DANH MỤC BẢNG TRONG KHÓA LUẬN
Trang
Bảng 2.1: Thành phần dinh dưỡng và thành phần hóa học trong một số loại cây trồng dùng
làm thức ăn cho gia súc 5
Bảng 2.2: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn trên thế giới 6
từ năm 2008 - 2012 6
Bảng 2.3: Diện tích, năng suất, sản lượng sắn của những nước trồng sắn chính trên thế giới
năm 2012 7
Bảng 2.4: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn ở Việt Nam 9
giai đoạn 2007 - 2012 9
Bảng 2.5: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn của các vùng 10
trong cả nước năm 2012 10
Bảng 2.6: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn của Thái Nguyên 12
giai đoạn 2008 - 2012 12
Bảng 4.1: Diễn biến thời tiết khí hậu tỉnh Thái Nguyên năm 2013 25
Bảng 4.2: Tỷ lệ mọc mầm và thời gian mọc mầm của 27
giống sắn mới HL2004-28 27
Bảng 4.3: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến tốc độ tăng trưởng chiều cao cây của giống sắn
HL2004-28 29
Bảng 4.4: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến tốc độ ra lá 31
của giống sắn HL2004-28 31
Bảng 4.5: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến đặc điểm nông sinh học của 33
giống sắn HL2004-28 33
Bảng 4.6: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến các yếu tố cấu thành năng suất của giống sắn
HL2004-28 36
Bảng 4.7: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến năng suất củ tươi, năng suất thân lá, năng suất
sinh vật học và hệ số thu hoạch của giống sắn HL2004-28 38
Bảng 4.8: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến tỷ lệ chất khô, tỷ lệ tinh bột, năng suất củ khô,
năng suất tinh bột của giống sắn HL2004-28 42
Bảng 4.9: Hiệu quả kinh tế của các thời vụ trồng sắn HL2004-28 44
DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG KHÓA LUẬN
Trang
Hình 4.1: Biểu đồ ảnh hưởng của thời vụ trồng đến năng suất củ tươi, năng suất thân lá và
năng suất sinh vật học của giống sắn HL2004-28 39
Hình 4.2: Biểu đồ hệ số thu hoạch của giống sắn HL2004-28 41
42
Hình 4.3: Biểu đồ ảnh hưởng của thời vụ trồng đến tỷ lệ chất khô, tỷ lệ tinh bột của giống
sắn HL2004-28 42
Hình 4.4: Biểu đồ ảnh hưởng của thời vụ trồng đến năng suất củ khô, năng suất tinh bột
của giống sắn HL2004-28 43
Hình 4.5: Biểu đồ hiệu quả kinh tế của các thời vụ trồng sắn HL2004-28 45
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
CIAT : Trung tâm quốc tế nông nghiệp nhiệt đới
FAO : Tổ chức nông nghiệp và lương thực thế giới
IITA : Viện quốc tế nông nghiệp nhiệt đới
NSSVH : Năng suất sinh vật học
NSCT : Năng suất củ tươi
NSTB : Năng suất tinh bột
NSCK : Năng suất củ khô
NSTL : Năng suất thân lá
TLCK : Tỷ lệ chất khô
TLTB : Tỷ lệ tinh bột
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG TRONG KHÓA LUẬN 1
Trang 1
DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG KHÓA LUẬN 2
Trang 2
MỤC LỤC 4
Trang 4
PHẦN 1 1
MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích của đề tài 2
1.3. Yêu cầu của đề tài 2
1.4. Ý nghĩa đề tài 2
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 2
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất 3
PHẦN 2 4
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Nguồn gốc, giá trị dinh dưỡng của cây sắn 4
2.1.1. Nguồn gốc 4
2.1.2. Giá trị dinh dưỡng 5
2.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ sắn trên thế giới và Việt Nam 6
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn trên thế giới 6
2.2.2. Tình hình sản xuất sắn tại Việt Nam 8
2.2.3. Tình hình sản xuất sắn tại Thái Nguyên 12
2.3. Tình hình nghiên cứu, chọn tạo giống sắn trên thế giới và Việt Nam 13
2.3.1. Tình hình nghiên cứu sắn trên thế giới 13
2.3.2. Tình hình nghiên cứu sắn ở Việt Nam 15
2.4. Tình hình nghiên cứu thời vụ trồng và thu hoạch sắn 18
PHẦN 3 21
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
3.1. Đối tượng 21
3.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 21
3.3. Nội dung nghiên cứu 21
3.4. Phương pháp nghiên cứu 21
3.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 21
3.4.2. Quy trình kỹ thuật thí nghiệm 22
3.4.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 23
3.4.4. Phương pháp tính toán và xử lý số liệu 24
PHẦN 4 25
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 25
4.1. Đặc điểm thời tiết khí hậu Thái Nguyên năm 2013 25
4.2. Tỷ lệ mọc mầm, thời gian mọc mầm của giống sắn mới HL2004-28 26
4.3. Ảnh hưởng của thời vụ trồng sắn đến tốc độ sinh trưởng của giống sắn mới HL2004-
28 28
4.3.1. Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến tốc độ tăng trưởng chiều cao cây của giống sắn
HL2004-28 28
4.3.2. Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến tốc độ ra lá 30
4.4. Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến đặc điểm nông sinh học của giống sắn HL2004-2832
4.4.1. Chiều cao thân chính 33
4.4.2. Chiều dài các cấp cành 33
4.4.3. Chiều cao cây cuối cùng 34
4.4.4. Đường kính gốc 35
4.4.5. Tổng số lá trên cây 35
4.5. Ảnh hưởng của thời vụ đến năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất giống sắn
HL2004-28 35
4.5.1. Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến các yếu tố cấu thành năng suất của giống sắn mới
HL2004-28 36
4.5.2. Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến năng suất củ tươi, năng suất thân lá, năng suất sinh
vật học và hệ số thu hoạch của giống sắn HL2004-28 38
4.5.3. Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến chất lượng của giống sắn mới HL2004-28 41
4.6. Ảnh hưởng của thời vụ đến hiệu quả kinh tế của giống sắn HL2004-28 44
PHẦN 5 46
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 46
5.1. Kết luận 46
5.2. Đề nghị 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO 48
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Sắn (Manihot esculenta Crantz) là cây lương thực, thực phẩm chính
của hơn 500 triệu người trên thế giới. Cây sắn là một trong những cây lương
thực dễ trồng, có khả năng thích ứng rộng, và trồng được trên những vùng đất
nghèo, không yêu cầu cao về điều kiện sinh thái, phân bón, chăm sóc. Nó
được trồng rộng rãi ở 30
0
Bắc đến 30
0
Nam và được trồng ở trên 100 nước
nhiệt đới thuộc ba châu lục lớn là châu Phi, châu Mỹ và châu Á (Phạm Văn
Biên và Hoàng Kim,1991).
