Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

BAI BAO CAO KY THUAT NUOI CA KEO pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.96 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU
KHOA NÔNG NGHIỆP
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NUÔI THƯƠNG PHẨM
CÁ KÈO (Pseudapocryptes elongatus)
Ở HUYỆN HÒA BÌNH
CHUYÊN ĐỀ
KĨ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG VÀ NUÔI CÁ BIỂN
NHÓM II
LỚP 2NT1
Bạc Liêu, tháng 10 năm 2011
MỤC LỤC
MỤC LỤC
CHƯƠNG I . MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I . MỞ ĐẦU
3
3
1.1
1.1
Đặt vấn đề…………………………………………………………………
Đặt vấn đề…………………………………………………………………
3
3
1.2
1.2
Mục tiêu………………………… ……………………….……………… 4
Mục tiêu………………………… ……………………….……………… 4
1.3
1.3
Nội dung
Nội dung………………………………………………… ……
4


4
CHƯƠNG II. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
CHƯƠNG II. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
………………………… …….…….
………………………… …….…….
5
5
2.1 Đặc điểm sinh học cá kèo………………………………………… …………
2.1 Đặc điểm sinh học cá kèo………………………………………… …………
5
5
2.1.1 Phân loại……………………………………………………… ………
2.1.1 Phân loại……………………………………………………… ………
5
5
2.1.2 Đặc điểm hình thái…………………………………………………………
2.1.2 Đặc điểm hình thái…………………………………………………………
5
5
2.1.3 Phân bố và tập tính sống………………………………………… ………
2.1.3 Phân bố và tập tính sống………………………………………… ………
7
7
2.1.4 Dinh dưỡng……………………………………………………………
2.1.4 Dinh dưỡng……………………………………………………………
7
7
2.1.5 Sinh trưởng……………………………………………………………
2.1.5 Sinh trưởng……………………………………………………………
8

8
2.1.6 Sinh sản……………………………………………………………… ……
2.1.6 Sinh sản……………………………………………………………… ……
8
8
2.2 Tình hình nuôi cá kèo…………………………… …………………………10
2.2 Tình hình nuôi cá kèo…………………………… …………………………10
2.3 Một số yếu tố kỹ thuật trong ương nuôi thương phẩm cá kèo…….… ……
2.3 Một số yếu tố kỹ thuật trong ương nuôi thương phẩm cá kèo…….… ……
12
12
2.3.1 Chuẩn bị và cải tạo ao
2.3.1 Chuẩn bị và cải tạo ao
12
12
2.3.2 Con giống, mật độ
2.3.2 Con giống, mật độ
13
13
2.3.3 Thức ăn và cách cho ăn
2.3.3 Thức ăn và cách cho ăn
13
13
2.3.4 Chăm sóc và quản lí
2.3.4 Chăm sóc và quản lí
14
14
2.3.5 Cách thu hoạch thức ăn
2.3.5 Cách thu hoạch thức ăn
15

15
2.3.6 Một số bệnh thường gặp
2.3.6 Một số bệnh thường gặp
15
15
CHƯƠNG III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


17
17
3.1 Thời gian và địa điểm
3.1 Thời gian và địa điểm
17
17
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2 Phương pháp nghiên cứu
17
17
3.3 Sử lí số liệu
3.3 Sử lí số liệu
17
17
3.4 Kế hoạch thực hiện
3.4 Kế hoạch thực hiện
18
18
CHƯƠNG IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
CHƯƠNG IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN



19
19
4.1 Hiện trạng nuôi cá kèo ở Bạc Liêu
4.1 Hiện trạng nuôi cá kèo ở Bạc Liêu
19
19
4.2 Kía cạnh về mặt kỹ thuật
4.2 Kía cạnh về mặt kỹ thuật
19
19
4.2.1 Chuẩn bị ao nuôi…………………………………………………… 19
4.2.2 Mùa vụ nuôi……………………………………………………… 20
4.2.3 Kích cỡ và mật độ thả giống cá nuôi………………………………. 20
4.2.4 Chăm sóc và quản lý ao nuôi 20
4.2.5 Thu hoạch cá nuôi 21
4.3 Hoạch toán kinh tế của mô hình nuôi cá kèo thương phẩm 23
4.4 Thuận lợi và khó khăn của mô hình 25
CHƯƠNG V. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
CHƯƠNG V. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ


26
26
CHƯƠNG VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
CHƯƠNG VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO


27
27

2
CHƯƠNG I
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Nuôi trồng thuỷ sản hiện đang được quan tâm ở nhiều nước trên thế giới.
ở Việt Nam, nuôi trồng thuỷ sản nói chung, cá nước lợ nói riêng đang có xu
hướng phát triển mạnh. Đặc biệt, khu vực ven biển ĐBSCL, bên cạnh các đối
tượng nuôi thường gặp như: tôm, cua, cá chẽm, ngêu…thì cá kèo là đối tượng
mới đang được chú ý. Hiện tại, cá kèo là đối tượng có giá trị kinh tế cao và đang
được nuôi ở nhiều tỉnh ven biển ĐBSCL.
Vài thập niên trước đây, cá kèo là loài thủy sản có mặt khắp nơi trên những
vuông, ao… và có khi cá kèo cũng được người dân thả nuôi kèm ở những ao tôm
sú, nhưng kém hiệu quả, giá lại thấp. Tuy nhiên, khoảng hai năm trở lại đây,
nhiều tỉnh trong khu vực ĐBSCL, đặc biệt là Bạc Liêu, tình trạng tôm sú chết
hàng loạt do dịch bệnh kéo dài làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế
của nhiều nông hộ, do đó chuyển đổi sang một mô hình sản xuất khác là việc làm
tất yếu và cần thiết, đối tượng được các nông hộ chọn để thay đổi là thẻ chân
trắng, cua, cá kèo…thế nhưng do mô hình nuôi thương phẩm tôm thẻ chân trắng
và cua cần sự đầu tư và quản lý kỹ thuật cao, thì mô hình nuôi thương phẩm cá
kèo được nhiều nông hộ lựa chọn và đang phát triển một cách rầm rộ. Con cá kèo
đang góp phần giúp người dân ở Bạc Liêu thoát nghèo một cách hiệu quả
Tuy nhiên hiện nay, vẫn chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về cá kèo. Mặc
dù mô hình nuôi cá kèo đang phát triển mạnh không chỉ về diện tích mà cả mật
độ nuôi, nhưng các thông tin về hiện trạng phát triển, kỹ thuật nuôi và khía cạnh
kinh tế của mô hình nuôi chưa được đánh giá. Do đó, nhóm tiến hành “ Khảo sát
về hiện trạng các mô hình nuôi cá kèo (Pseudapocryptes elongatus, Cuvier,1816 )
ở huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu” để làm rỏ các vấn đề trên.
1.2 Mục tiêu
- Cung cấp số liệu tham khảo cho báo cáo.
3

