nhiễm (+++). Sử dụng thuốc Nitroxinyl để tẩy
Trematoda có hiệu lực cao hơn so với Albendazol (75% so với 50%). Đối với Nematoda thì hiệu
quả tẩy của thuốc Albendazol (33,33%) cao hơn Levamisol HCl (25%).
Từ khóa: cừu, kí sinh trùng, tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm, hiệu quả điều trị.
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây đàn cừu trong cả nước có xu hướng tăng về số lượng.
Tổng đàn cừu cả nước tăng từ 4.000 con (năm 1976) lên 56.827 con năm 2004, nhiều
nhất ở Ninh Thuận (42.000 con) [1]. Gần đây, do sự bùng phát dịch bệnh ở nhiều vật
nuôi phổ biến như trâu bò, lợn, gia cầm nên cừu và một số giống gia súc khác như dê,
thỏ… được người chăn nuôi quan tâm lựa chọn. Thời gian qua đã có nhiều địa phương
(Tây Nguyên, Hà Nội ) nhập và nuôi khảo nghiệm giống cừu Phan Rang bước đầu cho
kết quả tốt [2]. Trung tâm Nghiên cứu vật nuôi Thủy An, trường Đại học Nông Lâm,
Đại học Huế đã nhập đàn cừu Phan Rang với số lượng ban đầu là 21 con (6 con đực
sinh sản; 11 con cái sinh sản và 4 cừu con theo mẹ) vào tháng 2 năm 2009, với mục tiêu
đánh giá khả năng thích nghi của giống cừu này trong điều kiện nóng ẩm cao và giới
thiệu giống vật nuôi mới làm đa dạng vật nuôi trong vùng. Sau 1 tháng nuôi thử nghiệm
đã có 7 con cừu bị chết. Kết quả mổ khám cho biết, nguyên nhân chính là do cừu nhiễm
ký sinh trùng ở mức độ rất nặng và stress do vận chuyển. Xuất phát từ vấn đề trên
70
chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu: (1) Xác định thành phần loài kí sinh trên
cừu nuôi tại Trung tâm nghiên cứu vật nuôi Thủy An; (2) Xác định tỷ lệ và cường độ
nhiễm ký sinh trùng trên đàn cừu; (3) Đánh giá hiệu lực một số loại thuốc tẩy.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 56 mẫu phân của cừu Phan Rang nuôi tại Trung
tâm Nghiên cứu Vật nuôi Thủy An, trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế. Cừu được
nuôi trong từng ô chuồng riêng lẻ, sàn chuồng cao hơn mặt đất 30 cm. Mặt sàn có các
khe hở để cho phân rơi xuống đất. Hàng ngày cừu được cung cấp đầy đủ thức ăn và
nước uống. Thức ăn cho cừu là cỏ tự nhiên, cỏ voi, lá cây được thu cắt xung quanh
thành phố Huế và sử dụng cho ăn tươi.
Các loại thuốc được sử dụng để tẩy ký sinh trùng là Levamisol HCl 1 mg/1 kg P
(Levamisol, Cty TNHH Minh Huy), Albendazol 12 mg/1kg P (Han-Dertil-B, Hanvet),
Nitroxinil 10 mg/kg P (Fasciolid, Vinavetco). Levamisol và Nitroxinyl được đưa vào cơ
thể cừu bằng đường tiêm bắp thịt; Albendazol được đưa vào bằng đường uống.
2.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Xác định thành phần loài ký sinh ở đường tiêu hóa, tỉ lệ và cường độ
nhiễm trên đàn cừu
Mẫu phân của cừu được thu theo từng cá thể vào buổi sáng sớm. Phân được lấy
trong trực tràng hoặc ltrên nền chuồng (trước khi thu mẫu, nền chuồng và xung quanh
chuồng được quét dọn sạch sẽ vào buổi chiều của ngày hôm trước để tránh thu mẫu cũ).