Sắn là cây lương thực rất quan trọng bởi có giá trị lớn trên nhiều mặt:
Sắn là nguồn lương thực đáng kể cho con người, hiện nay nhiều nước trên thế
giới đã sử dụng sắn và các sản phẩm chế biến từ sắn làm nguồn lương thực
chính, nhất là các nước của châu Phi. Tinh bột sắn còn là một thành phần
quan trọng trong chế độ ăn của hơn một tỷ người trên thế giới. Sắn cũng là
thức ăn cho gia súc, gia cầm quan trọng tại nhiều nước trên thế giới, ngoài ra
sắn còn là hàng hóa xuất khẩu có giá trị để làm nguyên liệu cho ngành công
nghiệp chế biến bột ngọt, bánh kẹo, mì ăn liền, ván ép, bao bì, màng phủ sinh
học và phụ gia dược phẩm… Đặc biệt trong thời gian tới việc nghiên cứu phát
triển sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học đang được các quốc gia trên thế
giới quan tâm bởi các lợi ích của loại nhiên liệu này đem lại mà cây sắn là
nguyên liệu chính cho công nghiệp chế biến nhiên liệu sinh học (ethanol).
Chương trình sản xuất ethanol của chính phủ Brazil đã tạo ra gần 1 triệu việc
làm cho người lao động.
Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực quan trọng sau lúa và ngô. Năm
2012 diện tích sắn toàn quốc là 550,6 nghìn ha, năng suất bình quân 17,69
tấn/ha, sản lượng là 9,745 triệu tấn (FAOSTAT, 2013). Cả nước hiện có hơn
60 nhà máy chế biến tinh bột sắn, trong đó có 41 nhà máy đã đi vào hoạt động
với tổng công suất 2,2 - 3,8 triệu tấn sắn củ tươi/năm. Tổng sản lượng tinh bột
1
sắn của Việt Nam hiện đạt 600 - 800 nghìn tấn, trong đó có khoảng 70% dành
cho xuất khẩu và 30% tiêu thụ trong nước (Trần Ngọc Ngoạn, 2007).
Một trong những tồn tại của sản xuất sắn ở Việt Nam hiện nay là năng
suất sắn ở địa phương vẫn còn thấp hơn nhiều so với tiềm năng năng suất của
các giống sắn mới. Lí do là người dân thường quan niệm sắn là cây dễ trồng,
thích ứng rộng, ít sâu bệnh, chịu đất chua, nghèo dinh dưỡng và không đòi hỏi
kỹ thuật phức tạp nên chưa chú ý đầu tư thâm canh, chọn giống và thời vụ
trồng thích hợp với giống sắn. Để phục vụ cho chiến lược phát triển sắn bền
vững ở Việt Nam, ngoài việc nghiên cứu về giống, kỹ thuật trồng sắn, việc
nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố thời vụ đến khả năng sinh trưởng, phát triển
và năng suất của các giống sắn là vấn đề rất cần thiết. Chính vì những thực tế
trên, em đã tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ
trồng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của giống sắn mới HL2004-28 tại
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích của đề tài
Xác định thời vụ trồng thích hợp cho giống sắn HL2004-28 để đáp ứng
nhu cầu nguyên liệu cho các nhà máy chế biến tinh bột sắn hiện nay ở các tỉnh
Trung du và miền núi phía Bắc.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá ảnh hưởng của thời vụ trồng đến khả năng sinh trưởng, phát
triển của giống sắn mới HL2004-28.
- Đánh giá ảnh hưởng của thời vụ trồng đến năng suất, chất lượng của
giống sắn mới HL2004-28.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của các giống sắn tham gia thí nghiệm.
1.4. Ý nghĩa đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Qua quá trình thực hiện đề tài, sinh viên sẽ được củng cố và hệ thống
lại toàn bộ những kiến thức đã học, áp dụng vào thực tế tạo điều kiện cho sinh
viên học hỏi thêm kiến thức cũng như kinh nghiệm trong sản xuất.
2
- Trên cơ sở học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn đã giúp
cho sinh viên nâng cao được chuyên môn, nắm được phương pháp và tổ chức
tiến hành nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
- Đánh giá được chính xác sự ảnh hưởng của thời vụ trồng đến khả
năng sinh trưởng và năng suất của giống sắn mới có triển vọng HL2004-28 tại
Thái Nguyên.
- Đề tài cũng xem như là một tài liệu tham khảo cho Khoa, Trường và
sinh viên các khoá tiếp theo.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
Góp phần tìm ra thời vụ trồng thích hợp nhất với giống sắn mới
HL2004-28 để cho năng suất cao, chất lượng tốt nhất áp dụng vào sản xuất
đại trà nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu thụ của tỉnh Thái Nguyên cũng
như các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc.
3
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Nguồn gốc, giá trị dinh dưỡng của cây sắn
2.1.1. Nguồn gốc
Cây sắn có tên khoa học là Manihot esculenta Crantz có hoa hạt kín, có
2 lá mầm và thuộc họ thầu dầu có tới hơn 300 chi và 8000 loài phân thành 17
nhóm, có bộ nhiễm sắc thể 2n = 36 (Roger và Appan, 1973). Nhiều tài liệu
cho biết cây sắn có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới của châu Mỹ Latinh (Crantz,
1976) và được trồng cách đây khoảng 5000 năm (CIAT,1993).
Trung tâm phát sinh của cây sắn được giả thuyết tại Đông Bắc Brazil
thuộc lưu vực sông Amazon, nơi có nhiều chủng loại sắn trồng và hoang dại
(Đecanola, 1986; Roger, 1965).
Trung tâm phân hóa phụ của cây sắn có thể tại Mehico, Trung Mỹ và
ven biển các nước Nam Mỹ. Bằng chứng là những di tích khảo cổ ở
Venezuela niên đại 2700 năm trước công nguyên, những lò nướng bánh sắn
trong phức hệ Malabo ở phía bắc Colombia niên đại khoảng 1200 năm trước
công nguyên, những hạt tinh bột sắn ở trong phần hóa thạch được phát hiện
tại Mehico có tuổi khoảng 900 năm đến 200 năm trước công nguyên (Roger
và Appan, 1973).
Các công trình nghiên cứu gần đây của nhiều tác giả kết luận rằng: Cây
sắn có nguồn gốc phức tạp và có bốn trung tâm phát sinh đó là: Brazil có hai
trung tâm, còn lại là ở Mehico và Bolivia.
Cây sắn được người Bồ Đào Nha đưa đến Congo của châu Phi
vào
thế kỷ 16. Tài liệu nói tới sắn ở vùng này là của Barre và Thevet viết năm
1558. Ở Châu Á
, sắn được du nhập vào Ấn Độ khoảng thế kỷ 17 (P.G.