- Tìm hiểu kỹ thuật nuôi của các nông hộ tại huyện Hòa Bình tỉnh Bạc
Liêu
- So sánh kỹ thuật nuôi cá giữa lý thuyết và thực tế được áp dụng.
- Đánh giá hiệu quả nuôi của từng hộ nuôi.
- Học cách tiếp cận với nông hộ.
- Làm quen với việc viết báo cáo điều tra
- Đánh giá hiện trạng phát triển, kỹ thuật nuôi và hiệu quả kinh tế của cá
kèo nhằm làm cơ sở cho định hướng và nghiên cứu phát triển ổn định và
bền vững mô hình nuôi cá kèo ở huyện Hòa Bình.
1.3 Nội dung
- Điều tra nông hộ.
- Khảo sát tình hình nuôi cá kèo ở Hòa Bình.
- So sánh hiệu quả mô hình.
- Những thuận lợi và khó khăn của mô hình.
4
CHƯƠNG II
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học cá kèo
2.1.1 Phân loại
Theo Curvier (1816) thì cá kèo vảy nhỏ thuộc họ Gobiidae và được phân loại như
sau:
Bộ: Perciformes
Họ: Gobiidae
Lớp: Actinopterygii
Giống: Pseudapocryptes
Loài: Pseudapocryptes elongatus
Hình 2.3: cá kèo vẩy nhỏ (Pseudapocryptes elongatus, Curvier 1816)
2.1.2 Đặc điểm hình thái
Một số đặc điểm hình thái phân loại cá kèo vẩy nhỏ ở ĐBSCL được hai
tác giả Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương mô tả như sau: Cá kèo vẩy

nhỏ có đầu nhỏ, hình chóp, mõm tù hướng xuống, miệng trước hẹp, rạch miệng
ngang, kéo dài đến đường thẳng đứng kẻ qua sau cạnh mắt. Răng hàng trên một
hàm, răng cửa to, đỉnh tà, răng trong nhỏ mịn. Răng hàng dưới một hàm mọc
xiên thưa, đỉnh tà và có một đôi răng chó ở sau mấu tiếp hợp của hai xương răng.
Không có râu, dưới trước mõm có hai nếp da nhỏ phủ lên môi trên. Mắt tròn và
nhỏ nằm phía lưng của đầu, gần chót mõm hơn gần cuối nắp mang. Khoảng cách
giữa hai mắt hẹp, nhỏ hơn hoặc tương đương với một phần hai đường kính mắt.
Lỗ mang hẹp, màng mang phát triển, phần dưới dính với eo mang. Thân hình trụ,
thon dài, hơi hẹp bên, phần sau xương chẫm có hai đường óng nổi có phủ vẩy,
cuống đuôi ngắn, dài cuống đuôi nhỏ hơn cao cuống đuôi.
Hai vi lưng rời nhau, khoảng cách này lớn hơn chiều dài gốc vi lưng thứ
nhất.
5
Khởi điểm vi hậu môn sau khởi điểm vi lưng thứ hai nhưng điểm kết thúc
ngang nhau. Hai vi bụng dính nhau tạo thành giác bám dạng hình phễu, miệng
phễu hình bầu dục. Vi đuôi dài và nhọn.
Cá có màu xám ửng vàng, nửa trên của thân có 7 – 8 sọc đen hướng xéo
về phía trước, các sọc này rõ về phía đuôi. Bụng có màu vàng nhạt. Các vi ngực,
vi bụng và vi hậu môn có màu vàng đậm. Vi đuôi và vi lưng có màu vàng xám và
có nhiều hàng chấm đen vát ngang các tia vi đuôi.
Theo tác giả Mai Đình Yên (1992) thì cá kèo vẩy nhỏ được mô tả:
Cá kèo có thân hình trụ dài, dẹp dần về phía đuôi. Đầu hơi nhọn mõm tù
và trần. Nếp gấp mõm có hai lá bên nhỏ. Mắt nhò, nằm sát nhau trên đỉnh đầu và
không có cuống mắt. Miệng gần như nằm ngang, rạch miệng kéo dài gần như
đến bờ sau ổ mắt. Có một cặp răng chó sau điểm tiếp hợp ở hàm dưới, lưỡi cắt
ngang, than phù vẩy tròn rất bé.
Hai vây lưng rời nhau, vây lưng thứ hai gần như đối xứng với vây hậu
môn. Khởi điểm vây ngực phía trên khởi điểm vây bụng. Vây đuôi dài và nhọn.
Thân màu xám đen, bụng màu nhạt.Ở phần đầu, phía trên nắp mang có
màu xám thẫm hơn. Dọc trên lưng có những đốm đen hình yên ngựa kéo dài

xuống hông. Vây ngực màu nhạt, lấm tấm các đốm. Vây lưng có nhiều hàng
chấm đen. Các vây còn lại trắng nhạt.
Cá có kích thước tối đa khoảng 30cm, rất phổ biến ở vùng cửa sông và
nước lợ ở miền Nam. Chúng thường sống ở các bãi triều.
Theo Nguyễn Chung (2007) thì có sự khác biệt về màu sắc giữa cá kèo tự
nhiên và cá kèo nuôi. Cá kèo hoang dã có màu sắc tự nhiên, vẩy lưng hơi vàng và
có khuynh hướng chuyển sang màu nâu tái và màu nâu đỏ. Bụng cá trắng, vùng
bụng gần vây hậu môn không có màu sắc rõ rệt, các đường chéo màu nâu tối ở
bên trong và một vài chấm màu nâu nhỏ lốm đốm xuất hiện ở phần lưng. Vây
đuôi màu hơi vàng tới màu hơi nâu và có những chấm nâu lốm đốm, những đốm
này thường gom lại thành những đường lượng sóng và đứt gãy. Vùng hậu môn
và ngực có màu từ vàng tới tái cam.
Cá kèo nuôi trong đầm màu sắc thay đổi, vây lưng có khuynh hướng
chuyển dần thành màu nâu tái. Bụng có màu vàng nâu và có những chấm vết
màu sẫm tối, vết tối này có thể gặp ở một vài cá thể, đặc biệt là những cá thể nhỏ
dưới 100mm có những vết nâu tối hơn, đường chéo ở lưng và vết nâu tối ở đầu.
Vây lưng có một vài chấm sẫm. Các vây khác, ngoại trừ vây đuôi hầu như đều
đổi màu.
Theo Murdy (1989), điểm đặc trưng của cá kèo là ở vây hậu môn khoảng
28 – 31 tia và có vài chấm nâu xuất hiện trên cơ thể và được xác dịnh hơn 150
vẩy.
6
2.1.3. Đặc điểm phân bố và tập tính sống.
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) thì cá bống kèo
sống chủ yếu ở vùng nước lợ vào mặn nhưng cũng có thể sống ở nước ngọt,
chúng làm hang ở các bãi bùn và có thể trườn lên các bãi này. Vùng phân bố
rộng: Từ Ấn Độ, Thái Lan đến Mã Lai, quần đảo Ấn Độ - Úc Châu, ĐBSCL,
Trung Quốc.
Theo Kottelat và Whitten (1996) thì cá sống ở vùng nhiệt đới, nhiệt độ
thích hợp cho sinh trưởng và phát triển từ 23