Mỗi mẫu phân lấy khoảng 20g cho vào túi nilon, bên ngoài có ghi số hiệu của mẫu, tính
biệt và các thông tin khác được ghi trong sổ số liệu thô. Những cừu này không được sử
dụng bất kỳ loại thuốc điều trị giun sán nào trong vòng 2 tháng trước khi tiến hành
nghiên cứu. Tất cả cừu được xác định trọng lượng và kiểm tra phân trong cùng một thời
điểm.
Mẫu phân được bảo quản lạnh trong bình đựng mẫu đưa về phòng thí nghiệm và
tiến hành kiểm tra xét nghiệm tại phòng thí nghiệm Ký sinh trùng thuộc Khoa Chăn
nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế về thành phần các loài ký sinh
trùng, tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm.
- Xác định thành phần các loài ký sinh trùng dựa trên phương pháp lắng cặn
Benedek (1943) [3].
+ Nguyên lý: lợi dụng sự chênh lệch tỷ trọng giữa trứng giun sán và tỷ trọng của
nước lã, khi để lắng cặn trứng giun sán có tỷ trọng lớn hơn tỷ trọng của nước sẽ lắng
xuống đáy.
71
+ Cách tiến hành: lấy 5 - 10 gram phân cho vào cốc sạch rồi cho một ít nước lã
sạch vào dùng đũa thủy tinh khuấy đều cho tan rồi lọc qua rây, cho nước lọc vào cốc
tam giác. Sau đó lấy rây lọc ra rồi đổ nước vào cho đến vạch 500 ml, để lắng 20 – 30
phút. Tiến hành gạn bỏ phần nước ở trên bề mặt và làm lại 3 - 5 lần đến khi nước trong.
Tiếp theo, lấy cặn cho vào hộp lồng. Dùng pi pét hút 1 giọt xanh methylen nhỏ vào hộp
lồng. Cuối cùng, dùng ống hút lấy cặn trong hộp lồng làm tiêu bản, sau đó đưa lên kính
hiển vi để soi.
- Phương pháp phù nổi của Fulleborn [4].
- Xác định cường độ và tỷ lệ nhiễm bằng phương pháp đếm trứng theo Stoll
(1926) [7]. Sử dụng để tính số lượng trứng trong 1 gam phân.
+ Cách tiến hành: lấy 4 gam phân của gia súc cần xét nghiệm bỏ vào trong cốc
đong 100ml. Rót dung dịch NaOH 0,1 N vào sao cho phân + dung dịch = 60 ml. Tiến
hành làm tan phân. Bỏ 10 – 15 viên bi thủy tinh vào cốc đựng phân lắc đều trong vòng 3
– 5 phút để làm tan phân. Tiếp theo dùng ống hút chia độ hút 0,15 ml dung dịch làm tiêu
bản. Sau đó, đọc kết quả (chú ý phải đọc hết số tiêu bản làm từ 0,15 ml dung dịch). Cuối
cùng, tính toán số liệu (gọi X là số trứng có trong 0,15 ml dung dịch thì số trứng trong 1
gam phân là 100 x X)
Cách tính toán kết quả như sau: dựa vào số trứng trên 1 gam phân (eggs per
gram (E.P.G)):
E.P.G
Cường độ
nhiễm
Sán lá gan
Sán lá dạ cỏ
Giun tròn
Cầu trùng
+
≤ 200
≤ 400
≤ 400
≤ 1000
++
200 - ≤ 500
400 - ≤ 1000
400 - ≤ 1000
1000 - ≤ 3000
+++
> 500
>1000
>1000
>3000
2.2.2. Đánh giá kết quả điều trị của 3 loại thuốc điều trị ký sinh trùng
Chúng tôi tiến hành chia các cừu thành 3 nhóm để đánh giá hiệu quả của thuốc tẩy:
- Nhóm 1: Sử dụng thuốc Levamisol HCl: cho 4 cừu nhiễm giun tròn
- Nhóm 2: Sử dụng thuốc Albendazol: trên 6 cừu nhiễm sán lá gan, sán lá dạ cỏ
và giun tròn
- Nhóm 3: Sử dụng Nitroxinyl: trên 4 cừu nhiễm sán lá gan, sán lá dạ cỏ và giun
tròn.