Rajendran et al, 1995) và Sri Lanka đầu thế kỷ 18 (W.M.S.M Bandara và
M Sikurajapathy, 1992). Sau đó, sắn được trồng ở Trung Quốc, Myanma và
các nước châu Á khác ở cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 (Fang Baiping, 1992;
U Thun Than, 1992).
4
Ở Việt Nam cây sắn được du nhập vào khoảng thế kỷ thứ 18 (Phạm Văn
Biên, Hoàng Kim) và được canh tác phổ biến ở hầu hết các tỉnh của Việt Nam
từ Bắc đến Nam. Diện tích sắn trồng nhiều nhất ở vùng Bắc Trung Bộ và duyên
hải miền Trung, vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, vùng Trung du và miền núi
phía Bắc.
2.1.2. Giá trị dinh dưỡng
Theo số liệu công bố của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp thế giới
(FAO), hàm lượng dinh dưỡng trong củ sắn (tính trên 100 gam phần ăn được)
như sau:
Nước : 65,5%
Tinh bột : 32,1%
Protein : 1,0%
Lipit : 0,2%
Xenlulose : 1,2%
Trong protein của sắn có tương đối đầy đủ các acid amin (nhất là 9 acid
amin không thay thế được cần thiết cho con người) đặc biệt hai acid amin
quan trọng là Lizin và Tritophan có đủ để cung cấp cho nhu cầu của cả trẻ em
và người lớn.
Bảng 2.1: Thành phần dinh dưỡng và thành phần hóa học trong một số loại
cây trồng dùng làm thức ăn cho gia súc
Tên thức ăn
Chất
Khô
(%)
Protein
thô
(%)
Xơ
thô
(%)
Canxi
(%)
Photpho
(%)
Năng lượng
trao đổi
(Kcal/đvtă)
Thân lá cỏ voi non 11,80 2,20 3,20 0,04 0,02 240
Cây ngô non 13,10 1,40 3,40 0,08 0,03 285
Lá cây keo dậu 25,53 6,94 3,63 0,37 0,07 707
Lá cỏ Stylo 20,10 4,10 3,30 0,40 0,04 484
Rau muống 10,60 2,10 1,60 0,12 0,05 270
Củ sắn cả vỏ 27,70 0,90 1,00 0,05 0,04 968
Lá sắn 25,74 6,59 3,82 0,30 0,09 726
Bột lá sắn 89,66 20,57 13,98 1,10 0,63 2349
Bã sắn ướt 20,36 0,50 1,71 0,04 0,03 468
(Nguồn: FeedPig/2001_VCN 30/12/2000 Viện Chăn Nuôi)
5
Qua số liệu ở bảng 2.1 ta thấy lượng vật chất khô của củ sắn cả vỏ, lá
sắn, bột lá sắn, bã sắn ướt đều cao hơn so với một số cây thường dùng làm
thức ăn cho gia súc khác. Đặc biệt trong củ sắn cả vỏ có hàm lượng chất khô,
protein thô, xơ thô, canxi, photpho và năng lượng trao đổi đều cao hơn hẳn so
với các loại thức ăn khác. Điều này chứng tỏ thành phần dinh dưỡng trong củ
sắn là rất cao, đáp ứng được nhu cầu trong khẩu phần ăn của vật nuôi.
2.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ sắn trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn trên thế giới
Trên thế giới sắn là cây quan trọng được xếp đứng thứ năm sau cây
ngô, lúa gạo, lúa mì và khoai tây.
Diện tích sắn trên toàn thế giới năm 2012 đạt 19,99 triệu ha, năng suất
bình quân 12,83 tấn/ha, sản lượng 256,53 triệu tấn. Diện tích, năng suất và sản
lượng sắn trên thế giới 5 năm gần đây được thể hiện qua bảng 2.2 như sau:
Bảng 2.2: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn trên thế giới
từ năm 2008 - 2012
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2008 18,77 12,44 233,50
2009 18,75 12,50 234,55
2010 19,29 12,47 240,66
2011 20,06 12,78 256,40
2012 19,99 12,83 256,53
(Nguồn: FAOSTAT, 2013)
Qua bảng số liệu 2.2 ta thấy:
Từ năm 2008 đến năm 2012 diện tích sắn đã tăng 1,13 triệu ha, năng
suất tăng 0,05 tấn/ha nên sản lượng sắn đã tăng 24,989 triệu tấn. Tuy vậy có
thể nhận thấy diện tích năm 2012 giảm so với năm 2011 là 0,069 triệu ha.
Qua đó ta thấy rằng cây sắn hiện nay đang bị thu hẹp về diện tích song vẫn
phát triển cả về năng suất và sản lượng. Có được kết quả đó là do chiến lược
phát triển lương thực toàn cầu đã thực sự coi trọng giá trị của cây sắn. Mặt
khác, sắn lại là cây lương thực dễ trồng, thích hợp với nhiều điều kiện kinh tế
6
đặc biệt là có thể sinh trưởng và cho năng suất cao khi đất nghèo dinh dưỡng, là cây
trồng công nghiệp có khả năng cạnh tranh cao với nhiều cây công nghiệp khác.
Bảng 2.3: Diện tích, năng suất, sản lượng sắn của những nước trồng sắn
chính trên thế giới năm 2012
Vùng trồng
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Toàn thế giới 19,991 12,83 256,529
Châu Phi 13,379 10,93 146,217
Nigeria 3,850 14,03 54,000
Cộng hòa Congo 2,200 7,27 16,000
Angola 1,062 10,07 10,636
Ghana 0,868 16,75 14,547
Mozambique 0,762 13,18 10,051
Châu Mỹ 2,621 12,40 32,503
Brazil 1,703 13,74 23,414
Paraguay 0,183 13,99 2,560
Colombia 0,212 10,74 2,274
Peru 0,092 12,11 1,119
Haiti 0,155 4,19 0,652
Châu Á 3,974 19,53 77,608
Indonesia 1,119 21,36 23,922
Thái Lan 1,250 18,0 22,500
Việt Nam 0,551 17,69 9,746
Ấn Độ 0,221 36,48 8,076
Trung Quốc 0,280 16,29 4,56
Campuchia 0,208 21,69 4,500
(Nguồn: FAOSTAT, 2013)
Hiện nay cây sắn được trồng tại 105 quốc gia, năm 2012 toàn thế giới
có 19.991 nghìn ha trồng sắn, trong đó có 66,92% diện tích sắn được trồng ở
châu Phi, châu Á chiếm 19,88 %, châu Mỹ chiếm 13,11 % (Bảng 2.3).
