Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

đồ án tốt nghiệp cấu trúc mạng gsm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.46 KB, 38 trang )

CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ THÔNG TIN
DI ĐỘNG TẾ BÀO
1. Sự phát triển của các dịch vụ tế bào (Tổ ong- Cellular)
Năm 1946, hệ thống điện thoại di động thương mại đầu tiên đã được
đưa vào hoạt động ở thành phố Saint Louis- Hoa Kỳ, sử dụng băng tần 150
MHz với khoảng cách kênh là 60 KHz và số lượng kênh bị hạn chế chỉ tới 3.
Tuy nhiên dịch vụ này vừa chỉ mới bắt đầu thì những nhược điểm cố hữu
của nó đã bộc lộ. Tất nhiên nhược điểm chính là do những nguyên nhân về
can nhiễu cùng kênh nên đòi hỏi phải phân cách về mặt vật lý quá lớn.
Năm 1947, phòng thí nghiệm điện thoại Bell bắt đầu bắt tay vào khảo
sát một khái niệm tái sử dụng tần số nhờ sử dụng các tế bào nhỏ (cell) với
các máy di động công suất thấp. Các tế bào này có thể liên kết với nhau nhờ
sử dụng một máy tính, cho phép thuê bao có thể di động trong khi số lượng
thuê bao cùng một lúc gia tăng đáng kể mà hệ thống vẫn có thể phục vụ
được. Tuy nhiên, thực tế các nước khác đã đưa mạng tế bào hoạt động như
một dịch vụ thương mại trước cả Hoa Kỳ. Cụ thể, dịch vụ mạng tế bào
thương mại đầu tiên được bắt đầu ở Nhật Bản vào năm 1979. Và rất nhanh
sau đó nó được phát triển ở nhiều khác trên thế giới.
Mặc dù các dịch vụ mạng tế bào phát triển rất mạnh, nhưng không hề
có khả năng tương hợp giữa các dịch vụ trên phạm vi toàn cầu. Hệ thống ở
Hoa Kỳ dựa trên thiết kế ban đầu của AT&T và Motorola, được gọi là
AMPS (Advanced Mobile Phone Service- dịch vụ điện thoại di động
tiên tiến). AMPS được sử dụng ở khoảng 70 nước khác trên thế giới và nó là
tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Ngoài ra phải kể đến một số
các tiêu chuẩn thông dụng khác là: NMT (Nordic Mobile Telephone- điện
thoại di động Bắc Âu), TACS (Total Access Communications Service- dịch
vụ truyền thông hoàn toàn truy nhập) và hệ thống GSM (Global System for
Mobile- hệ thống di động toàn cầu). Hệ thống NMT ban đầu đã được thiết
kế cho các mạng tương đối nhỏ gồm 20.000- 30.000 thuê bao và cung cấp
180 kênh, mỗi kênh sử dụng dải thông 25 hoặc 30 KHz trong dải tần 450
MHz. Một thế hệ sau này của NMT cung cấp dung lượng lớn hơn ở dải tần