72
So sánh hiệu quả điều trị sán lá của Albendazol với hiệu quả điều trị sán lá của
Nitroxinyl.
So sánh hiệu quả điều trị giun tròn của Levamisol với Albendazol và Nitroxinyl
(do Albendazol và Nitroxinyl vừa có tác dụng tẩy sán lá vừa có tác dụng tẩy giun tròn).
Trước và sau khi điều trị mẫu phân của các cừu cũng được thu thập theo quy
trình trên và mẫu phân lần 2, 3, 4 và 5 được thu vào các thời điểm sau 24 giờ, 5 ngày, 10
ngày và 15 ngày kể từ khi tiêm thuốc điều trị.
Xác định hiệu quả của các loại thuốc tẩy bằng phương pháp Stoll (1926) kiểm
tra số lượng trứng trong phân trước và sau khi tẩy, từ đó đánh giá hiệu quả của thuốc
điều trị. Mẫu sạch mầm bệnh là những mẫu có ít hơn 30 trứng /1 gam phân (E.P.G < 30)
[6].
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Thành phần, tỷ lệ và cường độ nhiễm các loài ký sinh trùng trên cừu
Kết quả đánh giá thành phần các loại ký sinh trùng, tỷ lệ nhiễm và cường độ
nhiễm trên đàn cừu Phan Rang sau 3 tháng nuôi thích nghi tại Trung tâm nghiên cứu vật
nuôi Thủy An được trình bày trên bảng 1 và 2.
Bảng 1. Thành phần các loài ký sinh trùng trong đường tiêu hóa của đàn cừu
Số hiệu cừu
Loại ký
sinh trùng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
Trichostrongylidae*
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
Strongyloides sp.
-
+
-
+
-
-
+
+
-
-
-
-
+
-
Trichocephalus sp.
+
-
+
-
+
+
-
+
-
+
+
-
-
+
Fasciola sp.
-
-
+
-
-
-
-
-
-
+
+
+
-
+
Paramphistomum sp.
-
+
+
+
+
+
+
+
+
-
+
+
+
+
Eimeria sp.
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
* Trychostrongylidae: Haemonchus sp., Mecistocirrus sp., Nematodirus sp.,
Trichostrongylus sp
Qua bảng 1 cho thấy: cừu nuôi ở Trung tâm nghiên cứu vật nuôi Thủy An nhiễm
ký sinh trùng thuộc ba lớp Trematoda (sán lá) (Fasciola sp., Paramphistomum sp.),
Nematoda (giun tròn) (Trichostrongylidae*, Strongyloides sp., Trichocephalus sp.),
Protozoa (đơn bào) (Eimeria sp.), không có ký sinh trùng thuộc lớp Cestoda (sán dây).
Trong đó 100% cừu nhiễm ký sinh trùng thuộc lớp Nematoda và Protozoa, 85,71% cừu
73
nhiễm ký sinh trùng thuộc lớp Trematoda.
Trong 14 cừu kiểm tra có 2 cừu nhiễm 3 loại ký sinh trùng chiếm tỷ lệ 14,3%; 8
cừu nhiễm 4 loại ký sinh trùng chiếm tỷ lệ 57,1% và 4 cừu nhiễm 5 loại ký sinh trùng
chiếm tỷ lệ 28,6%. Như vậy, mỗi cừu không nhiễm đơn lẻ từng ký sinh trùng mà nhiễm
hỗn hợp nhiều loại ký sinh trùng khác nhau.
Bảng 2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ký sinh trùng trong đường tiêu hóa của đàn cừu
Tên giun sán
Số
mẫu
kiểm
tra
(n)
Số
mẫu
nhiễm
(+)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cường độ nhiễm
+
++
+++
Sl
TL(%)
Sl
TL(%)
Sl
TL(%)
Trichostrongylidae
56
56
100,00
16
28,57
16
28,57
24
42,86
Strongyloides sp.
56
20
35,71
16
80,00
4
20,00
0
0,00
Trichocephalus sp.