Châu Phi có tổng diện tích trồng sắn năm 2012 là 13,379 triệu ha, năng
suất củ tươi bình quân 10,93 tấn/ha, sản lượng 146,217 triệu tấn. Ở châu Phi
nước có diện tích sắn lớn nhất là Nigeria với 3,850 triệu ha, năng suất đạt
14,03 tấn/ha, sản lượng 54,000 triệu tấn. Sắn là nguồn lương thực chính của
người dân tại nhiều nước ở vùng này. Châu Phi là nơi tình trạng suy dinh
7
dưỡng tăng lên gấp đôi trong hai thập kỷ qua nên cây sắn hiện được coi là giải
pháp an toàn lương thực hàng đầu.
Năm 2012 tổng diện tích sắn trồng ở châu Mỹ là 2,621 triệu ha, năng
suất củ tươi bình quân 12,40 tấn/ha, sản lượng 32,503 triệu tấn. Brazil là
nước có diện tích trồng sắn lớn nhất châu Mỹ với 1,703 triệu ha, sản lượng
đạt 23,414 triệu tấn.
Châu Á cùng với châu Phi và châu Mỹ là một trong ba vùng sắn quan
trọng của thế giới. Diện tích sắn châu Á hiện có 3,974 triệu ha, sản lượng
77,608 triệu tấn, năng suất sắn ở châu Á hiện đạt bình quân 19,53 tấn/ha. Thái
Lan là nước có diện tích trồng sắn lớn nhất châu Á với 1,250 triệu ha, sản
lượng 22,500 triệu tấn. Sản xuất sắn tại châu Á tăng ở mức cao của 3%/năm
trong thời gian cuối những năm 70 và đầu 80, những năm 90 sản xuất sắn
phát triển chậm lại. Sản xuất sắn được phát triển khá nhanh trở lại ở
3,3%/năm trong suốt 10 năm qua (Reinhardt Howeler và Keith Fahrne, 2008).
2.2.2. Tình hình sản xuất sắn tại Việt Nam
Ở Việt Nam, sắn là một trong bốn cây trồng có vai trò quan trọng
trong chiến lược an toàn lương thực quốc gia sau lúa và ngô (Phạm Văn
Biên, 1998). Và là nguồn thu nhập quan trọng của các hộ nông dân nghèo
do sắn dễ trồng, ít kén đất, ít vốn đầu tư, phù hợp với sinh thái và điều
kiện kinh tế nông hộ.
Tình hình sản xuất sắn ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2012 được thể hiện
ở bảng 2.4 dưới đây:
8
Bảng 2.4: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn ở Việt Nam
giai đoạn 2007 - 2012
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2007 495,5 16,53 8,193
2008 555,7 16,91 9,396
2009 508,8 16,82 8,557
2010 498,0 17,26 8,595
2011 558,2 17,73 9,898
2012 550,6 17,69 9,745
(Nguồn: FAOSTAT, 2013)
Qua số liệu ở bảng 2.4 cho thấy tình hình sản xuất sắn qua các năm so
với năm 2007 tăng cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 2007 có diện
tích trồng sắn là 495,5 nghìn ha, năm 2012 là 550,6 nghìn ha, tăng so với năm
2007 là 55,1 nghìn ha đánh dấu sự gia tăng năng suất từ 16,53 tấn/ha trong
năm 2007 lên 17,69 tấn/ha vào năm 2012.
Ở nước ta khoảng 66% diện tích của sắn được trồng trên đất đồi núi,
40% diện tích còn lại được trồng trên các loại đất khác. Sắn ưa đất có độ pH
từ 4,5 - 6,0. Tại miền Bắc Việt Nam, sắn được trồng chủ yếu ở khu vực có địa
hình đồi núi và khoảng 68% của diện tích trồng sắn là đất đá và 12% có đất
cát pha tương ứng. Trong khi đó sắn ở miền Nam Việt Nam được trồng chủ
yếu trên đất cát màu xám, các loại đất này phẳng và nghèo chất dinh dưỡng,
các khu vực ven biển miền Trung và Đông Nam Bộ, chiếm khoảng 60% diện
tích sắn toàn miền Nam. Trong khi đó hơn 30% diện tích sắn được trồng ở
Tây Nguyên và Đồng Nai, Bình Phước của khu vực Đông Nam Bộ trên đất đỏ
màu vàng với địa hình đồi núi. Cụ thể diện tích, năng suất và sản lượng sản
xuất sắn của các vùng trên cả nước được thể hiện trong bảng dưới đây:
9
Bảng 2.5: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn của các vùng
trong cả nước năm 2012
Vùng
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
Cả nước 550,6 177,0 9 745,5
Đồng bằng sông Hồng 6,7 156,9 105,1
Trung du và miền núi phía Bắc 117,0 127,1 1 486,5
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 174,9 346,0 3 027,5
Tây Nguyên 149,5 170,0 2 542,0
Đông Nam Bộ 96,0 258,9 2 485,1
Đồng Bằng sông Cửu Long 6,5 152,8 99,3
Nguồn (Mard, 2013)
Qua bảng số liệu 2.5 ta thấy cả nước sắn được trồng tập trung chủ yếu ở 4
vùng trồng sắn chính sau:
- Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung: Có diện tích sắn lớn
nhất cả nước, trong những năm qua nhờ có các chính sách mở cửa cho phép
các tổ chức liên doanh đầu tư xây dựng mới nhiều nhà máy chế biến tinh bột
sắn và quy hoạch vùng sản xuất sắn nguyên liệu nên diện tích sắn tăng mạnh
trong những năm gần đây. Năm 2012 diện tích sắn toàn vùng đạt 174,9 nghìn
ha (chiếm 31,76% tổng diện tích sắn toàn quốc), năng suất 346,0 tạ/ha, sản
lượng 3,027 triệu tấn củ tươi (chiếm 31,06% tổng sản lượng sắn toàn quốc).
Diện tích tập trung tại một số tỉnh như: Thanh Hóa (vùng sắn huyện Như
Xuân, Bá Phước, Quang Hóa, Lang Chánh và huyện Thường Xuân), Nghệ An
(vùng sắn huyện Thanh Chương, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong), Hà
Tĩnh (vùng sắn huyện Kỳ Anh), Quảng Bình (vùng sắn huyện Tuyên Hóa, Lệ
Thủy), Quảng Trị (vùng sắn huyện Hương Hóa, Vĩnh Linh, Hại Lăng, Cam
Lộ), Thừa Thiên Huế (vùng sắn huyện Phú vang, Phong Điền, A Lưới),
Quảng Nam (vùng sắn huyện Quế Sơn, Thăng Bình, núi Thành), Quảng Ngãi
(vùng sắn huyện Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Sơn Hà), Bình Định
(vùng sắn huyện Phù Cát, Tây Sơn, Vân Canh) và Phú Yên (vùng sắn huyện
Đồng Xuân, Sông Hinh và Tuy Hòa).