0
C – 28
0
C. Takita (1999) báo cáo
rằng cá kèo (P.elongatu) thường sống ở những vùng nước cạn trên bãi bùn ở
vùng cửa sông và cá trưởng thành thường sống ở các thủy vực sâu và bẩn hơn.
Khi sống trong hang có độ mặn thường thấp.
Theo Nguyễn Chung (2007), cá kèo thích nghi rất rộng và nhanh với các
biến động của môi trường nên có thể sống ở tất cả các vùng nước có độ mặn từ
0
0
/
00
đến 30
0
/
00
, nhiệt độ từ 15
0
C – 37
0
C và cá có tập tính di cư xuống theo dòng
chảy thủy triều và hải lưu. Cá kèo theo những con nước triều phân bố khắp nơi,
khi tìm được bãi thích hợp thì chúng chui rút sâu và sống trong bùn.
Cá kèo dùng hai vây ngực và vây hậu môn để trườn mình đi. Khi nước
triều lên ngập các bãi bồi, chúng lặn xuống duới đáy và vào những con nước
rong hay khi trời mát cá kèo ngoi lên đi từng bầy nổi cả vùng trên mặt nước tìm
mồi. Khi thành thục sinh sản, chúng tìm ra cửa sông, vùng ven biển có độ mặn
25–30
0

/
00
để sinh sản. Trứng nở thành ấu trùng, trôi nổi trên mặt nước theo thủy
triều đẩy vào bờ thành cá giống và lớn lên, đi vào vùng nội đồng, ao, đầm, kênh
mương vùng nước lợ.
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Theo kết quả nghiên cứu của Trần Đắc Định (2002), cá kèo là loài có tính
ăn thiên về thực vật, do tỉ lệ giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Lc) lớn
hơn 3. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy thành phần thức ăn chủ yếu của cá kèo
là tảo Khuê (Baccillariophyta) (83,1%), mùn bã hữu cơ (14,1%) và tảo lam
(1,9%). Ngoài ra, chúng cũng ăn một số loại động vật phù du như: Copepoda và
Cladocera, nhưng tỷ lệ rất thấp (0,06% và 0,03%). Qua đó, có thể nói rằng cá kèo
sống trong môi trường rất giàu tảo Khuê và có nền đáy là bùn hay bùn cát, khi
thủy triều xuống chúng tìm thức ăn là mùn bã hữu cơ. Đây là loài ăn tạp thiên về
thực vật.
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Theo Kottelat và Whitten (1996) cá có chiều dài lớn nhất là 20 cm. Theo
Khaironizam và Norma Rashid (2002) thì sự sinh trưởng của cá kèo được thể
hiện qua mối tương quan giữa chiều dài và khối lượng. ở vùng Selangor (Mã Lai)
7
sự tương quan giữa chiều dài và khối lượng loài P. elongatus được xác định với
chiều dài chuẩn dao động 2,01–13,4 cm và phương trình hồi qui có dạng
W=0,00002541L2,81 (R=0,995) với n=84 (được trích dẫn bời Võ Thành Toàn,
2005).
Theo kết quả của Trần Đắc Định (2002) khảo sát ở Bạc Liêu, mối tương
quan giữa chiều dài và trọng lượng được xác định qua phương trình hồi qui
W=0,2468L1,5567 với R2=0,9908, chiều dài dao động chuẩn 10,1 – 20,3 cm.
Trong khi đó, ở vùng biển Tây Ngọc Hiển – Cà Mau thì phương trình hồi qui của
loài này là W=0,0074L2,8138 (n=292), chiều dài tổng đạt 4,9 – 20,7 cm (Lê Thị
Xuân Thắm, 2004). Qua đó cho thấy cá kèo có dạng hình thon dài và kích thước

nhỏ hơn 20,7 cm thì chưa thành thục.
Brodziak và Mikus (2002) đề nghị nên có sự thu mẫu tròn năm đối với
loài sống ở nước lợ để có thể đánh giá sự khác biệt về địa lý và thời gian có ành
hưởng đến khối lượng trung bình theo chiều dài của cá. (được trích dẫn bởi Võ
Thành Toàn, 2005)
Theo Võ Thành Toàn (2005), sự khác biệt về mối tương quan giữa cá kèo
ở Bạc Liêu và cá kèo ở Cà Mau rất có thể do vùng sinh thái và thời gian nghiên
cứu.
Khi phân tích các tham số tăng trưởng thì chiều dài cực đại cá có thể đạt
được là 22,1 cm với tốc độ tăng trưởng 0,81/năm và chỉ số tăng trưởng là 2,778,
cá có kích cỡ nhỏ sẽ tăng trưởng nhanh hơn cá lớn và khi đạt chiều dài cực đại
thì tốc độ tăng trưởng chậm lại. Khi chiều dài khoảng 16,9 cm cá có thể được 1
tuổi, khi 2 tuổi, chiều dài có thể lên đến 20,7 cm và khi đạt 22,9 cm thì có thể cá
được 3 tuổi.
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Đối với các loài cá biển, những loài thuộc họ cá bống (Gobiidae), con đực
làm tổ, con cái bị hấp dẫn đến tổ để và bảo vệ trứng khi nở. Những con đực quá
nhỏ không đủ khả năng làm tổ hoặc giao vĩ, chúng lẫn trốn vào hang riêng của
chúng trong suốt mùa sinh sản và có lẽ chỉ thụ tinh được cho một số trứng
(Maghagen, 1995), (được trích dẫn bởi Nguyễn Hùng Tính, 2007) Theo Holden
và Raitt (1974) đề nghị quá trình thành thục của cá nói chung dược chia làm 7
giai đoạn:
 Giai đoạn 1:
Tuyến sinh dục rất nhỏ, mảnh, trong suốt, rất khó phân biệt tinh sào hay
noãn sào bằng mắt thường.
 Giai đoạn 2:
8
Có thể phân biệt tuyến sinh dục đục, cái bằng mắt thường. Tuyến sinh dục
có kích thước nhỏ, màu hơi hồng trong suốt. Màng tuyến sinh dục mỏng, hầu
như không có mạch máu phân bố, rất khó thấy hạt trứng bằng mắt thường.

 Giai đoạn 3:
Kích thước tuyến sinh dục gia tăng rõ, noãn sào có màu vàng nhạt, trên
noãn sào đã có mạch máu phân bố. Có thể thấy rõ những hạt trứng trong noãn
sào bằng mắt thường. Chúng rất nhỏ khó tách rời khỏi các tấm trứng.
 Giai đoạn 4:
Tuyến sinh dục có kích thước lớn. Noãn sào có màu vàng tươi, hơi đậm
hơn ở giai đoạn 3. Mạch máu nhiều, các hạt trứng to và tương đối đồng đều, số
lượng trứng nhỏ ít, lực liên kết giữa các tế bào và các tấm trứng giảm nhiều so
với ở giai đoạn 3. Vào cuối giai đoạn này có thể thấy nhân trứng bằng mắt
thường.
 Giai đoạn 5:
Tuyến sinh dục có kích thước rất lớn, tuyến sinh dục có màu sắc đậm hơn
so với giai đoạn 4.
 Giai đoạn 6:
Hình dạng của cá cái ở giai đoạn này có những nét chung của những cá
thành thục sinh dục tốt: bụng tròn, chứa đầy trứng, lỗ sinh dục nở to và rất đỏ ép
vào bụng cá hay nhấc cá lên, trứng chảy ra thành dòng.
 Giai đoạn 7:
Sau khi đẻ xong, tuyến sinh dục teo lại, mềm nhão, màng tuyến sinh dục
nhăn nheo, mạch máu phát triển nhiều, trong tuyến sinh dục có chứa chất dịch
màu đỏ. (trích dẫn bởi Lê Thị Xuân Thắm, 2004) Kích cỡ trưởng thành của loài
Pseupodacryptes elongatus được nghiên cứu và báo cáo rằng trong 50% mẫu cá
trưởng thành này thì con cái có chiều dài trung bình là 10,2 cm, con đực là 10,5
cm. Trong khi chiều dài sinh sản của cá cái là 10,8 cm và cá đực là 11,9 cm
(Etim et al, 2002). ( được trích bởi Nguyễn Hùng Tính, 2007)
Theo Trần Đắc Định (2002), kích thước tuyến sinh dục của cá kèo rất nhỏ
và chỉ phát hiện ở giai đoạn 3 trong 7 giai đoạn thành thục được Holden và Raitt
(1974) đề nghị, tỉ lệ phát triển tuyến sinh dục dạt đến giai đoạn 3 từ tháng 12 đến
tháng 2 năm sau cao hơn so với các tháng trước. Các tháng sau đó chỉ phát triển
đến giai đoạn 2, tháng 3 và tháng 4 không thấy loài này xuất hiện nên không phát

