Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

chủ trương của đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới 9đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.78 KB, 52 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ
MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐCS VIỆT NAM
BÀI TIỂU LUẬN:
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI SAU THỜI
KÌ ĐỔI MỚI
Giảng viên hướng dẫn:thầy Trần Ngọc Anh
Nhóm sinh viên thực hiện:nhóm 6
Lưu hành nội bộ, tháng 11 năm 2012
2
2 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
MỤC LỤC
Lời nói đầu 3
PHẦN I: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 4
PHẦN II: QUAN ĐIỂM VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 11
PHẦN III: CHỦ TRƯƠNG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 20
PHẦN IV: ĐÁNH GIÁ SỰ THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI 31
Tài liệu tham khảo 49
3
3 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
LỜI NÓI ĐẦU
Giải quyết các vấn đề xã hội phản ánh bản chất của một chế độ của con người, do
con người và vì con người, một thuộc tính cơ bản của XHCN. Thực tế đã chứng minh
một nhà nước không quan tâm đến xã hội, không quan tâm đến quyền lợi của người dân
thì nhà nước đó sớm muộn cũng tiêu vọng. Đó chính là nhà nước trong thời kì chiếm hữu
nô lệ hay phong kiến. Chính vì vậy,là một nước XHCN của dân do dân vì dân,là một nhà
nước tiến bộ, nước ta lại càng phải đặt việc giải quyết các vấn đề xã hội lên hàng đầu, là
một trong những nhiệm vụ cấp bách của quốc gia.Chỉ có việc giải quyết tốt các vấn đề xã
hội mới mang lại sự ổn định trong quốc gia để phát triển kinh tế, để giúp đất nước ngày
càng hoàn thiện và phát triển phồn thịnh hơn. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi đã nhận
thấy được rằng Đảng và Nhà nước đang nỗ lực cố gắng hết sức mình để giải quyết triệt


để các vấn đề xã hội nhằm mang lại cuộc sống tốt đẹp nhất cho nhân dân ta. Mặc dù vẫn
còn có những hạn chế song người dân VN cho đến nay đã có được cuộc sống tốt đẹp hơn
và hi vọng trong tương lai mức sống của nhân dân ta được nâng cao như các nước phát
triển trong khu vực và xa hơn nữa là các cường quốc như mong ước của Bác Hồ. Để hiểu
rõ quyết tâm cũng như quan điểm, chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội của Đảng như
thế nào chúng tôi xin trình bày tóm gọn dưới đây.
PHẦN I: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
4
4 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
Sau 26 năm xây dựng nhà nước quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng ta đã có những thành tựa nhất định song hạn chế vẫn tồn tại.Sai sót là không
thể thiếu trong lãnh đạo, quan trọng ta đã biết khắc phục những chính sách đã lỗi thời. Cụ
5
5 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
thể trước đại hội VI ta có rất nhiều các khó khăn và các chính sách lỗi thời cần giải quyết.
Các khó khăn và chính sách lỗi thời trước đại hội VI
Trước nhiều thách thức Đại hội Đảng lần thứ VI (12- 1986) xác định quyết tâm:
“Đảng phải đổi mới về nhiều mặt đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi hỏi của
thời đại, đối phó thắng lợi với mọi thử thách, đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của
nhân dân… đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý
nghĩa sống còn”.
Một nguyên tắc căn bản của công cuộc đổi mới được xác định là: “Xây dựng một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi
mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được
thực hiện có hiệu quả bằng những quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình
thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam diễn ra trên tất cả
Nâng tầm chính sách xã hội như
chính sách kinh tế
Mục tiêu chính sách xã hội thống nhất mục tiêu chính sách kinh tế:
phát triển nhân tố con người