- Vùng Tây Nguyên: Có diện tích sắn lớn thứ 2 cả nước, với ưu thế về
điều kiện tự nhiên và con người, diện tích sắn liên tục tăng mạnh trong thời
10
gian qua. Năm 2012, diện tích sắn toàn vùng đạt 149,5 nghìn ha (chiếm
27,16% diện tích toàn quốc), năng suất 170,0 tạ/ha, sản lượng ước đạt trên 2,5
triệu tấn củ tươi (chiếm 26,08% tổng sản lượng sắn toàn quốc). Diện tích tập
trung tại một số tỉnh: Kon Tum (vùng sắn huyện Đắk Tô, Đắk Hà, Ngọc Hồi và
Sa Thầy), Gia Lai (vùng sắn huyện An Khê, Măng Yang, Chư Prông, Krông Pa
và Đức Cơ), Đắc Lắc (vùng sắn huyện Ea Kar, MDrăk, Đăk Song, Đăk Lấp,
Đăk Nông và Krông Bông).
- Vùng Đông Nam Bộ: Là vùng có NSTB cao thứ 2 toàn quốc, diện tích
tăng liên tục trong thời gian qua, đặc biệt từ năm 2000 đến nay do nhu cầu sắn
nguyên liệu cho các nhà máy chế biến tinh bột tăng cao, việc đầu tư thâm canh
cây sắn đã mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn một số cây trồng khác trong cùng
điều kiện như mía, lúa 1 vụ… người trồng sắn đã bắt đầu có tích lũy và làm giàu
nhờ nghề trồng sắn. Năm 2012 diện tích toàn vùng đạt 96,0 nghìn ha (chiếm
17,4% diện tích toàn quốc), năng suất 258,9 tạ/ha, sản lượng đạt 2,485 triệu tấn
củ tươi (chiếm 25,5% tổng sản lượng toàn quốc). Diện tích tại một số tỉnh như:
Tây Ninh (vùng sắn ở huyện Tân Biên, Tân Châu, Dương Minh Châu và Châu
Thành), Đồng Nai (vùng sắn ở huyện Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Đông Phú, Phước
Long, Lộc Ninh, Bù Đăng và Bình Long), Bà Rịa - Vũng Tàu (vùng sắn huyện
Xuyên Mộc), Bình Thuận (vùng sắn huyện Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm
Thuận Nam, Tánh Linh, Hàm Tân và Đức Linh), Ninh Thuận (vùng sắn ở huyện
Bắc Ái).
- Vùng Trung du và miền núi phía Bắc: Có lịch sử phát triển cây sắn từ
lâu đời, đây là vùng có đầy đủ lợi thế về phát triển sắn, đã có thời điểm diện
tích gieo trồng toàn vùng chiếm tới gần 50% diện tích sản lượng cả nước, tuy
nhiên vùng Trung du và miền núi phía Bắc phát triển chậm hơn so với vùng
Đông Nam Bộ là do năng lực chế biến phát triển chậm, đồng thời sản xuất sắn
gặp nhiều điều kiện hạn chế do điều kiện khí hậu, đất dốc, giao thông khó
khăn. Năm 2012, diện tích toàn vùng đạt 117,0 nghìn ha (chiếm 21,25% tổng
diện tích sắn toàn quốc), năng suất đạt trên 127,1 tạ/ha, sản lượng 1,4865 triệu
11
tấn củ tươi (chiếm 15,25% tổng sản lượng sắn toàn quốc). Sắn được trồng trên
các chân đất đồi có độ dốc trên 10
0
là chủ yếu và trồng theo vùng nguyên liệu,
diện tích trồng tập trung chủ yếu tại các tỉnh Yên Bái (vùng sắn Văn Yên, Yên
Bình), Phú Thọ (vùng sắn Phù Ninh, Thanh Ba, Thanh Sơn, Yên Lập), Hòa
Bình (vùng sắn Lạc Sơn, Kim Bôi, Đà Bắc, Tân Lạc).
Mặc dù ngành chế biến sắn của Việt Nam còn non trẻ nhưng các nhà
máy chế biến tinh bột sắn của Việt Nam đều khá hiện đại, giá thành sản xuất
chế biến rẻ nên sắn Việt Nam có lợi thế cạnh tranh cao và có nhu cầu thị trường.
Ngoài sản phẩm tinh bột sắn thì sắn lát khô cũng là một mặt hàng quan trọng và
có nhu cầu cao. Thị trường xuất khẩu sắn lát khô của Việt Nam chủ yếu là Trung
Quốc. Theo thống kê năm 2003 - 2004 Việt Nam đã xuất khẩu sang Trung Quốc
khoảng trên 328,000 tấn sắn lát. Giá sắn của Việt Nam khá cạnh tranh so với giá
sắn của các nước sản xuất trong khu vực và thế giới (Lường Văn Duy, 2007).
2.2.3. Tình hình sản xuất sắn tại Thái Nguyên
Bảng 2.6: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn của Thái Nguyên
giai đoạn 2008 - 2012
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng xuất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2008 4,1 105,6 43,3
2009 3,9 131,3 51,2
2010 3,9 145,9 56,9
2011 3,6 146,7 52,8
2012 3,8 146,8 55,8
(Nguồn: Mard, 2013)
Thái Nguyên là tỉnh thuộc khu vực Trung du và miền núi phía Bắc, mang
nét đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh, địa hình chủ yếu
là đồi núi thích hợp cho việc canh tác sắn. Ngày nay công nghiệp chế biến sắn
càng phát triển nhất là ngành chế biến tinh bột và ethanol thì sắn được coi là một
trong những cây trồng cho thu nhập cao. Tổng diện tích trồng sắn của tỉnh Thái
Nguyên đạt 4,1 nghìn ha, mặc dù từ năm 2008 đến năm 2012 diện tích trồng sắn
của tỉnh giảm từ 4,1 nghìn ha xuống còn 3,8 nghìn ha nhưng năng suất sắn lại tăng
12
từ 105,6 lên 146,8 tạ/ha, sản lượng tăng từ 43,3 nghìn tấn lên 55,8 nghìn tấn. Điều
này cho thấy một bước tiến bộ vượt bậc trong công tác nghiên cứu và áp dụng vào
thực tiễn sản xuất. Từ đó ta thấy người dân nơi đây đã và đang sử dụng những
giống sắn mới cho năng suất cao, chất lượng tốt, tỷ lệ tinh bột cao và áp dụng vào
sản xuất những biện pháp kỹ thuật canh tác sắn thích hợp, bền vững.
2.3. Tình hình nghiên cứu, chọn tạo giống sắn trên thế giới và Việt Nam
2.3.1. Tình hình nghiên cứu sắn trên thế giới
Trước đây, sắn được coi là một cây màu lương thực vì vậy thường được
phát triển trên diện rộng. Sắn là cây trồng của người nghèo và được sản xuất
bởi người nông dân nghèo nên có thời gian sắn bị lãng quên ở cộng đồng các
nước phát triển.