hiện được giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục.
Ở vùng bãi bồi Tây Ngọc Hiển – Cá Mau tuyến sinh dục của cá kèo đạt cao nhất
là giai đoạn 3 và tăng dần từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau. Trong đó, vào tháng
11 tuyến sinh dục của loài này xuất hiện cả 3 giai đoạn ( 1, 2, 3) và giai đoạn 3
9
chiếm tỷ lệ cao nhất (70,59%). Tháng 12 thì chỉ có giai đoạn 2 và 3, giai đoạn 3
chiếm 81,89%. Tỷ lệ cá đạt giai đoạn 3 là 100% ở tháng 1 (Lê Thị Xuân Thắm,
2004).
Phát triển của ấu trùng và cá bột
Theo Nguyễn Chung (2007), các khảo sát thu vớt được ở những vùng bãi
bồi ven biển của các cửa sông Cửu Long cho thấy ấu thể cá kèo mới nở có chiều
dài 0,8 – 1,21 mm và noãn hoàng dài 04 – 06 mm. Trong thời gian này do các sắc
tố chưa hình thành nên cơ thể ấu trùng còn trong suốt. Sau khi sử dụng hết noãn
hoàng, miệng ấu trùng mở ra và hàm bắt đầu cử động và cá tự bắt mồi. Xuất hiện
sắc tố, bắt đầu có màu vàng nhạt rồi chuyển dần sang màu nâu tái hay nâu đỏ,
bụng cá có màu trắng. Ở giai đoạn bột, cơ thể đã phát triển hoàn thiện và cá bắt
đầu chuyển sang màu vàng sáng. Giai đoạn cá con có chiều dài 1,2 – 1,5 cm, cá
khỏe mạnh, thân thường có màu sáng hơn và chủ động bơi lội.
2.2. Tình hình nuôi cá kèo ở một số quốc gia trên thế giới
2.2.1. Tình hình nuôi cá kèo ở một số tỉnh ĐBSCL
Ở ĐBSCL, nghề nuôi cá kèo đã hình thành từ nhiều năm qua, nhưng vẫn
còn nuôi theo kiểu tự phát hoặc xen canh với con tôm sú. Trà Vinh có khoảng
100 người nuôi cá kèo, nhưng với quy mô lớn mới chừng 20 hộ, tập trung ở 2
huyện Duyên Hải và Cầu Ngang.
10
Mô hình nuôi cá kèo trong ao lót bạt của hộ ông Bùi Thành Công ở ấp Rạch
Cỏ, xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải- Trà Vinh được thực hiện trên diện tích
200m
2
.

Mô hình thả 1 kg cá giống (20.000 con). Sau hơn 4 tháng thả nuôi bằng
thức ăn công nghiệp, thu hoạch 392 kg cá, với giá 80.000 đồng/kg được hơn 31
triệu đồng, sau khi trừ chi phí còn lợi nhuận hơn 12 triệu đồng.
Mô hình nuôi cá kèo trong ao lót bạt có ưu điểm là tận dụng được diện
tích nhỏ, ít hao hụt, dễ dàng thay nước, kiểm tra chăm sóc, nên ít dịch bệnh, cá
phát triển nhanh, bạt ni lông có thể sử dụng liên tiếp 2 đến 3 vụ nuôi.
Hiện nay, ngoài việc nuôi cá kèo xen với con tôm sú thì trong năm 2003,
Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ đã ứng dụng thành công mô hình nuôi
cá kèo thương phẩm ở xã An Thạnh Nam, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng,
thành công đã khẳng định thêm một đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao và
nhiều tiềm năng vươn ra thị trường thế giới, diện tích thả nuôi cá kèo của huyện
Vĩnh Châu đã lên tới trên 200 ha với năng suất bình quân là 10 tấn/ha, lợi nhuận
thu sau 6 tháng thả nuôi đạt trung bình trên 100 triệu đồng. Đặc biệt, doanh
nghiệp Tiến Thành do áp dụng quy trình thả nuôi khoa học nên năng suất đạt hơn
16 tấn/ha, thu lãi hơn 300 triệu đ/ha.
Tỉnh Cà Mau hiện có gần 1.000 hộ dân nuôi cá kèo, trong đó có nhiều
người là cán bộ, công chức nhà nước cũng tham gia nuôi để phát triển kinh tế gia
đình. Nuôi cá kèo là nghề mới mẻ nhưng phát triển khá nhanh ở tỉnh Cà Mau,
đồng thời cũng mang lại hiệu quả kinh tế đáng khích lệ.
11
2.2.2. Tình hình nuôi ở Tỉnh Bạc Liêu
Phong trào nuôi cá kèo công nghiệp nhộn nhịp nhất là ở phường Nhà Mát,
thị xã Bạc Liêu. Ở đây có hàng chục đại lý mua bán cá kèo giống, cung cấp cá
kèo giống nhiều nhất cho các tỉnh ĐBSCL. Mỗi ngày có khoảng vài trăm ngàn
con cá giống được bán về các tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh
Để có diện tích cho con cá kèo, ngoài những ao nuôi truyền thống, người
dân còn tận dụng cả ruộng muối để lấp vụ bằng cá kèo. Theo thống kê, trên đồng
đất Bạc Liêu hiện nay đã phát triển được gần 400ha khoanh nuôi cá kèo. Được
biết, nếu người dân thả cá kèo với mật độ vừa phải thì năng suất đạt khoảng 3 - 4
tấn/ha. Những hộ tìm được con giống nhiều, thả nhiều và cung cấp đủ nguồn