Kinh tế là cơ sở vật chất phát triển chính sách xã hội, chính sách xã hội là mục
đích hoạt động của kinh tế
6
6 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
các lĩnh vực đời sống xã hội, nhưng nhìn một cách khái quát được thể hiện tập trung trên
4 lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
Vàtại Đại Hội VI (1986) Đảng ta đã chỉ rõ: “ Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế
quan điểm của Đảng và nhà nước về sự thống nhất chính sách kinh tế và chính sách xã
hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự
nghiệp xây dựng xã hội”; “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện
chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh
tế.”
1
.
Với quan điểm đó, Đại hội VI đã đề ra một số phương hướng, nhiệm vụ của chính sách
xã hội.Đó là, cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định được những nhiệm vụ,
mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên.
Giải quyết các vấn đề Xã hội tại Đại hội VI
“Thực hiện một quy chế làm việc khoa học, có hiệu suất cao; xây dựng bộ máy
gọn nhẹ, có chất lượng cao với một đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị và năng lực
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.”
Có thể thấy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là lần đầu tiên ta nêu
lên khái niệm "Chính sách xã hội".Đây là sự đổi mới tư duy về giải quyết các vấn đề xã
1Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự Thật, Hà Nội, tr86.
7
7 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước, đặc biệt là giải quyết mối
quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Tiếp đó, đến Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI, tháng 3-1989), Đảng ta đã bổ sung

quan điểm về giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã
hội: "Đổi mới cách xem xét và giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng bảo đảm sự thống
nhất hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội''
2
.
Kết quả, sau 5 năm đổi mới, thực hiện chính sách xã hội đã đạt được những tiến
bộ nhất định, đời sống mọi người so với 5 năm trước nhiều mặt được cải thiện.Tuy nhiên
vì chính sách xã hội "chưa được quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó và còn nhiều
thiếu sót'' nên đời sống nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Vì thế, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6-1991) Đảng tiếp tục khẳng
định và làm sáng tỏ thêm vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội: "Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
nhân dân"
3
. Đồng thời, chỉ rõ vai trò của chính sách xã hội đối với phát triển kinh tế: "Coi
phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt
chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế''
4
.
Với nhận định trên Đảng xây dựng phương hướng, nhiệm vụ của chính sách xã
hội, tại Đại hội VII với mục tiêu tiếp tục hoàn thiện và bổ sung nhằm gắn kết sự phát
triển của kinh tế với các chính sách xã hội. Bao gồm các chính sách cơ bản sau:
2Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000,
T.49, tr.298
3
;4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,Sự Thật, Hà
Nội, 1991, tr.73, 144
4

Đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cho nhân dân.
Tạo điều kiện cho nhân dân cải thiện cơ sở vật chất
Xây dựng và phát triện cơ sở vật chất công cộng.
8
8 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
Giải quyết các vấn đề Đại hội VII.
Trong thực tiễn đổi mới Đảng nhận ra rằng: “Tuy phát triển kinh tế thực chất là
tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Nhưng không phải lúc nào
tăng trưởng kinh tế cũng đồng hành hay là dẫn đến tiến bộ xã hội. Thậm chí có nơi, có
lúc tăng trưởng kinh tế còn có thể đem đến thảm họa cho con người, nếu kết quả của tăng
trưởng kinh tế được sử dụng cho những mục đích không tốt đẹp. Vì vậy, phát triển kinh tế
không chỉ là sự tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà điều quan trọng là phải nhằm mục đích
tạo điều kiện để thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm cho sự tăng trưởng hướng tới tiến
bộ xã hội.”Vậy nên, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994),
Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển''.Đây là một nhận thức mới của Đảng ta sau quá trình xây
dựng lập luận bắt đầu từ Đại hội Đảng lần VI.
Trên cơ sở những nhận thức mới về phát triển xã hội được hình thành từ thực tiễn
phát triển đất nước sau 10 năm đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6-1996) đề ra
một hệ thống quan điểm: "Tăng cường kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể
hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở
việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của
mình; Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh
Giải quyết theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp các vấn đề
xã hội.
Khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm
trọng
Viện trợ giảm, bị bao vây, cô lập và cấm
vận

Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền công bằng xã
hội.
Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã
hội.
Thực hiện nhiều hình thức phân
phối.
Xóa đói giảm nghèo và tích cực làm
giàu.
Các chính sách xã hội giải quyết theo tình thần xã hội
hóa.
9
9 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
tế là chủ yếu đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả
sản xuất inh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết
hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động; Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
tích cực xoá đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức
sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư; phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn, đáp nghĩa”, “nhân hậu, thuỷ chung”; các vấn
đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng
cốt đồng thờiđộng viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá
nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội"
5
.
Đại hội VIII đã đề ra chủ trương, hệ thống chính sách hoạch định theo những quan
điểm sau đây:
Giải Quyết các vấn đề Đại hội VIII với phương hướng
“Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, tập trung mọi lực lượng, tranh thủ
thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng
bộ.”
5Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Chính Trị