900 MHz, nó có khả năng cung cấp 1.000 kênh, mỗi kênh sử dụng dải thông
25 KHz hoặc 2.000 kênh, mỗi kênh có dải thông12,5 KHz. Và hiện tại có
khoảng 30 nước đã sử dụng hệ thống NMT. Hệ thống TACS được sử dụng ở
Châu Âu, Anh Quốc và khoảng vài chục nước khác. Một dạng chuyển hoá
của TACS được sử dụng ở Nhật Bản gọi là JTACS, cung cấp 1.320 kênh,
mỗi kênh chiếm dải thông 25 KHz. Còn sự ra đời của GSM có thể nói là do
các nước khác nhau ở Châu Âu sử dụng các tiêu chuẩn mạng tế bào khác
nhau, cho nên cần có một tiêu chuẩn duy nhất để cung cấp khả năng chuyển
vùng (Các tiêu chuẩn khác nhau không chỉ sử dụng các giao thức khác nhau
mà còn hoạt động ở các tần số khác nhau, vì vậy không thể có tính tương
thích tòn cầu). Do vậy hệ thống GSM đã được phát triển như một dịch vụ số
hoá hoàn toàn có thể dùng được ở Châu Âu và nhiều nước khác. GSM được
thiết kế để làm việc ở băng tần 900 MHz và qui định tám khe thời gian cho
mỗi kênh rộng 200 KHz.
2. Cấu trúc cơ bản của mạng tế bào
Về cơ bản, hệ thống điện thoại di động tế bào gồm các máy điện thoại
di động trên xe ô tô hoặc xách tay (MS), trạm gốc (BS) và tổng đài di động
(MSC- trung tâm chuyển mạch điện thoại di động).
Trong đó, máy điện thoại di động bao gồm các bộ thu/phát RF, anten
và bộ điều khiển . BS cũng bao gồm các bộ thu/phát RF để kết nối giữa máy
di động với trung tâm chuyển mạch của hệ thống, anten, bộ điều khiển, đầu
cuối số liệu và nguồn cung cấp. Còn MSC bao gồm bộ phận điều khiển, bộ
phận kết nối cuộc gọi, các thiết bị ngoại vi và cung cấp chức năng thu thập
số liệu cước đối với các cuộc gọi đã hoàn thành.
Các thành phần chức năng của mạng được liên kết với nhau thông qua
các đường kết nối thoại và số liêụ. Mỗi máy di động sử dụng một cặp kênh
thu/phát RF. Vì các kênh lưu lượng không cố định ở một kênh RF nào mà
thay đổi thành các tần số RF khác nhau phụ thuộc vào sự di chuyển của máy
di động trong suốt quá trình cuộc gọi. Nên cuộc gọi có thể được thiết lập ở
bất kỳ một kênh nào đã được xác định trong vùng đó. Cũng từ những quan

điểm về hệ thống điện thoại di động mà thấy rằng tất cả các kênh đã được
xác định đều có thể bận do được kết nối một cách đồng thời với các máy di
động. MSC xử lý các cuộc gọi đi và đến từ mỗi BS và cung cấp chức năng
điều khiển trung tâm cho hoạt động của tất cả các BS một cách hiệu quả và
để truy nhập vào tổng đài của mạng điện thoại công cộng. Bộ phận điều
khiển của MSC có thể nói là trái tim của hệ thống tế bào vì nó sẽ điều khiển,
sắp đặt và quản lý toàn bộ hệ thống. Tổng đài MSC kết nối các đường đàm
thoại để thiết lập cuộc gọi giữa các máy thuê bao di động với nhau hoặc các
thuê bao cố định với các thuê bao di động và trao đổi các thông tin báo hiệu
đa dạng qua đường số liệu giữa MSC và BS. Các thông tin thoại và báo hiệu
giữa máy di động và BS được truyền đi qua kênh RF, các đường kết nối
thoại và số liệu cố định được sử dụng để truyền các thông tin thoại và báo
hiệu giữa BS và MSC.
Với hệ thống này, do các máy phát thường có công suất lớn hơn nhiều
(500 w) so với các máy di động (25 W). Và đương nhiên anten của máy di
động thường ở mức thấp hơn nhiều so với anten phát. Để cự ly thông tin của
hệ thống được như nhau theo cả hai chiều, người ta thường dùng các trạm
đầu xa chứa các máy thu. Các trạm đầu xa này sẽ thu nhận tín hiệu phát của
máy di động và gửi chuyển tiếp tín hiệu đó trở lại bộ điều khiển hệ thống để
xử lý.
Trong khi đó, đối với mạng tế bào người ta lại bố trí các máy thu/phát
trong vô số các tế bào nhỏ trong phạm vi của vùng bao phủ. Các máy
thu/phát được điều khiển bởi một bộ xử lý trung tâm hoặc một tổng đài, sao
cho thuê bao có thể di chuyển giữa các cell mà dịch vụ vẫn được duy trì.
Điều này cho phép tái sử dụng lại tần số và tạo điều kiện để mạng tế bào có
Máy phát
Bộ điều khiển
hệ thống
Tổng đài
đầu cuối