thức ăn thì năng suất đạt từ 6 - 7 tấn/ha. Với mật độ này thì nuôi cá kèo hiệu quả
hơn con tôm sú và chắc chắn sẽ giúp những nông dân ít đất thoát nghèo nhanh và
bền vững.
Năm 2010 trên địa bàn xã Hưng Thành, hiện có hơn 25 hộ nuôi cá kèo với
diện tích 32 ha và các hộ nuôi cá kèo đều đạt năng suất cao từ 6 – 8 tấn/ha, sau
khi trừ chi phí mỗi hecta cá kèo bà con lãi trên 200 – 250 triệu đồng/vụ. Đây là
mô hình hứa hẹn sẽ đem lại thành công cho nông hộ thực hiện, góp phần phát
triển kinh tế cho địa phương.
2.3. Một số yếu tố kỹ thuật nuôi cá kèo thương phẩm
2.3.1 Chuẩn bị và cải tạo ao
 Chuẩn bị ao nuôi
Ao nuôi cá bống kèo là những ao đất thông thường. Ở vùng ven biển có thể
sử dụng ao nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh hoặc ao nuôi quảng canh để
nuôi luân canh cá bống kèo. Vùng làm muối có thể luân canh nuôi cá bống kèo
trong ruộng muối vào mùa mưa khi nước bị giảm độ mặn không sản xuất được
muối. Từ những kinh nghiệm thực tế nuôi cá bống kèo ở các địa phương cho
thấy, ao nuôi có diện tích thích hợp nhất từ 1.000 – 2.000 m
2
.
 Cải tạo ao:
- Tát cạn ao, diệt hết cá tạp, cá dữ như cá chẽm, cá nâu, cá rô phi và tất cả
các loài cá, các loài địch hại khác. Nên dùng rễ dây thuốc cá (Derris elliptica
Benth) để diệt tạp, với liều lượng 1kg rễ tươi cho 100m3 nước ao.
Cách làm như sau: Để nước trong ao còn độ sâu 8 – 10cm và tính toán thể
tích nước có trong ao, rễ dây thuốc cá đập dập, ngâm trong nước 5 – 6 giờ rồi vắt
lấy nước, hòa loãng, sau đó té đều khắp mặt ao. Tất cả cá sẽ chết hết và vớt đi rồi
tháo hết nước hoặc bơm cạn ao để phơi đáy.
12
- Cày hoặc xới đáy ao 1 lớp đất mỏng (5 – 7 cm) để đáy ao thoáng khí, tạo
điều kiện cho sinh vật đáy phát triển làm nguồn thức ăn tự nhiên cho cá.

- Bón lót cho ao bằng phân hữu cơ, liều lượng 20 – 30 kg/100m
2
ao.
- Rải vôi bột xuống đáy ao để hạ phèn, diệt tạp, diệt các mầm bệnh, lượng
dùng 8 – 12kg/100m
2
, sau đó có thể xới đảo bùn đáy để hoà trộn vôi và phân hữu
cơ.
- Ao cần phơi đáy 2 – 3 ngày. Những ao ở vùng bị nhiễm phèn thì không
phơi đáy
Những ao đã nuôi tôm sú trước đó thì không cần bón lót phân hữu cơ, chỉ
nên diệt tạp và cá dữ bằng rễ dây thuốc cá, rải vôi, hạ phèn và diệt mầm bệnh
trong đáy ao.
- Lấy nước vào ao qua lưới chắn lọc để tránh địch hại và cá dữ, cá tạp lọt
vào ao ăn hại cá và tranh giành thức ăn với cá nuôi. Khi mức nước đạt 0,3 – 0,4m
thì có thể thả cá giống. Những ngày sau đó tăng dần mức nước ao cho đến khi đạt
theo yêu cầu (0,8 – 1m).
2.3.2 Con giống và mật độ thả
 Con giống:
Nên chọn cá giống khoảng 3 – 5cm hoặc 4 – 6cm, cá giống ương nuôi trong
ao là tốt nhất vì sẽ có kích cỡ đồng đều hơn, khoẻ hơn vì đã thích nghi với điều
kiện trong ao. Chọn cá khoẻ mạnh, hoạt động nhanh nhẹn, không bị nhiễm bệnh, màu
sắc tươi sáng, có nhiều nhớt.
 Mùa vụ và mật độ thả
- Mùa vụ:
Mùa vụ nuôi bống kèo từ tháng 4 - 5 khi bắt đầu có con giống tự nhiên,
ngoài ra người nuôi còn sử dụng ao nuôi tôm để nuôi bống kèo sau khi nuôi tôm
vụ 1 (vào tháng 7 -8).
- Mật độ thả nuôi:
Tuỳ theo điều kiện ao, khả năng quản lý chăm sóc và cỡ cá, có thể thả

nuôi với mật độ 30 – 60 con/m
2
, trung bình 50 con/m2. Nếu cỡ cá nhỏ (3cm) nên
thả mật độ cao hơn so với cỡ cá lớn (5 – 6cm) để trừ hao hụt trong khi nuôi. Nếu
điều kiện quản lý và kiểm soát chất lượng nước chủ động, có thể tăng mật độ
nuôi lên cao hơn 60 con/m
2
.
2.3.3 Thức ăn và cách cho ăn
Cá bống kèo có tính ăn tạp, ngoài thức ăn tự nhiên có trong ao như phù du
động thực vật, sinh vật đáy, rong tảo sống bám, mùn bã hữu cơ… cá còn ăn được
các thức ăn do con người cung cấp như ăn thức ăn chế biến và thức ăn viên công
nghiệp.
Để duy trì thức ăn tự nhiên, phải định kỳ bón thêm phân hữu cơ đã ủ hoại
10 – 15 kg/100m
2
/tuần hoặc 100 – 150g phân vô cơ (DAP, NPK)/tuần.
Thức ăn chế biến gồm cám gạo (60 – 70%) và bột cá (30 – 40%) được
trộn đều và nấu chín, trộn thêm premix khoáng và vitamin A, D, E, C (tổng cộng
0,2 – 0,3% tổng trọng lượng thức ăn). Hàm lượng đạm trong thức ăn dao động từ
13
25% ở 2 tháng đầu, sau đó giảm dần xuống 22% rồi 20% ở tháng thứ 3,4 và 18%
cho hai tháng nuôi cuối. Khẩu phần ăn 4 – 6% trọng lượng thân/ngày. Mỗi ngày
cho cá ăn 2 lần vào buổi sáng và chiều mát.
2.3.4 Chăm sóc và quản lí
Cho cá ăn thức ăn viên công nghiệp cần phải chọn loại kích cỡ thức ăn
phù hợp với độ lớn và kích thước miệng để cá có khả năng sử dụng thức
ăn hiệu quả nhất. Hàm lượng đạm trong thức ăn cũng dao động từ 25 – 28%,
giảm dần theo tuổi của cá. Khẩu phần ăn thức ăn viên công nghiệp từ 1 – 1,5%
trọng lượng thân/ngày và cho cá ăn ngày 2 lần vào sáng sớm và chiều mát.