Đến năm 1970, với sự thành lập chương trình nghiên cứu sắn của CIAT
ở tại các nước Colombia và IITA (International institute for Tropical
Agriculture) ở Nigieria.
Trên thế giới sắn được trồng chủ yếu bằng hom nên có lợi thế về mặt
duy trì các tính trạng tốt qua các thế hệ sinh sản vô tính (dòng vô tính) song
lại có khó khăn là hệ số nhân giống của sắn rất thấp (trung bình là 1:7).
Quá trình chọn tạo giống sắn cần phải có ít nhất 6 năm để xác định được dòng sắn
triển vọng (Trần Ngọc Ngoạn, 1995), (Trần Ngọc Ngoạn và cs, 2004). Nguồn
gen và cơ cấu giống sắn phù hợp cho mỗi vùng sinh thái có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu trong công tác cải tiến giống sắn. Sự phong phú, đa dạng về
nguồn gen và phương pháp chọn, tạo vật liệu giống sắn triển vọng là cơ sở
để tạo ra giống tốt.
Trên thế giới, việc nghiên cứu giống sắn được thực hiện chủ yếu ở
Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới - CIAT tại Colombia, Viện
Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới - IITA tại Nigeria, cùng với các Trường,
Viện nghiên cứu quốc gia ở những nước trồng và tiêu thụ nhiều sắn;
CIAT, IITA đã có những chương trình nghiên cứu rộng lớn đồng thời kết
hợp chặt chẽ các chương trình sắn của mỗi quốc gia để tiến hành thu
thập, nhập nội, chọn tạo và cải tiến giống sắn. Mục tiêu của chiến lược
13
cải tiến giống sắn được thay đổi tuỳ theo sự cần thiết và khả năng của
từng chương trình quốc gia đối với công tác tập huấn, phân phối nguồn
vật liệu giống ban đầu đã được điều tiết bởi các chuyên gia chọn tạo
giống sắn của CIAT.
CIAT là nơi bảo tồn nguồn gen giống sắn đứng hàng đầu của thế giới.
Hiện tại CIAT cũng thu thập, bảo quản được 5.782 mẫu giống sắn và đăng ký
tại FAO gồm 5.138 mẫu giống sắn thu thập tại vùng Nam Mỹ và Trung Mỹ,
24 mẫu giống sắn ở Bắc Mỹ, 384 mẫu sắn lai của CIAT, 163 mẫu giống sắn
vùng châu Á, 19 mẫu giống sắn vùng châu Phi (Lường Văn Duy, 2007).
Trong số 5.728 mẫu giống sắn này có 35 loài sắn hoang dại được thu thập nhằm
sử dụng lai tạo ra giống sắn kháng sâu bệnh hoặc giàu protein. Nguồn gen giống
sắn nêu trên đã được CIAT bảo tồn và đánh giá cẩn thận về khả năng cho năng
suất, giá trị dinh dưỡng, thời gian sinh trưởng, khả năng chống chịu sâu bệnh hại
cũng như thích ứng với sự thay đổi của môi trường. Từ đó chọn ra những cặp bố
mẹ phục vụ cho công tác cải tiến giống sắn để trao đổi, giữ gen đối với các nước.
Tại châu Mỹ Latinh, chương trình chọn tạo giống sắn của CIAT đã
phối hợp với CLAYUCA và những chương trình sắn quốc gia của các nước
Brazil, Colombia, Mehico… giới thiệu cho sản xuất ở các nước này những
giống sắn tốt như SM1433-4, CM3435-3, SG337-2, CG489-31, MCol72,
AM273-23, MBRA383… Do vậy đã góp phần đưa năng suất và sản lượng
sắn trong vùng tăng lên một cách đáng kể.
Viện Nghiên cứu nông nghiệp nhiệt đới quốc tế IIAT (International
Institute Tropical Agriculture) đặt tại Nigieria đã qua thu thập, đánh giá,
bảo quản 1.286 mẫu giống, vật liệu đã chọn lọc và đưa vào sản xuất một số
giống sắn chống chịu virus có năng suất cao hơn giống địa phương 2 đến 3
lần (Phan Kim Sơn, 2008).
Ở Châu Phi, CIAT phối hợp với IITA và các nước Nigeria, Congo,
Ghana, Tanzania, Mozambique, Angola, Uganda cùng nhiều tổ chức quốc
tế như FAO, Bill Gates Foundation để nghiên cứu nhằm phát triển các
giống sắn mới ngắn ngày, chất lượng cao (giàu carotene, vitamin, protein…)
14
thích hợp ăn tươi và có khả năng kháng bệnh virus (một loại bệnh dịch hại
nghiêm trọng đối với cây sắn ở châu Phi).
Ở Châu Á, các nhà chọn tạo giống sắn tham dự hội thảo được tổ chức
tại Thái Lan vào tháng 11/1987 đã nhất trí xác định mục tiêu của các chương
trình cải tiến giống sắn quốc gia là chọn tạo ra những giống sắn có năng suất
củ tươi và tỷ lệ tinh bột cao nhằm đáp ứng nhu cầu chế biến công nghiệp.
Mục tiêu cải tiến giống sắn của những quốc gia (Ấn Độ, Indonexia, Srilanca)
có nhu cầu cao về sử dụng sắn làm lương thực là chọn tạo những giống sắn
ngắn ngày có năng suất cao, chất lượng tốt, hàm lượng axit Cyanhydric
(HCN) trong củ thấp, thích hợp tiêu thụ tươi, dạng cây đẹp, có khả năng
chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận và sâu bệnh.
Tại Hội thảo Sắn Quốc tế lần thứ Tám tổ chức tại thủ đô Viên
Chăn, Lào ngày 20 - 24 tháng 10 năm 2008. Các nhà khoa học đã xác
định tương lai mới cho sắn ở châu Á là làm thực phẩm, thức ăn gia súc và
nhiên liệu sinh học có lợi cho người nghèo, mục tiêu là chọn tạo được những
giống mới đáp ứng được yêu cầu sử dụng củ và lá sắn làm thức ăn gia súc,
phát triển mới trong chế biến sắn, đặc biệt là làm nhiên liệu sinh học, tinh bột,
tinh bột biến tính, màng phủ sinh học, công nghiệp thực phẩm.
Ấn Độ là nước ở châu Á có năng suất sắn cao hàng đầu thế giới. Cơ
quan điều phối cải tiến giống sắn toàn Ấn Độ là Viện Nghiên cứu Cây có củ
(CTCRI) ở Trivandrum của tiểu bang Kerala. CTCRI đã thu thập, bảo quản,
đánh giá 1.354 mẫu giống sắn và lai tạo được hàng chục nghìn hạt sắn lai
phục vụ cho chương trình chọn tạo các giống sắn mới. Gần đây, Ấn Độ có 5
giống sắn mới được nhà nước công nhận là giống quốc gia, trong đó giống
Sree Prakash có nhiều triển vọng đạt năng suất củ tươi cao (35 - 40) tấn/ha.