(Đến các
máy thu)
(Đến các máy thu)
Đường dây
dành riêng
Đường dây
dành riêng
Đường dây
dành riêng
Quay số gọi đến
trực tiếp (DID)
Tới
PSTN
tiềm năng dung lượng lớn hơn nhiều so với các hệ thống thông tin di động
trước đây.
Hình vẽ: Hệ thống tế bào điển hình
MSC# 1
MSC# 2
Tới PSTN hoặc
các mạng khác
Tới PSTN hoặc
các mạng khác
Cell A
Cell B
. . .
Tuyến kết nối
CHƯƠNG II : PHƯƠNG PHÁP TRUY NHẬP KÊNH
TRONG THÔNG TIN DI ĐỘNG
1. Kỹ thuật ghép kênh (Multiplexing)
Để làm tăng dung lượng của dải vô tuyến dùng trong một lĩnh vực nào

đó, chẳng hạn như trong thông tin di động thì người ta phải sử dụng kỹ thuật
ghép kênh. Hiện nay có rất nhiều loại ghép kênh, nhưng ba hình thức thông
dụng nhất là:
• FDMA (Frequency Division Multiple Access- Đa truy nhập
phân chia theo tần số).
• TDMA (Time Division Multiple Access- Đa truy nhập phân
chia theo thời gian).
• CDMA (Code Division Multiple Access- Đa truy nhập phân
chia theo mã).
Liên quan đến việc ghép kênh là dải thông mà mỗi kênh hoặc mỗi
mạch chiếm trong một băng tần nào đó. Trong mỗi hệ thống ghép kênh đều
sử dụng khái niệm đa truy nhập, điều này có nghĩa là các kênh vô tuyến
được nhiều thuê bao dùng chung chứ không phải là mỗi khách hàng được
gán cho một tần số riêng.
2. FDMA
Đối với các hệ thống tế bào hiện đang sử dụng kỹ thuật ghép kênh
FDMA, đều chia toàn bộ băng tần được phân phối cho một nhà khai thác
mạng tế bào (Khoảng 25 MHz) thành các kênh rời rạc. Vì mỗi kênh thường
có độ rộng dải là 30 KHz, cho nên hệ thống có tất cả 832 kênh khả dụng.
Mỗi cuộc đàm thoại cần sử dụng hai tần số, cho nên mỗi nhà khai thác có
416 cặp tần số khả dụng. Mỗi cặp có thể gán cho một thuê bao mạng tế bào
vào bất kỳ lúc nào.
Thiết bị di động sử dụng kỹ thuật FDMA ít phức tạp hơn so với các
thiết bị sử dụng các kỹ thuật ghép kênh khác và nói chung giá thành cũng rẻ
hơn. Tuy nhiên, do mỗi kênh cần dùng một máy phát và một máy thu riêng
biệt. Cho nên FDMA đòi hỏi rất nhiều thiết bị tại vị trí trạm gốc. Kỹ thuật
FDMA có khả năng sử dụng được với cả các hệ thống truyền dẫn số
(Digital) lẫn các hệ thống truyền dẫn tương tự (Analog).
Sau đây là minh hoạ về kỹ thuật FDMA sử dụng cho hệ thống tế bào
analog ở Hoa Kỳ:

Như vậy, mỗi kênh chiếm dải thông và đáp ứng cho một cuộc đàm
thoại. Tần số của mỗi kênh tuy khác nhau nhưng nhiều máy vô tuyến có thể
truy nhập tới được.
3. TDMA
Với TDMA mỗi kênh vô tuyến được chia thành các khe thời gian.
Từng cuộc đàm thoại được biến đổi thành tín hiệu số và sau đó được gán cho
một trong những khe thời gian này. Số lượng khe trong một kênh có thể thay
đổi bởi vì nó là một nhiệm vụ của thiết kế hệ thống. Có ít nhất là hai khe
thời gian cho một kênh, và thường thì nhiều hơn, điều đó có nghĩa là TDMA
có khả năng phục vụ số lượng khách hàng nhiều hơn vài lần so với kỹ thuật
FDMA với cùng một đại lượng dải thông như vậy.
TDMA là một hệ thống phức tạp hơn FDMA, bởi vì tiếng nói phải
được số hoá hoặc mã hoá, sau đó được lưu trữ vào một bộ nhớ đệm để gán
cho một khe thời gian trống và cuối cùng mới phát đi. Do đó việc truyền dẫn
tín hiệu là không liên tục và tốc độ truyền dẫn phải lớn hơn vài lần tốc độ mã
hoá. Ngoài ra, do có nhiều thông tin hơn chứa trong cùng một dải thông nên
thiết bị TDMA phải được sử dụng kỹ thuật phức tạp hơn để cân bằng tín
hiệu thu nhằm duy trì chất lượng của tín hiệu.
30 KHz kênh 1
Thoại
analog
30 KHz kênh 832
.
.
.
Thoại
analog
Hình vẽ dưới đây minh hoạ kỹ thuật TDMA, các kênh analog 30 kHz
dùng cho mạng tế bào hỗ trợ được ba kênh digital. Các đường truyền âm
thanh analog của mỗi cuộc đàm thoại đi qua bộ biến đổi A/D và sau đó

chiếm một khe thời gian trong kênh analog 30 kHz.
4. CDMA
Trong kỹ thuật CDMA, tín hiệu mang tin ( ví dụ như tiếng nói) được
biến đổi thành tín hiệu digital, sau đó được trộn với một mã giống như mã
ngẫu nhiên. Tín hiệu tổng cộng, tức tiếng nói cộng với mã giả ngẫu nhiên,
khi đó được phát trong một dải tần rộng nhờ một kỹ thuật gọi là trải phổ.
Không giống FDMA hay TDMA, truyền dẫn trải phổ mà CDMA sử
dụng đòi hỏi các kênh có dải thông tương đối rộng (Thường là 1,25 MHz).
Tuy nhiên theo tính toán lý thuyết thì CDMA có thể chứa được số thuê bao
lớn gấp khoảng 20 lần mà FDMA có thể có trong một dải thông tổng cộng
như nhau .
30 kHz kênh 1
30 kHz kênh 832
.
.
.
Bộ biến
đổi A/D
Bộ biến
đổi A/D
Bộ biến
đổi A/D
Bộ biến
đổi A/D
Bộ biến
đổi A/D
Bộ biến
đổi A/D
(1)
(2)

(3)
(4)
(5)
(6)
Bộ biến
đổi A/D
Tạo

Bộ biến
đổi A/D
Tạo

(20)
Bộ biến
đổi A/D
Tạo

Bộ biến
đổi A/D
Tạo

(20)
1,25 MHz
kênh 1
1,25 MHz
kênh 20
.
.
.
(1)