Ngoài ra, trong thời gian nuôi, thức ăn nên có bổ sung thêm một số loại men tiêu
hoá nhằm kích thích cho cá ăn ngon và tiêu hoá thức ăn tốt hơn tránh hiện tượng cá bị
chướng bụng, đầy hơi.
Nước ao cần được chủ động điều chỉnh tăng cao hoặc giảm thấp phù hợp với các
giai đoạn phát triển của cá nuôi. Giai đoạn hai tuần đầu mới thả cá giống, mực nước ao
cần đạt 0,4 – 0,5m, sau đó tiếp tục dâng từ từ, mỗi tuần cao hơn 0,2m cho đến khi mức
nước đạt tốt đa.
Theo dõi mực nước hàng ngày, kiểm tra các yếu tố thuỷ lý, thuỷ hoá của
nước ao như nhiệt độ nước, pH, độ trong, độ mặn. Kiểm tra bờ và cống ao đề
phòng bờ bị rò rỉ do cua còng đào hang, lưới chắn bị thủng (do bị mục hoặc cua
còng kẹp làm rách lưới). Vào mùa mưa, độ mặn nguồn nước cấp và nước trong
ao có xu hướng giảm dần, chú ý độ mặn của nước cấp cho ao phải tương đương
hoặc không quá chênh lệch với độ mặn nước ao để tránh cá bị sốc. Độ mặn của
nước ao nuôi cá bống Kèo, dù vào mùa mưa cũng không nên để quá thấp dưới
3
0
/
00
. Định kỳ mỗi tuần thay nước 1 lần, mỗi lần khoảng 30% lượng nước ao. Nếu
nước ao bị nhiễm bẩn, màu nước xanh quá đậm hoặc chuyển màu nâu, có mùi
hôi thì cần phải thay ngay nước mới trong sạch.
Có nhiều loài địch hại săn bắt và ăn thịt cá Bống Kèo như chim Cồng cộc,
rắn nước biển (con đẻn), cá Bống mọi, Bống cát…Để phòng trừ địch hại, khâu
quan trọng khi cải tạo ao là phải tìm diệt hết mọi cá tạp, cá dữ, khi lấy nước vào
ao lúc cấp nước lần đầu hoặc các lần thay nước định kỳ, phải chắn lọc kỹ, bóng
mọi, bóng cát nhỏ lọt vào ao qua đường cấp nước, các loại chim cò.
2.3.5 Thu hoạch
Sau 5-6 tháng nuôi, cá bống kèo có thể đạt trọng lượng trung bình là 20-
30 g/con (30-50 con/kg), tuỳ theo giá cả thị trường, người nuôi chọn thời điểm để
thu hoạch. Theo kinh nghiệm của nhiều ngư dân, việc thu hoạch cá bống kèo có

nhiều cách, có thể dùng lưới kéo, nhưng cách này không thể thu hoạch hết cá
trong ao. Ngư dân lợi dụng đặc tính thích bơi ngược nước của cá bống kèo dùng
14
một loại dụng cụ là “xà lú” để bắt cá chạy ngược nước thì có hiệu quả hơn thu
triệt để hơn. Trước khi thu hoạch khoảng 10 ngày, cần giữ cho môi trường ao
nuôi thật ổn định. Trước khi thuỷ triều cường thì tháo hoặc tát bớt nước ao, khi
bắt đầu thuỷ triều cường thì đưa nước vào ao. Sự chênh lệch mực nước sẽ kích
thích cá bống kèo bơi ngược dòng nước chui vào trong xà lú. Sau mỗi đợt thu
hoạch lại tát cạn ao hơn và tiếp tục cho nước thuỷ triều vào ao để bắt cá cho đến
khi ao cạn hoàn toàn và thu hết cá.
Ngoài ra để thu hoạch những cá còn không chịu ngược nước, ngư dân
dùng dây thuốc cá với liều lượng thấp rải xuống ao nhằm làm cho cá phải ngoi
lên mặt nước và dùng lưới để kéo, nhưng cách bắt này làm cho cá dễ chết, bán
không được giá, thường để phơi làm khô cá bống kèo.
Tỷ lệ sống của cá thương phẩm nuôi bằng con giống tự nhiên hiện nay còn
chưa ổn định. Theo kết quả khảo sát từ những hộ nuôi cá bống kèo tại vùng Vĩnh
Châu - Bạc Liêu, Long Phú (Sóc Trăng) và Bến Tre, cho thấy tỷ lệ sống cá nuôi
dao động trung bình từ 15-50 %. Một thực tế là con giống thu từ tự nhiên thường
có tỷ lệ lẫn giống các loài cá khác, có khi lẫn giống tới 30%.
Năng suất nuôi trung bình ở các địa phương hiện nay đạt trong khoảng 1000-
2000kg/ha. lợi nhuận mang lại do nuôi cá bống kèo từ vài triệu đồng đến hàng
chục triệu đồng/ha.
2.3.6 Một số bệnh
Bệnh nhiễm khuẩn huyết Aeromonas
Nguyên nhân: Do các vi khuẩn Aeromonas (A.hydrophil, A. caviae, A.
sobria) gây ra. Bệnh phát sinh khi môi trường ô nhiễm, oxy hòa tan thấp, nuôi
mật độ dày. Bệnh có thể xuất hiện quanh năm.
Triệu chứng: Mình cá có những mảng đỏ với nhiều khối u, bụng có từng
vùng sẫm màu, lưng có nhiều vết thương, đuôi và vây bị hoại tử, mắt đục, lồi,
sưng phù, hậu môn sưng to. Cá bỏ ăn, nổi nghiêng hoặc nổi đứng lờ đờ trên mặt

nước.
Bệnh trắng đuôi
Nguyên nhân: Do vi khuẩn Pseudomonas dermoalba gây ra.
Triệu chứng: trên đuôi có các đốm trắng, sau đó lây lan đến vây lưng, vây hậu
môn. Dần dần đuôi và vây bị xuất huyết, rách nát. Khi bệnh nặng, cá bỏ ăn, bơi
lờ đờ, đầu chúi xuống hoặc treo lơ lửng trên mặt nước.
15
Bệnh tuột nhớt
Nguyên nhân: Do vi khuẩn Pseudomonas dermoalba gây ra. Bệnh phát sinh do cá
bị sây sát trong đánh bắt, vận chuyển hoặc do môi trường nước thay đổi đột ngột.
Bệnh có khả năng lây lan rất nhanh giữa các cá thể trong cùng 1 ao và giữa các
ao.
Triệu chứng: toàn thân bao phủ một lớp nhớt màu trắng đục. Cá tách đàn, bơi lờ
đờ, bỏ ăn. Khi bệnh nặng, mình cá lở loét, vây rách nát, sau đó cá chết rất
nhanh
16
CHƯƠNG III
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu:
Thời gian: 6/10/2011
Địa điểm: Huyện Hòa Bình_Bạc Liêu
3.2. Phương pháp nghiên cứu:
3.2.1. Số liệu sơ cấp:
Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra ngẫu nhiên 3 nông hộ nuôi
cá kèo thương phẩm tại huyện Hòa Bình tỉnh Bạc Liêu bằng biểu mẫu điều tra đã
được soạn sẵn.
3.2.2. Xử lý số liệu:
Số liệu được thu thập, tổng hợp và xử lý bằng phần mềm Excel.
3.2.3. Phương tiện điều tra:
T