56
32
57,14
20
62,50
12
37,50
0
0,00
Fasciola sp.
56
20
35,71
12
60,00
4
20,00
4
20,00
Paramphistomum
sp.
56
48
85,71
28
58,34
16
33,33
4
8,33
Eimeria sp.
56
56
100,00
24
42,86
20
35,71
12
21,43
Kết quả phân tích 56 mẫu phân cho thấy, 14 cừu kiểm tra đều nhiễm ký sinh
trùng. Trong đó, 100% cừu nhiễm Trichostrongylidae và Eimeria sp., 48 mẫu trong tổng
số 56 mẫu của các cừu kiểm tra nhiễm Paramphistomum sp. chiếm tỷ lệ 85,71%. Tỷ lệ
nhiễm Trichocephalus sp. là 57,14% và tỷ lệ nhiễm Fasciola sp. và Strongyloides sp. là
thấp nhất chiếm 35,71%. Kết quả này cao hơn so với những nghiên cứu trên đàn cừu ở
Việt Nam của (Drozdz J., 1971) (Fasciola 20%, Paramphistomum 37%,
Trichostrongylidae 58,9%), cao hơn so với nghiên cứu về Eimeria của (Dinka Ayana et
al, 2009) trên cừu ở Thổ Nhĩ Kỳ (59,6%).
Kết quả đánh giá về cường độ nhiễm ký sinh trùng ở cừu cho thấy: 80% cừu bị
nhiễm Strongyloides sp. ở mức độ (+), đối với Trichocephalus sp. là 62,5%, Fasciola sp.
là 60%, thấp nhất là Trichostrongylidae (28,57%). Mức độ nhiễm (++) cao nhất là
Trichocephalus sp. (37,5%), kế đến là Eimeria sp. (35,71%) và thấp nhất là Fasciola sp.
và Strongyloides sp. (20%). Mức độ nhiễm (+++) chủ yếu là Trichostrongylidae
(42,86%) và Eimeria sp. (21,43%), thấp nhất là Paramphistomum sp. (8,33%).
Từ kết quả trên cho thấy cừu là đối tượng vật nuôi rất dễ nhiễm các loại ký sinh
trùng, đặc biệt là hai họ Trichostrongylidae và Eimeria. Mức độ nhiễm nặng nhất là với
74
họ Trichostrongylidae. Nguyên nhân của tình hình này có thể là do cừu bị nhiễm trong
thời gian nuôi tại Ninh Thuận và quá trình vận chuyển, nuôi thích nghi trong điều kiện
nóng ẩm tạo điều kiện cho các loại ký sinh trùng phát triển trong cơ thể vật chủ.
Cừu cũng nhiễm giun tròn thuộc họ giun xoăn (Strongylidae) và đơn bào (cầu
trùng Eimeria sp.) với tỷ lệ và cường độ cao. Nguyên nhân do các giun tròn thuộc họ
giun xoăn và cầu trùng có chu trình phát triển trực tiếp không qua vật chủ trung gian do
đó khả năng cừu tiếp xúc với mầm bệnh cao vì vậy cừu dễ bị tái nhiễm và bội nhiễm.
3.2. Hiệu lực thuốc tẩy
Sau khi tiến hành xét nghiệm kiểm tra tình hình nhiễm ký sinh trùng trên đàn
cừu nuôi tại Trung tâm nghiên cứu vật nuôi Thủy An, chúng tôi tiến hành thử nghiệm
hiệu quả một số loại thuốc tẩy thông thường nhằm tìm ra biện pháp phòng trừ có hiệu
quả cho cừu nuôi, kết quả thu được trình bày ở bảng 3 và bảng 4.