Chương trình cải tiến giống sắn của Trung Quốc được thực hiện chủ
yếu tại Học Viện Cây trồng Nhiệt đới Nam Trung Quốc (CATAS), Viện
Nghiên cứu Cây trồng Cận Nhiệt đới Quảng Tây (GSCRI). Những giống sắn
mới năng suất cao trong thời gian gần đây tại Trung Quốc có SC201, SC205,
SC124, Nanzhi188, GR911, GR891.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu sắn ở Việt Nam
15
Chọn giống sắn tốt, năng suất cao phù hợp với đất đai và yêu cầu của sản
xuất lớn là việc làm cần thiết để phát huy những ưu điểm của giống. Nhưng trong
điều kiện sản xuất trên diện rộng nếu không có một kế hoạch chọn lọc bồi dưỡng
giống sắn thường xuyên thì sau một vài năm giống sắn tốt cũng dễ thoái hóa làm
năng suất giảm xuống. Thấy được tầm quan trọng của công tác chọn tạo giống
sắn, các nhà khoa học Việt Nam đã không ngừng nghiên cứu chọn lọc các giống
sắn mới để phục vụ cho sản xuất.
Trong nước, theo tác giả Hoàng Kim, Phạm Văn Biên, cây sắn được du
nhập vào Việt Nam khoảng giữa thế kỷ 18 và có mặt ở miền Nam trước, sau đó
mới đưa ra trồng ở miền Bắc và hiện nay sắn được trồng rộng khắp cả nước.
Trước năm 1975 nguồn gen giống sắn đã được nhập nội và khảo sát tại
Viện Khảo cứu Nông nghiệp Sài Gòn. Ở phía Bắc cũng tiến hành một số thí
nghiệm tập đoàn so sánh giống kết quả đã chọn ra được giống sắn H34 thuộc
nhóm sắn đắng có tỷ lệ tinh bột cao (>30%).
Trong giai đoạn 1975 - 1990, ở miền Bắc Trường Đại học Nông nghiệp 3 -
Bắc Thái tiến hành thu thập đánh giá nguồn gen của 20 giống sắn và đã chọn được
giống sắn XVP là giống địa phương tốt nhất ở các tỉnh phía Bắc (Trần Ngọc
Ngoạn và Trần Văn Điền, 1992). Ở miền Nam, trung tâm Nghiên cứu Thực
nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp
miền Nam) đã đánh giá nguồn gen của 33 giống sắn địa phương và cũng xác định
được ba giống sắn tốt là HL23, HL24, HL20, đồng thời 3 giống này mỗi năm
được sản xuất nhân ra trồng trên 70.000 ha ở các tỉnh phía Nam (Nguyễn Xuân
Hải và cộng sự, 1990). Vì những giống sắn mới được chọn lọc có năng suất bình
quân trong thí nghiệm đạt 15 - 25 tấn/ha, tỷ lệ tinh bột 20 - 25% nên đáp ứng
được mục tiêu đề ra là phục vụ cho nhu cầu lương thực.
Từ năm 1988, công tác nghiên cứu chọn giống sắn ở Việt Nam có quan
hệ chặt chẽ với CIAT. Trong suốt 18 năm (1988 - 2005), chương trình sắn của
Việt Nam đã phối hợp với CIAT chọn lọc và phát triển hai giống sắn mới là
KM60 và KM94 ra sản xuất. Đây là hai giống sắn có năng suất củ tươi cao
(25 - 40 tấn/ha), có tỷ lệ tinh bột cao (27 - 30%), thích hợp với chế biến tinh
bột. Cũng từ năm 1993 trở lại đây nhiều nhà máy chế biến tinh bột sắn được
16
xây dựng, cây sắn đã chuyển sang hướng sản xuất hàng hóa. Do đó các giống
sắn mới đã và đang được phát triển mạnh ở hai miền Nam - Bắc. Việc giới
thiệu và phát triển hai giống sắn mới này vào sản xuất đã là một bước đột phá
mới trong nghề trồng sắn ở Việt Nam.
Với sự hợp tác của CIAT, chương trình sắn Việt Nam cũng đã tiến
hành đánh giá vào khoảng 30.000 hạt lai do CIAT/Colombia, CIAT/Thái
giới thiệu và khoảng 7.000 hạt lai từ nguồn lai tạo trong nước. Hàng chục
dòng triển vọng tiếp tục được chọn ra từ nguồn vật liệu này như: KM98-1,
KM98-5, KM95-3, KM98-7, KM140… Trong số các dòng này, có những
dòng rất có triển vọng vừa thích hợp chế biến, vừa có thể sử dụng ăn tươi.
Trong giai đoạn 1991 - 2005, chương trình sắn Việt Nam đã hợp tác chặt
chẽ với CIAT, VEDAN và mạng lưới nghiên cứu sắn châu Á để đẩy mạnh hoạt
động nghiên cứu và phát triển sắn với mục tiêu là chọn tạo ra những giống sắn
có năng suất củ tươi và tỷ lệ tinh bột cao, phục vụ cho chế biến công nghiệp,
đồng thời cũng tuyển chọn được những giống sắn ngắn ngày, đa dạng, thích
hợp cho cả chế biến công nghiệp cũng như nhu cầu về lương thực ở vùng sâu,
vùng xa. Do đó đã tạo được bước đột phá quan trọng trong nghề trồng sắn của
Việt Nam (Trần Ngọc Ngoạn và cộng sự, 2004).
Các nghiên cứu chọn tạo và khảo nghiệm giống sắn nhập nội từ CIAT
thích hợp cho mục tiêu sản xuất cồn sinh học đang được thực hiện trong
chương trình sắn Việt Nam. Với 24.073 hạt giống sắn nhập nội từ CIAT,
37.210 hạt giống sắn lai tạo tại Việt Nam, 38 giống sắn tác giả và 31 giống
sắn bản địa đã chọn được 98 giống sắn triển vọng. Trong đó có ba giống
KM140, KM98-5 và KM98-7 đã được đưa vào trồng tại nhiều địa phương ở
giai đoạn 2007 - 2009.
Hiện nay mục tiêu của chương trình cải thiện di truyền sắn tại Việt Nam là:
- Tăng tiềm năng năng suất, hàm lượng chất khô và hàm lượng tinh bột.
- Rút ngắn thời gian thu hoạch.
- Xác định các giống có năng suất cao phù hợp với từng khu vực và
vùng sinh thái khác nhau nhằm thúc đẩy sự hội nhập của các hệ thống canh
tác nông hộ nhỏ.