Thành lập các phiếu điều tra bao gồm các biến cơ bản trong phỏng vấn:
Thông tin chung của các nông hộ:
1. Tên chủ hộ
2. Địa chỉ
3. Số điện thoại
4. Kinh nghiệm nuôi
5. Số thành viên trong gia đình
6. Diện tích sản xuất
7. Địa hình ao nuôi
Thông tin sản xuất:
1. Thiết kế ao nuôi (độ sâu, lưới chắn, bờ ao )
2. Mùa vụ
3. Cải tạo ao
4. Mật độ thả nuôi
5. Kỹ thuật cho ăn
6. Bệnh thường gặp
7. Kích cỡ cá thương phẩm
8. Thu hoạch
17
Thông tin thị trường:
1. Nguồn con giống
2. Đầu ra cho cá thương phẩm
Thông tin kinh tế
1. Nguồn vốn
2. Chi phí đầu tư trang thiết bị
3. Chi phí cá giống, thức ăn, hóa chất
4. Giá cá thương phẩm
5. Lợi nhuận / ao
3.2.4.Kế hoạch thực hiện:
Nhóm được chia thành 3 nhóm nhỏ, tiến hành khảo sát ở 3 nông hộ,

phỏng vấn các nông hộ theo phiếu điều tra.
18
CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Hiện trạng nuôi cá kèo ở Tỉnh Bạc Liêu.
Trong những năm gần đây nghề nuôi tôm sú đã và đang gặp nhiều khó
khăn, là tình hình chung của nhiều nông hộ ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nói
chung và Bạc Liêu nói riêng. Do đó nhiều nông dân đã tìm đến những đối tượng
thủy sản dễ nuôi, ít mầm bệnh để cải thiện thu nhập và cá kèo là một trong những
đối tượng được quan tâm hiện nay.
Qua khảo sát ngẫu nhiên 3 hộ nuôi cá kèo trên địa bàn huyện Hòa Bình
tỉnh Bạc Liêu cho thấy cá kèo bắt đầu được thả nuôi gần đây (trong đó có 1 hộ
nuôi từ năm 2009, 2 hộ nuôi từ năm 2011).
Sở dĩ mô hình nuôi cá kèo được quan tâm phát triển trong những năm gần
đây do cá kèo là đối tượng dễ nuôi, ít bệnh và có thể tận dụng được diện tích
những ao nuôi tôm cũ nhưng lại cho lợi nhuận cao.
Theo khảo sát ở 3 nông hộ, do cá kèo là đối tượng nuôi mới, nên chủ yếu
được nuôi theo kinh nghiệm và học hỏi từ nông dân khác, chiếm 100%.
4.2.Khía cạnh kỹ thuật
4.2.1 Chuẩn bị ao nuôi
Qua kết quả điều tra cho thấy, hầu hết các nông hộ đều tận dụng ao nuôi
tôm công nghiệp để thả nuôi cá kèo thâm canh (tỉ lệ này là 100%).
Rào lưới khắp ao để tránh địch hại.
Với diện tích các ao nuôi lần lượt là: 2000m
2
, 2000m
2
, 3000m
2
và cũng

từng điều kiện về vốn và diện tích đất của nông hộ mà diện tích ao nuôi có khác
nhau.
So với một số tài liệu nghiên cứu thì các diện tích ao nuôi trên là thích
hợp.
Về công tác cải tạo ao: trong 3 hộ điều tra thì chỉ có 1 hộ là tiến hành sên
vét đáy ao (chi phí khoãng 2 triệu đồng, sên đáy 30cm), quá trình cải tạo ao được
tiến hành lần lượt theo các bước tát cạn ao, diệt cá tạp ( sử dụng Saponine hoặc
dây thuốc cá), khoảng 2-3 ngày sau lấy nước vào khoảng 0,2 – 0,3m (hộ 1 sử
dụng 150kg/2000m
2
và nữa chai Iodine, hộ 2 và hộ 3 không sử dụng vôi. Thời
gian thả giống không cố định vì phụ thuộc nhiều vào nguồn giống khai thác
ngoài tự nhiên. So sánh với kết quả nghiên cứu thì công tác cải tạo ao của các
19
nông hộ chưa thật sự khoa học, ở đây đã bỏ qua các bước sên vét đáy ao, phơi
nền đáy, gây màu nước tạo thức ăn tự nhiên cho cá.
4.2.2 Mùa vụ nuôi
Các hộ nuôi đều thả giống vào khoảng tháng 7 -8 tháng sau khi nuôi tôm
vụ 1 (với tâm lí chung từ thất bại của vụ tôm họ chuyển đối tượng nuôi, và vì
cá kèo là loài dể nuôi, dể quản lí chăm sóc,thời gian nuôi ngắn, ít dịch bệnh) và
đây cũng là lúc con giống ngoài tự nhiên dồi giàu.
4.2.3 Kích cỡ và mật độ thả giống cá nuôi.
- Kích cỡ cá giống:
Nên chọn cá giống khoảng 1,5 – 2cm , cá giống ương nuôi trong ao là
tốt nhất vì sẽ có kích cỡ đồng đều hơn, khoẻ hơn vì đã thích nghi với điều
kiện trong ao. Chọn cá khoẻ mạnh, hoạt động nhanh nhẹn, không bị nhiễm
bệnh, màu sắc tươi sáng, có màu vàng và nhiều nhớt.
- Mật độ thả nuôi:
Qua kết quả điều tra các hộ nuôi đều thả giống với mật độ cao: 150 –
200con/m

2
vì kích cỡ giống tương đối nhỏ và trừ hao hụt trong khi nuôi.
Nguyên nhân là do ở khu vực nuôi này các hộ nuôi chủ động về nguồn
nước → điều kiện quản lý và kiểm soát chất lượng nước được chủ động
4.2.4 Chăm sóc và quản lý ao nuôi
a. Thức ăn
Tất cả các hộ nuôi đều chỉ sử dụng thức ăn công nghiệp dạng viên (chìm và
nổi ) trong quá trình nuôi, tuy nhiên có sự chênh lệch về thành phần phần trăm
đạm giữa các nông hộ. Trung bình hàm lượng đạm trong thức ăn dao động từ 30-
40% ở 2 tháng đầu, sau đó giảm dần xuống 22% rồi 20% ở tháng thứ 3,4 và 18%
cho hai tháng nuôi cuối. Khẩu phần ăn 4 – 6% trọng lượng thân/ngày. Mỗi ngày
cho cá ăn 2 lần vào buổi sáng và chiều mát.
So sánh với hàm lượng đạm trong thức ăn lý thuyết của cá kèo từ
25 – 28%, giảm dần theo tuổi của cá. Khẩu phần ăn thức ăn viên công nghiệp
từ 1 – 1,5% trọng lượng thân/ngày và cho cá ăn ngày 2 lần vào sáng sớm và
chiều mát.
→ Các hộ nuôi đã quá lạm dụng thành phần đạm trong khẫu phần ăn
của cá với tâm lý thức càng giàu đạm cá càng dể tăng trưởng.
Ngoài ra, trong thời gian nuôi, n ông hộ thư ờng trộn tỏi và o
thứ c ă n, t hỉnh th oản g thức ăn được bổ xung men tiêu hóa và vitamin C.
Điều này giúp tăng sức đề kháng và tăng khả năng tiêu hóa thức ăn của cá khi
thời tiết bất lợi.
20
b. Quản lý ao nuôi
- Quản lý chất lượng nước:
Nước ao cần được chủ động điều chỉnh tăng cao hoặc giảm thấp phù
hợp với các giai đoạn phát triển của cá nuôi. Giai đoạn hai tuần đầu mới thả cá
giống, mực nước ao cần đạt 0,2 – 0,3m, sau đó tiếp tục dâng từ từ, mỗi tuần cao
hơn 0,2m cho đến khi mức nước đạt tối đa.
. Kiểm tra bờ và cống ao đề phòng bờ bị rò rỉ do cua còng đào hang,