Bảng 3. Kết quả điều trị sán lá
STT
Tên thuốc
Số cừu
tẩy
Tỷ lệ sạch sau khi tẩy
Tỷ lệ ra
sán (%)
5 ngày
10 ngày
15 ngày
(-)
%
(-)
%
(-)
%
1
Albendazol
6
100
6
100
4
66,66
3
50,00
2
Nitroxinyl
4
100
4
100
3
75,00
3
75,00
Qua bảng 3 cho thấy, đối với thuốc Albendazol và Nitroxynil có tỷ lệ ra sán cao
(100%); Sau khi tẩy 5 ngày chúng tôi tiến hành lấy mẫu kiểm tra tỷ lệ sạch sán 100% (6
mẫu âm tính trên 6 mẫu tẩy). Tại thời điểm 10 ngày sau khi tẩy tỷ lệ sạch sán đối với
thuốc tẩy Albendazol là 66,7%; Nitroxinyl là 75%. Tại thời điểm 15 ngày sau khi tẩy tỷ
lệ sạch sán của thuốc tẩy Albendazol giảm xuống còn 50%; Nitroxinyl 75%. Kết quả ở
bảng 3 cũng cho thấy, tính đến thời điểm 15 ngày sau khi sử dụng thuốc, thuốc tẩy
Nitroxinyl có hiệu quả cao hơn so với thuốc tẩy Albendazol.
Như vậy, cả hai loại thuốc tẩy Albendazol và Nitroxinyl đều có hiệu quả đối với
sán lá gan và sán lá dạ cỏ. Cừu sau khi sử dụng thuốc tẩy số lượng trứng trên 1 tiêu bản
giảm hơn so với trước khi sử dụng thuốc tẩy.
Kết quả ở bảng 4 cho thấy, các thuốc sử dụng tẩy đều có tác dụng đối với giun
tròn. Thuốc tẩy Albendazol có tác dụng với 2 cừu trong 6 cừu sử dụng thuốc chiếm tỷ lệ
33,33% tại cả ba thời điểm kiểm tra (5 ngày, 10 ngày và 15 ngày sau khi tẩy).
75
Bảng 4. Kết quả điều trị giun tròn
STT
Loại thuốc
Số
cừu
tẩy
Tỷ lệ sạch sau khi tẩy
5 ngày
10 ngày
15 ngày
(-)
%
(-)
%
(-)
%
1
Albendazol
6
2
33,33
2
33,33
2
33,33
2
Nitroxinyl
4
1
25,00
0
0,00
0
0,00
3
Levamisol HCl
4
2
50,00
2
50,00
1
25,00
Nitroxinyl có tác dụng với 1 cừu trong 4 cừu sử dụng thuốc chiếm tỷ lệ 25,00%
(tại thời điểm 5 ngày sau khi sử dụng thuốc). Tại thời điểm 10 và 15 ngày sau khi tẩy,
thuốc không có tác dụng với giun. Đối với Levamisol HCl, thuốc có tác dụng với 2 trên
4 cừu sử dụng thuốc tại hai thời điểm là 5 ngày và 10 ngày sau khi tẩy. Tại thời điểm 15
ngày sau khi tẩy thuốc có tác dụng với 1 cừu trong 4 cừu sử dụng thuốc.
4. Kết luận
- Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng ở đàn cừu ở trại Thủy An là 100% và thuộc ba lớp
Trematoda (Fasciola sp., Paramphistomum sp.), Nematoda (Trichostrongylidae,
Strongyloides sp., Trichocephalus sp.), Protozoa (Eimeria sp.), không có ký sinh trùng
thuộc lớp Cestoda. Trong đó 100% cừu nhiễm ký sinh trùng thuộc lớp Nematoda và
Protozoa, 85,71% cừu nhiễm ký sinh trùng thuộc lớp Trematoda.
- Cường độ nhiễm ký sinh trùng ở cừu:
+ 80% cừu bị nhiễm Strongyloides sp. ở cường độ (+), đối với Trichocephalus sp.
là 62,5%, Fasciola sp. là 60%, thấp nhất là Trichostrongylidae (28,57%).
+ Mức độ nhiễm (++) cao nhất là Trichocephalus sp. (37,50%), thấp nhất là
Fasciola sp. và Strongyloides sp. (20%).
+ Mức độ nhiễm (+++) chủ yếu là Trichostrongylidae (42,86%), thấp nhất là
Paramphistomum sp. (8,33%).