Quốc Gia, Hà Nội, 1996, tr.113-114
Làm lành mạnh hóa xã hội, thức thiện
công bằng trong phân phối
Tăng cường kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và trong suốt quá trình phát triển
Phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu
phân phối kết quả sản xuất
10
10 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
Có thể nói rằng, đến đây tư duy lý luận tổng thể về phát triển xã hội của Đảng đã
hình thành. Hệ thống quan điểm trên đây đã thể hiện một cách toàn diện các yếu tố cơ
bản cấu thành phát triển xã có quan hệ chặt chẽ, điều kiện, nguồn lực, chính sách giải
quyết các vấn đề xã hội trong quá trình đồi mới và phát triển đất nước.
Đại đại hội IX (4-2001), Đảng ta tiếp tục bổ sung và hoàn thiện từng bước về lý
luận phát triển xã hội, với quan điểm: “Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát
triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh
mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các
quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”
6
. Và một số nội dung chính
trong quan điểm được đưa ra bao gồm:
Giải quyết các vấn đề Xã hội tại Đại hội IX
“Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.”
Tại Đại hội X (4-2006). Đảng ta tiếp tục bổ sungquan điểm: “Kết hợp các mục tiêu
kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển,
thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội, 2001, tr.104

11
11 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh
tế - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc”
7
.
Đồng thời cũng chỉ rõ những hạn chế như: Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật
vững chắc, khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân,
nhu cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn chưa được đáp ứng tốt; tội phạm và tệ nạn
xã hội có chiều hướng tăng Để khắc phục tình trạng trên, Đại hội cũng đã đề ra chủ
trương:
7Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội, 2006, tr.101.
12
12 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
13
13 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
Giải quyết vấn đề tại Đại hội X
Ngoài ra, trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế được mở rộng,
thực hiện các hiệp định hợp tác đa phương, song phương khác đã góp phần tạo ra một
bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu.
Trong bối cảnh đó, việc gia nhập WTO sẽ nảy sinh các cá đề xã hội trong quá trình
thực thi các cam kết. Vì vậy, ta cần chuẩn bị tốt các điều kiện để bảo đảm thực hiện các
cam kết khi nước ta gia nhập WTO như đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật bảo đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế, tạo
điều kiện thuận lợi và có cơ chế khuyến khích các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam, phát huy tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế
Để thực hiện tốt các công việc trên, Đảng đã kịp thời xây dựng một cơ chế đánh

giá đúng đắn và cảnh báo định kỳ tác động của việc gia nhập WTO, nhất là đối với lĩnh
vực xã hội.Nhờ đó, từng doanh nghiệp đã đổi mới từ tư duy đến phong cách quản lý, đổi
mới thiết bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, giảm chi phí để tăng sức
cạnh tranh. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới
và thương hiệu mới.
Và hiện nay, Đại hội XI (1-2011) Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “phải coi trọng việc
kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
8
; bảo
đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với
người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn,
suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng
cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”.Đại hội XI đã đề ra chủ trương, hệ thống chính sách hoạch định theo những quan
điểm sau đây:
Giải quyết vấn đề xã hội tại Đại hội XI.
8Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội, 2011.
Phát triển nhanh, bền vững đồng thời thực hiện có hiệu quả tiến bộ và
công bằng xã hội.
Bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát
triển.
14
14 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
Đồng thời Đảng còn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục,
đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục;
tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối
sống chưa được ngăn chặn và đẩy lùi…
Trước tình hình đó để khắc phục được những hạn chế và đảm bảo thực hiện tốt
nhiệm vụ đề ra Đảng đã chủ trương phát triển toàn diện, mạnh mẽ các lĩnh vực văn hóa,

xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. “Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập
cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến
rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ
nghèo; cải thiện điều kiệnchăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Bảo vệ môi trường, chủ động
phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu”.
PHẦN II: QUAN ĐIỂM VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một trong những chủ trương, giải pháp lớn
nhằm phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Các vấn đề xã hội có
vai trò quan trọng đối với sự phát triển các ngành kinh tế, các lĩnh vực khác của xã hội,
do vị trí của con người trong xã hội qua từng thời kỳ lịch sử quy định. Tuy nhiên, vì địa
vị của con người ở mỗi chế độ xã hội khác nhau là không giống nhau, cho nên vai trò,
bản chất của các vấn đề xã hội cũng khác nhau. Chính vì thế qua các kỳ đại hội, Đảng ta
đã đề ra những nhiệm vụ khác nhau để phát triển, hoàn thiện mọi lĩnh vực của đời sống ,
xã hội.Một trong những vấn đề Đảng ta chú trọng là giải quyết các vấn đề xã hội trong
thời kỳ đổi mới. Để giải quyết tốt vấn đề xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại
hóa Đảng ta đã đưa ra các quan điểm sau:
1.Kết hợp các mục tiêu kinh tế và các mục tiêu xã hội.
• Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính tới mục tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội
có liên quan trực tiếp.
Đảng ta luôn nhấn mạnh phát triển kinh tế phải đi liền với việc giải quyết tốt
những vấn đề xã hội. Phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng đòi
hỏi phải giải quyết tốt những vấn đề xã hội, bởi lẽ phát triển kinh tế phải là sự phát
triển bền vững dựa trên những yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường
vững chắc…
Bền vững về mặt xã hội là bảo đảm vừa đạt được tăng trưởng kinh tế, vừa giữ
được ổn định xã hội, không có những xáo trộn xung đột, nổi loạn làm ảnh hưởng đến việc
huy động các nguồn lực cho sự phát triển. Trong phát triển bền vững, yếu tố kinh tế và
yếu tố xã hội quyện vào nhau, hòa hợp vào nhau. Mục tiêu phát triển kinh tế phải bao
15
15 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới

gồm cả mục tiêu giải quyết những vấn đề xã hội như vấn đề việc làm, xóa đói giảm
nghèo… thỏa mãn nhu cầu cơ bản của của nhân dân, công bằng xã hội. Ngược lại, mục
tiêu phát triển xã hội cũng nhằm tạo động lực phát triển kinh tế. Đó chính là sự khác nhau
căn bản về mục tiêu phát triển giữa con đường chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội mà
Đảng và nhân dân ta lựa chọn… Trên cơ sở nhận thức mới về vai trò của các vấn đề xã
hội, mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ:Trình độ phát triển
kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng mục tiêu xã hội là mục
đích của các hoạt động kinh tế.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 của Đảng đã đưa ra mục tiêu
chiến lược của sự phát triển: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận;
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
Đảng ta đã đề ra một số mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011-2015 là:
“Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011 - 2015: 7,0 - 7,5%/năm. Giá trị gia tăng
công nghiệp - xây dựng bình quân 5 năm tăng 7,8 - 8%; giá trị gia tăng nông nghiệp bình
quân 5 năm 2,6 - 3%/năm. Cơ cấu GDP: nông nghiệp 17 - 18%, công nghiệp và xây dựng
41 - 42%, dịch vụ 41 - 42%; sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ
cao đạt 35% tổng GDP; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%. Kim ngạch xuất khẩu tăng
bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập
khẩu. Vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP. Tỉ lệ huy động vào ngân
sách nhà nước đạt 23 - 24% GDP; giảm mức bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào
năm 2015. Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tỉ trọng lao động nông - lâm - thuỷ
sản năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã hội. Thu nhập của người dân nông thôn tăng
1,8 - 2 lần so với năm 2010. Tốc độ tăng dân số đến năm 2015 khoảng 1%. Năm 2015,
GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD. Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi.
Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm bình quân 2%/năm. Tỉ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt
42 - 43%.”
9

• Mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến các tác động và hậu quả xã hội có thể
xảy ra để chủ động xử lý.
9 Nghị quyết Đại hôi Đại biểu toàn quốc XI: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
16
16 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
Trong Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm (1996-2000) là: “Thanh toán nạn mù chữ
và hoàn thành cơ bản phổ cập tiểu học trong cả nước, phổ cập trung học cơ sở (lớp 9) ở
thành phố lớn và những nơi có điều kịên. Số lao động qua đào tạo chiếm khoảng 22 -
25% tổng số lao động. Chuyển mạnh về chất lượng giáo dục, đào tạo. Phát triển và nâng
cao năng lực, hiệu quả nghiên cứu, triển khai khoa học và công nghệ. Phát triển và nâng
cao chất lượng các hoạt động văn hóa, thông tin, y tế, thể dục thể thao, mở rộng tới các
vùng sâu và vùng xa.
Giảm nhịp độ phát triển dân số vào năm 2000 xuống dưới 1,8%. Xoá nạn đói đến
năm 2000 tỉ lệ người thu nhập quá thấp giảm xuống một nửa so với hiện nay, tỉ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 30%. Dân cư thành thị và 80% dân số ở
nông thôn được cung cấp nước sạch. Tăng tuổi thọ bình quân lên khoảng 70 tuổi.
Giải quyết việc làm cho 6,5 - 7 triệu người, giảm tỉ lệ thất nghiệp thành thị xuống
dưới 5% và tăng thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn trên 75%. Điều chỉnh tiền
lương và giải quyết những bất hợp lý trong chính sách tiền lương. Từng bước hình thành
quỹ bảo trợ thất nghiệp ở thành thị. Bảo đảm mức sống của người về hưu và các gia đình
có công với nước.
Hoàn thành căn bản định canh đinh cư và ổn định đời sống của đồng bào các dân
tộc ít người.
Ngăn chặn và giảm ô nhiễm môi trường ở thành phố, khu công nghiệp.
Đẩy lùi tham nhũng, các tệ nạn xã hội, loại trừ văn hoá độc hại.”
10
• Phải tạo được sự thống nhất, đồng bộ giữa các chính sách kinh tế và chính

sách xã hội.
Trong đại hội VII (1991) của Đảng, sau khi xác định được những đặc trưng cơ bản
của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, Đảng ta đã nêu lên định hướng
10Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 – 2000. Báo
cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng.
17
17 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
lớn:Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát triển mọi
tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng xã hội chủ nghĩa.Trên cơ sở định hướng
ấy, Đảng ta đã chính thức khẳng định một số quan điểm chỉ đạo việc kết hợp hài hòa giữa
tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Cụ thể là: Mục tiêu của chính sách xã
hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của yếu tố
con người và vì con người. “Kết hợp hài hòa giữa kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội,
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần
của nhân dân”
11
. Đồng thời chỉ rõ vai trò của chính sách xã hội đối với phát triển kinh
tế:“Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt
chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”.
12
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 Đảng ta xác định:Đổi mới
đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kiên trì và quyết liệt thực
hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp,
trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở
rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc
đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của
quá trình đổi mới và phát triển.
13
• Sự kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải được quán
triệt ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, ở từng đơn vị kinh tế cơ
sở.
11Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,Sự Thật, Hà
Nội, 1991, tr.73, 144.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,Sự Thật, Hà
Nội, 1991, tr.73, 144.
12
13 Chiến lược phát triển kinh tế 2011 -2020: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI.
18
18 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
Sự kết hợp này bảo đảm tính đồng bộ, công bằng và bình đẳng cho mọi người dân,
mọi vùng miền, khắc phục tình trạng phân hóa, bất bình đẳng quan điểm này được thể
hiện rất rõ trong đại hội X của Đảng.
2.Xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng
xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
• Trong từng bước và từng chính sách phát triển, cần đặt rõ và xử lý hợp lý việc
gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội.
Quan điểm này đã được Đảng xem là quan điểm quan trọng và bổ sung vào đại hội
VIII (1996) “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; khuyến khích làm giàu hợp phát đi
đối với tích cực xoá đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về
mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư; phát huy truyền thống tốt đẹp
của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, nhân hậu thuỷ chung”.
14