lưới chắn bị thủng (do bị mục hoặc cua còng kẹp làm rách lưới
- Phòng trừ địch hại:
Có nhiều loài địch hại săn bắt và ăn thịt cá bống kèo như chim cồng
cộc, rắn nước biển (con đẻn), cá nâu, cá rô phi, cá bống mọi, bống cát…Để
phòng trừ địch hại, khâu quan trọng khi cải tạo ao là phải tìm diệt hết mọi cá
tạp, cá dữ, khi lấy nước vào ao lúc cấp nước lần đầu hoặc các lần thay nước
định kỳ, phải chắn lọc kỹ, không để cá nâu và rô phi, bóng mọi, bóng cát
nhỏ lọt vào ao qua đường cấp nước. Đối với chim cồng cộc, nên đặt các bù
nhìn trên bờ ao hoặc treo dây ngang dọc trên mặt ao có gắn các ống bơ (lon)
sữa bò nhằm tạo ra tiếng kêu để xua đuổi chim. Có thể dùng ná (giàng thun)
để bắn chim và đuổi chim cũng có hiệu quả.
Ngoài ra, để bắt các loài cá bống cát, bống mọi, có thể điều tiết mực
nước trong ao (dâng cao sau đó hạ thấp 5 – 10cm) khi đó các loại cá bống mọi,
bống cát có thể nằm lại ở phần mái bờ mà nước đã rút và ta dùng vợt thu gom
chúng lại.
4.2.5 Thu hoạch cá nuôi
Sau 5-6 tháng nuôi, cá bống kèo có thể đạt trọng lượng trung bình là 20-
30 g/con (30-50 con/kg), tuỳ theo giá cả thị trường, người nuôi chọn thời điểm
để thu hoạch. Theo kinh nghiệm của nhiều ngư dân, việc thu hoạch cá bống
kèo có nhiều cách, có thể dùng lưới kéo, nhưng cách này không thể thu hoạch
hết cá trong ao.
Ngư dân lợi dụng đặc tính thích bơi ngược nước của cá bống kèo dùng
một loại dụng cụ là “xà lú” để bắt cá chạy ngược nước thì có hiệu quả hơn thu
triệt để hơn. Trước khi thu hoạch khoảng 10 ngày, cần giữ cho môi trường ao
nuôi thật ổn định. Trước khi thuỷ triều cường thì tháo hoặc tát bớt nước ao, khi
bắt đầu thuỷ triều cường thì đưa nước vào ao. Sự chênh lệch mực nước sẽ kích
thích cá bống kèo bơi ngược dòng nước chui vào trong xà lú. Sau mỗi đợt thu
hoạch lại tát cạn ao hơn và tiếp tục cho nước thuỷ triều vào ao để bắt cá cho
21
đến khi ao cạn hoàn toàn và thu hết cá.

Ngoài ra để thu hoạch những cá còn “ngoan cố” không chịu ngược
nước, ngư dân dùng dây thuốc cá với liều lượng thấp rải xuống ao nhằm làm
cho cá phải ngoi lên mặt nước và dùng lưới để kéo, nhưng cách bắt này làm
cho cá dễ chết, bán không được giá, thường để phơi làm khô cá bống kèo.
Tỷ lệ sống của cá thương phẩm nuôi bằng con giống tự nhiên hiện nay
còn chưa ổn định. Theo kết quả khảo sát từ những hộ nuôi cá bống kèo tại
vùng Vĩnh Châu - Bạc Liêu, Long Phú (Sóc Trăng) và Bến Tre, cho thấy tỷ
lệ sống cá nuôi dao động trung bình từ 15-50 %. Một thực tế là con giống thu
từ tự nhiên thường có tỷ lệ lẫn giống các loài cá khác, có khi lẫn giống tới
30%.
Năng suất nuôi trung bình ở các địa phương hiện nay đạt trong
khoảng 1000-2000kg/ha. lợi nhuận mang lại do nuôi cá bống kèo từ vài
chục triệu đồng đến hàng trăm triệu đồng/ha.
4.3 Hoạch toán kinh tế của mô hình nuôi cá kèo thương phẩm.
Bảng Hoạch toán kinh tế (mô hình của anh Phan Văn Tiến trên 0,2 ha.)
Chỉ tiêu Thành tiền
Chi phí thức ăn(Trđ/ha) 73,5
Chi phí giống(Trđ/ha) 66
Chi phí khác(Trđ/ha) 5
Tổng chi(Trđ/ha) 144,5
Sản lượng(tấn) 3,5
Giá bán(đ/kg) 50.000
Tổng thu(Trđ/ha) 175
Lợi nhuận(Trđ/ha) 30,5
Họ và
tên
Xã Kinh
nghiệm
Tuổi DT/ao(ha) Ngày tháng Bón vôi
22

nuôi(năm)
Phan Văn
Tiến
Vĩnh
Mỹ A
2 28 0.2 06/10/2011 CaCO
3
Đặng
Văn
Hùng
Thị
Trấn
HB
1 52 0,8 06/10/2011 CaCO
3
Đoàn
Văn
Đăng
Thị
Trấn
HB
1 34 0,2 06/10/2011
Họ và
Tên
Tháng
thả nuôi
Cỡ giống
(cm)
Mật độ
(con/m

2
)
Nguồn
giống
Giá giống
(đ/con)
Số kg thức ăn
Phan Văn
Tiến
7 2 150 Tự nhiên 220 3300
Đặng
Văn
Hùng
6(AL) 2 150 Tự nhiên 225
Đoàn
Văn
Đăng
8 2 200 Tự nhiên 195
Họ và
Tên
FCR
Năng
suất
(tấn/ha/vụ)
Giá
(đ/kg)
Tổng chi
(triệu)
Tổng thu
(triệu)

Lợi nhuận
Phan Văn
Tiến
1.4 17,5 50000 722,5 875 152,5
Đặng
Văn
Hùng
60000
Đoàn
Văn
Đăng
55000
23
4.4 Thuận lợi và khó khăn của mô hình
ĐIỂM MẠNH
(Strengths)
Diện tích mặt nước sản xuất lớn. Nguồn lao động địa
phương có sẵn. Nguồn nước được lấy dễ dàng.
Có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho nuôi cá kèo,cá dể
nuôi, ít bênh, mau thu hoạch, tiêu thụ dể dàng.
ĐIỂM YẾU
(Weaknesses)
Nguồn giống khan hiếm,chưa sản xuất nhân tao được,
nuôi tự phát chưa có quy hoạch, kỹ thuật nuôi của
người dân còn hạn chế, chủ yếu là nuôi theo kinh
nghiệm.
CƠ HỘI
(Opportunities)
Hiện nay dịch bệnh xảy ra trên tôm sú gây thiệt hại
cho người dân nên nuôi cá kèo là mô hình chuyển đổi

đem lại hiệu quả khả quan cho người dân, giải quyết
được việc làm cho người lao động nông thôn.
NGUY CƠ
(Threats)
Làm giảm nguồn cá kèo tự nhiên, nếu nuôi tự phát
không có huy hoạch có thể dẩn dến dịch bệnh, ô
nhiểm môi trường.
24
CHƯƠNG V
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1.Kết luận:
25

×