- Lựa chọn giống sắn tốt nhất cho sản xuất ethanol sinh học.
17
Mà mục tiêu cụ thể của chương trình nhân giống sắn là: Để chọn và
phát hành giống mới có năng suất cao từ 35 - 40 tấn/ha, hàm lượng tinh bột từ
27 - 30%, thời gian sinh trưởng và phát triển từ 8 - 10 tháng, cây mọc thẳng
đứng, đốt ngắn, ít phân nhánh, tán nhỏ gọn, kích thước gốc, củ thống nhất và
phù hợp cho chế biến công nghiệp.
Thực hiện mục tiêu trên hiện nay có khá nhiều công trình nghiên
cứu về chọn tạo giống đạt kết quả tốt, nhờ đó mà nhiều giống sắn mới
được đưa vào sản xuất như: KM60, KM94, KM95, KM95-3, SM937-26,
KM98-1, KM98-5, KM98-7, KM140… Việc áp dụng kết quả nghiên cứu
vào phục vụ sản xuất đại trà đã thực sự mang lại lợi nhuận cao cho nông
dân trên diện rộng, cho nên tạo được công ăn việc làm và góp phần xóa
đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa và miền núi, đồng thời tăng sức cạnh
tranh của tinh bột sắn xuất khẩu và các sản phẩm khác chế biến từ sắn trên
thị trường trong và ngoài nước.
Những tiến bộ vượt bậc về công tác chọn tạo giống sắn trên thế giới và ở
Việt Nam đã khẳng định ý nghĩa quan trọng của phương pháp tuyển chọn
giống sắn thích hợp theo vùng khí hậu, đất đai và tạo nguồn vật liệu khởi đầu
phong phú để tạo nên sự đột phá về năng suất. Công tác thực nghiệm tuyển
chọn giống sắn trên đồng ruộng chỉ có kết quả khi bảo đảm vững chắc được cơ
sở di truyền những tính trạng nông học. Trong đó, năng suất củ tươi, chỉ số thu
hoạch có hệ số di truyền cao; tỷ lệ chất khô, tỷ lệ tinh bột có hệ số di truyền
thấp và ít biến động bởi điều kiện môi trường (Trần Ngọc Ngoạn, 1995).
2.4. Tình hình nghiên cứu thời vụ trồng và thu hoạch sắn
Ở các vùng sinh thái khác nhau thì thời vụ trồng sắn thích hợp sẽ phụ
thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương. Các giống sắn công nghiệp
trồng để lấy bột thường thu hoạch sau trồng 8 - 12 tháng. Các giống sắn ngọt
trồng để ăn tươi thì có thể thu hoạch rải rác sau trồng từ 6 - 9 tháng.
* Thời vụ trồng sắn ở các vùng sinh thái khác nhau trên thế giới:
Ở châu Á sắn thường được trồng vào hai vụ chính là đầu mùa mưa và
cuối mùa mưa. Vụ đầu mùa mưa, sắn được trồng ngay sau những cơn mưa
18
đầu tiên, khi ẩm độ trong đất đủ để hom sắn mọc mầm và phát triển. Vụ
cuối mùa mưa sắn được trồng vào thời điểm lúc mùa mưa sắp kết thúc.
Những nghiên cứu ở phía Đông đảo Java của Indonexia cho thấy
thời vụ trồng sắn thích hợp là vào tháng 10 - 11 và khi bắt đầu mùa mưa
từ tháng 7 đến tháng 10. Thời gian trồng dài hay ngắn phụ thuộc vào sự
phân bố lượng mưa.
Những nghiên cứu của Viện Nông nghiệp Nhiệt đới Nam Trung Quốc
cho thấy: Thời gian trồng sắn thích hợp ở vùng Hoa Nam là vào đầu mùa
xuân từ tháng 2 đến tháng 4 và thời gian thu hoạch sau khi trồng từ 10 - 12
tháng. Năng suất và hàm lượng chất khô chứa trong củ thường tăng theo thời
gian thu hoạch sau khi trồng. Ở vùng sắn Quảng Đông, Quảng Tây và Hải
Nam, thời gian thu hoạch vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau.
Một số nghiên cứu khác tại Ấn Độ và Philippin cho rằng tại những vùng
có mưa quanh năm có thể trồng sắn vào bất cứ thời điểm nào trong năm ở
những vùng có phân thành hai mùa mưa nắng rõ rệt thì nên trồng vào đầu hoặc
gần cuối vụ mưa. Nếu trồng muộn hơn vào lúc mưa nhiều thì cây sắn sinh
trưởng kém và nhiều sâu bệnh, dẫn đến giảm năng suất và chất lượng sắn. Thời
điểm thu hoạch sắn từ 9 đến 12 tháng sau trồng đều không có sự khác biệt có ý
nghĩa về năng suất.
* Thời vụ trồng sắn ở Việt Nam:
Trong nước thời vụ trồng sắn ở mỗi vùng cũng khác nhau. Ở vùng
Đông Bắc, Tây Bắc và đồng bằng sông Hồng của miền Bắc Việt Nam, sắn
được trồng tốt nhất trong tháng 2 vì lúc này có mưa xuân, nhiệt độ tăng
dần, thích hợp cho cây sinh trưởng, hình thành và phát triển củ. Trồng
muộn vào tháng 4, nhiệt độ cao cây sinh trưởng mạnh nhưng không đủ thời
gian cho củ phát triển.
Vùng ven biển miền Trung Việt Nam, sắn được trồng từ tháng 1 đến
tháng 2 trong điều kiện nhiệt độ tương đối cao và có mưa ẩm, thu hoạch vào
tháng 9 đến tháng 10 nhằm tránh bão lụt gây đổ ngã và thối củ ngoài đồng.
Vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ Việt Nam sắn được
trồng vụ chính từ giữa tháng 4 đến cuối tháng 5 và vụ phụ từ cuối tháng 9 đến
đầu tháng 11.
19
Vùng Đông Nam Bộ, tác giả Nguyễn Thị Sâm và ctv cho biết thời vụ
trồng sắn thích hợp đối với giống sắn KM94 là khi mưa đầu mùa đã ổn
định từ 15/5 đến 15/6 dương lịch là tốt nhất, chậm nhất đến 25/6 tác giả
Nguyễn Hữu Hỷ đề nghị thời vụ trồng sắn sớm hơn từ khi mùa mưa bắt đầu
(15/4) cho đến lúc lượng mưa ổn định (15/5) sắn sẽ đạt được năng suất củ
tươi, năng suất thân lá, tỷ lệ tinh bột trong củ cũng như hiệu quả kinh tế
cao nhất.
Tục ngữ Việt Nam có câu “nhất thì nhì thục” vậy nên xác định thời vụ
trồng thích hợp là rất quan trọng đối với cây sắn.
20