- Hiệu lực thuốc tẩy:
+ Đối với Trematoda: hiệu quả Nitroxinyl cao hơn (75%) so với Albendazol
(50%).
+ Đối với Nematoda: hiệu quả Albendazol (33,33%) cao hơn so với Levamisol
HCl (25%).
76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đinh Văn Bình, Nguyễn Đức Tưởng, Nghiên cứu các giải pháp tổng hợp để nâng cao
sản xuất của giống cừu Phan Rang trong chăn nuôi nông hộ, Đề tài cấp nhà nước,
2005,
[2]. Đinh Văn Bình, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Ngọc Thiểm, Nghiên cứu giải pháp tổng thể
để nâng cao khả năng sản xuất và mở rộng của giống cừu Phan Rang trong chăn nuôi
nông hộ, Báo cáo 6 tháng đầu năm đề tài cấp bộ (2006-2010).
[3]. Benedek, L. - Allatory. Lapok 66: 139 (1943) - F. A. Happichd D, .V.M. and J. C.
Boray D, V. M., Quantitative diagnosis of chronic fasciolosis - Comparative Studies on
Quantitative Faecal Examinations for Chronic Fusciolu hepatica Infection in Sheep,
Australian Veterinary Journal, Vol. 45, July, 1969.
[4]. Dőbel, D. (1963) – Amelie Kraemer geb. Reese (2005), Validierung ausgewählter
koproscopischer Untersuchungsmethoden zum direkten Nachweis parasitärer Stadien
verschiedener Parasitenspezies der Haussäugetiere. Inaugural Dissertation zur
Erlangung des Grades einer Doktorin der Veterinärmedizin durch die Tierärztliche
Hochschule Hannover, Hannover, 2005.
[5]. Drozdz J., Malczewski, Nội kí sinh và bệnh kí sinh vật ở gia súc Việt Nam, Nxb. Khoa
học và Kĩ thuật, Hà Nội, 1971.
[6]. P. Dorny, E. Romjali, K. Feldman, A. Batubara and V. S. Pandey, Studies on the
efficacy of four anthelmintics against Strongyle infection of sheep in North Sumatra,
Indonesia, AJAS 1995 vol. 8 (No. 4) p. 348
[7]. Stoll RN, et al. Am J Hyg 1926;6:134–145 - O. R. Lee, W. K. Lee, B. H. Yun and K. M.
Lee, A comparison of the efficiency of the three egg count techniques, Korean J
Parasitol,10(2), Aug 1972, 90-94.
[8]. Dinka Ayana, Getachew Tilahun, Wossene Abebe, Study on Eimeria and
Cryptosporidium infections in sheep and goats at Elfora export abattoir, Debre-zeit,
Ethiopia, Turkish Journal of Veterinary and Animal Sciences, 2009.
77
PARASITIC INFECTION SITUATION OF SHEEP KEPT
IN THUY AN ANIMAL RESEARCH CENTER AND THE EFFICIENCY
OF DIFFERENT DEWOMING MEDICINCES
Nguyen Thi Nga, Nguyen Xuan Ba
College of Agriculture and Forestry, Hue University
Bui Van Loi, Hue University
SUMMARY
Clinical examination and laboratory analyses of 56 fecal samples of 14 sheep at Thuy
An Animal Research Center, Hue University of Agriculture and Forestry were carried out to
determine the composition of parasites, infection rate, infection volume and efficiency of
different deworming medicines. Results showed that all sheep were infected with parasites
including six species of three classes: Trematode, Nematode, Protozoa. All sheep were infected
by Nematode and Protozoa classes; 85,71% infected by Trematode and 80% infected by
Strongyloides sp. Results also showed that 37.50% of the sheep were infected by Trichocephalus
sp. at (++) level and 42,86% infected by Trichostrongylidae at (+++) level. Nytroxinyl had
higher efficiency of treating Trematode than Albendazol; 75% compared to 50%. Albendazol
had higher efficiency of treating Nematode than Levamisol HCl, 33,33% and 25,0%,
respectively.
Key words: Sheep, Parasite, Infection, Treatment.