• Nhiệm vụ gắn kết này không dừng lại như một khẩu hiệu, một lời khuyến
nghị mà phải được pháp chế hóa thành các thể chế có tính cưỡng chế, buộc
các chủ thể phải thi hành.
Để thực hiện được các mục tiêu đã đặt ra thì việc gắn kết hai nhiệm vụ tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội không chỉ là lời phát động mang tính khẩu hiệu,
phong trào mà phải được thực thi triệt để dưới sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ của các cấp,
các ban, ngành mang tính cưỡng chế, bắt buộc.
• Các cơ quan, các nhà hoạch định chính sách phát triển quốc gia phải thấu
triệt quan điểm phát triển bền vững, phát triển “sạch”, phát triển hài hòa,
không chạy theo số lượng tăng trưởng bằng mọi giá.
14Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
19
19 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) Đảng đề ra quan điểmphát triển:
“Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên
suốt trong Chiến lược”
15
. Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ
mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú
trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết
hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế-xã hội phải luôn coi trọng
bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều
kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát
triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát
triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy
hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế-xã hội, phát triển hài hòa, không chạy
theo số lượng tăng trưởng bằng mọi giá.
Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc

phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để
bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
3.Chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ giữa
quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ.
• Chính sách xã hội có vị trí, vai trò tương đối so với kinh tế, nhưng không thể
tách rời trình độ phát triển kinh tế, cũng không thể dựa vào viện trợ như
thời bao cấp.
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung
với những đặc điểm chủ yếu là:
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động
trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh
được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ
chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước
giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản
phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
15 Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI.
20
20 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các
quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì
ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan
quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc, vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên,
vì không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là
chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Hạch toán
kinh tế chỉ là hình thức.

Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa
sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.
Văn kiện đại hội XI Đảng đã nêu ra trong phần định hướng phát triển kinh tế - xã
hội là: Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế. Tạo
bước phát triển mạnh mẽ về văn hóa, xã hội. Tăng đầu tư của Nhà nước, đồng thời đẩy
mạnh huy động các nguồn lực của xã hội để phát triển văn hóa, xã hội. Hoàn thiện hệ
thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các mục tiêu,
chính sách xã hội; thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.Nâng
cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các
nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Thực hiện có
hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn
lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất
và các vùng đặc biệt khó khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ
có thu nhập trung bình khá trở lên. Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế
phân hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị.
Hoàn thiện hệ thống chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ công cộng thích ứng
với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không ngừng nâng
cao mức bảo đảm các dịch vụ công cộng thiết yếu cho nhân dân.
Thực hiện tốt các chính sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm
khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người lao động. Bảo đảm quan hệ lao
động hài hoà, cải thiện môi trường và điều kiện lao động. Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc
làm. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài. Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng chính sách, người
nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị hoá. Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng,
21
21 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Khuyến khích và
tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm.

Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi và không ngừng nâng cao mức sống đối với người có
công. Mở rộng các hình thức trợ giúp và cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó
khăn.
Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt
đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ
giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động
lực phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Tập trung xây dựng đời sống, lối sống
và môi trường văn hóa lành mạnh; coi trọng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, văn hóa
trong kinh doanh và văn hóa trong ứng xử. Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt
Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã
hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ. Phát huy giá trị truyền thống tốt
đẹp, xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện tốt bình đẳng giới,
sự tiến bộ của phụ nữ; chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền trẻ em. Bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân theo quy định của pháp luật. Khuyến khích tự do sáng
tạo trong hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật để tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao,
có sức lan tỏa lớn, xứng đáng với tầm vóc của dân tộc.
Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao. Coi trọng bảo
tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc. Nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân
dân.Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin, báo chí, internet, xuất bản. Bảo đảm quyền
được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc. Tiếp tục đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả quản lý, đẩy
mạnh xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa, thông tin, hình thành thị trường văn hóa lành
mạnh. Đấu tranh chống các biểu hiện phi văn hóa, suy thoái đạo đức, lối sống, tác động
tiêu cực của các sản phẩm văn hóa thông tin đồi trụy, kích động bạo lực. Đẩy mạnh
phòng, chống tội phạm và các tệ nạn xã hội; giảm tệ nạn ma túy, mại dâm; ngăn chặn có
hiệu quả tai nạn giao thông. Nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa; xây dựng xã, phường, khu phố, thôn, bản đoàn kết, dân chủ, kỷ cương,
văn minh, lành mạnh.
• Trong chính sách xã hội, phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống
hiến và hưởng thụ. Đó là một yêu cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã

hội; xóa bỏ quan điểm bao cấp, cào bằng; chấm dứt cơ chế xin-cho trong
chính sách xã hội.
22
22 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối
hợp lý tư liệu sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử
dụng tốt năng lực của mình, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi
người dân được chăm sóc và nâng cao sức khỏe. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ
sở, hệ thống các chính sách bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, đổi mới cơ
chế khám chữa bệnh.
4.Coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con
người(HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội.
Quan điểm này khẳng định mục tiêu cuối cùng và cao nhất của sự phát triển là vì
con người, vì xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Phát triển phải
bền vững không chạy theo số lượng tăng trưởng.
Trong Đại hội XI Đảng ta chủ trương: “Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng
khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng
3.000 USD. Cùng với sự phát triển kinh tế Đảng ta còn quan tâm đến vấn đề văn hóa xã
hội Đảng phấn đấu đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình
cao của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức khoảng 1%; tuổi thọ bình quân đạt 75
tuổi; đạt 9 bác sĩ và 26 giường bệnh trên một vạn dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân;
lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỉ lệ hộ
nghèo giảm bình quân 1,5- 2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe
cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm
2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. Xoá nhà ở đơn sơ, tỉ
lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25m
2
sàn xây dựng nhà ở tính trên một người dân”.

16
16 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
/505605.htm
Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế.

23
23 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
PHẦN III: CHỦ TRƯƠNG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Một là,khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả
mục tiêu xóa đói giảm nghèo
 Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển.
Đảm bảo quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được
phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và
bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước.
Chính sách xã hội và chính sách ưu đãi dành cho người khuyết tật.
Tạo cơ hội, giúp đỡ cho những người thuộc vùng sâu vùng xa, người dân tộc thiểu
số.
Xóa bỏ bất bình đẳng giới trong tất cả các lĩnh vực.
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện các chính sách xã hội, hướng vào
phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực
mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong
các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”
17
 Tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cư bằng tài năng sáng tạo của bản
thân, trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức cho phép. Có chính sách hạn chế
phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị.
 Xây dựng và thực hiện có kết quả cao chương trình xóa đói giảm nghèo, đề phòng
tái đói, tái nghèo, nâng cao dần chuẩn đói nghèo khi mức sống chung tăng lên.

Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hoá giàu - nghèo đã đi đến chủ trương khuyến
khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói, giảm nghèo, thu hẹp dần
khoảng cách về trình độ phát triển, mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân
cư, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển xã hội.
Đói nghèo là vấn đề kinh tế, xã hội sâu sắc, xoá đói, giảm nghèo là một trong
những vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản lâu dài, là một chính sách quan trọng của Đảng
và Nhà nước ta. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà
nước luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác xoá đói, giảm nghèo. Đặc biệt từ năm
17Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG
24
24 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
1986, khởi đầu công cuộc đổi mới, một mặt Đảng khuyến khích mọi người trong các
thành phần kinh tế làm giàu hợp pháp, mặt khác tích cực chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm
nghèo trong cả nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (6-1993) đã
chỉ rõ: “Trợ giúp người nghèo chủ yếu bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn.
Hình thành quỹ xoá đói giảm nghèo ở từng địa phương trên cơ sở dân giúp dân, Nhà
nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ nhân đạo trong nước và quốc tế. Phấn đấu
tăng số hộ giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo”
Chủ trương xoá đói, giảm nghèo của Đảng đã trở thành cuộc vận động lớn, khởi
đầu ở thành phố Hồ Chí Minh (1992), tiếp đến là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, các
tỉnh Khu IV, Khu V cũ, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ… Đến tháng 12-1995 cả 53 tỉnh,
thành phố trong cả nước đều có chương trình xoá đói, giảm nghèo, trong đó 49 tỉnh,
thành phố đã thành lập ban chỉ đạo xoá đói, giảm nghèo ở cấp tỉnh, huyện, xã. Thực hiện
chủ trương của Đảng, Chính phủ đã chú trọng xây dựng các nguồn lực cho xoá đói, giảm
nghèo: nguồn lực về lao động và đất đai; nguồn lực về vốn; thực hiện chuyển giao công
nghệ giúp đỡ hộ đói, nghèo tổ chức cuộc sống; thực hiện các chính sách xã hội khác đối
với người đói, nghèo như hỗ trợ người nghèo về y tế, về giáo dục, khai trương Ngân hàng
phục vụ người nghèo (nay là Ngân hàng chính sách xã hội).
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng chủ trương:

“Thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số…”, xoá đói, giảm nghèo được xác định là một trong 11
chương trình quốc gia. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 23-7-1998, Chính phủ ra
Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo
giai đoạn 1998-2000 với mục tiêu và nhiều giải pháp cụ thể.Tiếp đó, ngày 31-7-1998,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương
trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa
(gọi tắt là Chương trình 135). Phong trào xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh với nhiều
mô hình gia đình, thôn, bản, xã, huyện xoá đói, giảm nghèo có hiệu quả đã được nhân
rộng như: mô hình tín dụng - tiết kiệm, mô hình xã hội hoá hỗ trợ nhà ở cho người nghèo,
mô hình “một mái nhà, một bể nước, một con bò”, mô hình dạy nghề ngắn hạn miễn phí,
mô hình liên thông xuất khẩu lao động… Các dự án thuộc Chương trình quốc gia xoá
đói, giảm nghèo theo Quyết định số 133 của Thủ tướng Chính phủ đã đi vào hoạt động và
đạt hiệu quả rõ rệt.
Vùng đặc biệt khó khăn ở nước ta hiện nay chủ yếu là vùng đồng bào dân tộc thiểu
số (DTTS) và miền núi,vùng cao, biên giới. Kết quả giảm nghèo ở những vùng này vẫn
25
25 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội sau thời kì đổi mới
chưa thật sự vững chắc, tỷ lệ hộ tái nghèo hằng năm còn cao. Có thể nói, đây vẫn là “rốn
nghèo”, là nơi tập trung nhiều người nghèo nhất. Trong số hơn 10 triệu người nghèo nhất
cả nước hiện nay, hầu hết là cư dân nông thôn miền núi và đồng bào DTTS. Vì vậy Đảng,
Nhà Nước và toàn dân phải tăng cường thực hiện xóa đói giảm nghèo những vùng đặc
biệt như thế này cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước
Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu nâng cao các phúc lợi xã
hội cơ bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng
chính sách Nhà nước tăng đầu tư từ ngân sách tiếp tục phát triển cơ sở vật chất - kỹ
thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội và bảo đảm cung ứng các dịch vụ xã
hội cơ bản, trước hết là về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng
chính sách và dịch vụ công cộng liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân và là yếu tố

quan trọng góp phần ổn định xã hội”.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Thực hiện có
hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa nguồn lực và
phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các
vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu
nhập trung bình khá trở lên. Có các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân
hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”.
Do đó, thành tựu ta đã đạt được là kết thúc năm 2011, tỷ lệ nghèo cả nước giảm
trên 2% còn 14%.
Xác định quá trình thực hiện mục tiêu giảm nghèo là quá trình thực hiện lâu dài và
bền bỉ, là trách nhiệm của Chính phủ cũng như của các cấp, các ngành, công tác giảm
nghèo năm 2012 tiếp tục được Chính phủ đầu tư, trong đó nhấn mạnh đến: việc thực hiện
có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo; xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng
nghèo, xã nghèo; đồng thời nâng cấp, cải tạo các tuyến trục giao thông nối vùng nghèo,
xã nghèo với nơi khác, tạo điều kiện thuận lợi cho vùng nghèo, vùng khó khăn phát triển.
Đi đôi với việc xây dựng kết cấu hạ tầng, tiếp tục tạo nguồn lực cần thiết để dân cư ở các
vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng nhanh thu nhập…
nhằm nâng dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo năm 2012
xuống còn 10-11%; tránh tình trạng tái nghèo trên địa bàn cả nước
Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo
việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
 Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm.
Theo thống kê của Bộ LĐ-TB&XH, năm 2011 cả nước có gần 13 triệu lao
động thuộc nhóm yếu thế là những người nghèo và người có hoàn cảnh đặc biệt khó

×