(1)
Hình vẽ trên là một minh hoạ của kỹ thuật CDMA. Dải thông tăng từ
30 kHz lên 1,25 MHz, nhưng trong dải thông này bây giờ còn xấp xỉ 20 cuộc
đàm thoại. Mỗi đường thoại analog trước hết được biến đổi thành digital nhờ
bộ biến đổi A/D đúng như với TDMA. Tuy nhiên sau đó thêm một bước nữa
là chèn một mã đặc biệt qua một bộ tạo mã. Sau đó tín hiệu được phát đi, trải
rộng thêm 1,25 MHz dải thông chứ không chiếm một khe thời gian riêng
trong dải này.
Các đặc tính tiên tiến của thông tin di động sử dụng kỹ thuật CDMA:
Tái sử dụng tần só:
Trong các hệ thống thông tin di động TDMA, mỗi tần số được tái sử
dụng lại tại các tế bào cách nhau một cự ly nhất định. Nhưng trong hệ thống
sử dụng kỹ thuật CDMA, một tần số được sử dụng trên cc tế bào kề nhau.
Với việc tái sử dụng tần số, ở mức độ giao thoa cho phép có thể đạt dung
lượng của hệ thống cao hơn nhiều so với các hệ thống di động dùng kỹ thuật
FDMA hoặc TDMA.
Dung lượng đạt cao hơn:
Trong hệ thống di động CDMA, khoảng 27 cuộc gọi tốc độ 9,6 Kb/s
có thể làm việc đồng thời trong một sector và 18 cuộc gọi tốc độ 14,4 Kb/s
đồng thời cho một sector. Dung lượng của hệ thống CDMA lớn gấp 13,5 lần
so với hệ thống di động AMPS, và lớn gấp 5 lần so với hệ thống di động
TDMA.
Khả năng chuyển vùng mềm:
Quá trình máy di động di chuyển trong vùng phủ sóng có thể xảy ra
ba loại chuyển vùng khác nhau là: Chuyển vùng cứng (Máy di chuyển giữa
các LA kề nhau hay giữa các BSC), chuyển vùng mềm (Máy di chuyển giữa
các BTS của cùng một BSC) và chuyển vùng mềm hơn (Máy di chuyển giữa
các sector của cùng một BTS).
Trong khi hệ thống di động TDMA sử dụng kỹ thuật chuyển vùng cắt
trước khi nối thì trong công nghệ CDMA lại sử dụng kỹ thuật nối trước khi

cắt. Khi đang di chuyển, máy di động vẫn tiếp tục dò tìm tín hiệu dẫ đường
của các trạm thu phát bên cạnh. Nó so sánh tín hiệu thu được của các trạm
lân cận với tín hiệu của trạm đang kết nối. Khi cường độ thu của trạm lân
cận đạt đến một mức ngưỡng nào đấy thì việc chuyển vùng mềm có thể sẽ
được thực hiện. Lúc này, máy di động gửi bản tin đến trạm điều khiển trung
tâm (BSC). Trạm trung tâm thực hiệ kết nối máy di động và trạm thu phát
mới trong khi vẫn giữ đường kết nối ban đầu. Chỉ sau khi thực hiện thành
công việc kết nối rồi mới cắt liên lạc với trạm cũ. Ưu điểm nổi bật của
chuyển vùng mềm và chuyển vùng mềm hơn là loại trừ được các hiện tượng
rơi cuộc gọi hay gán đoạn thông tin trong khi máy di động di chuyển trong
vùng giáp danh giữa các BTS hoặc giữa các sector trong cùng một BTS.
Tính đa dạng của phân tập:
Phân tập là một phương pháp hiệu quả để giảm fading. Có ba loại
phân tập là:
• Phân tập theo thời gian dùng kỹ thuật chèn mã, tách lỗi và sửa
sai.
• Phân tập theo khoảng cách: thiết kế nhiều cặp antenthu tại một
trạm gốc BTS, thiết lập nhiều đường báo hiệu (chuyển vùng
mềm) để kết nối với máy di động đồng thời với hai hoặc nhiều
BTS.
• Loại phân tập dùng phương pháp thu đa đường là phân tập cao
nhất nhờ đặc tính duy nhất của CDMA là thu/phát dùng mã PN
mà các hệ thống vô tuyến di động khác không có. Nhờ có bộ
tương quan song song mã PN, nó xác định tín hiệu thu theo mỗi
đường sau đó tổ hợp và giải điều chếcc tín hiệu thu được.
Fading có thể xuất hiện trong mỗi tín hiệu thu được nhưng
không có tác động đến các đường thu khác nếu không có sự
tương quan PN giữa các đường thu. Vì vậy tổng tín hiệu thu
được có độ tin cậy rất cao vì khả năng có fading đồng thời trong
tất cả các tín hiệu là rất thấp.

Với việc ứng dụng nhiều loại phân tập, các kỹ thuật vô tuyến di động
dùng kỹ thuật CDMA khắc phục được các hiện tượng gián đoạn cuộc gọi,
cải thiện đáng kể chất lượng thoại và truyền số liệu.
Điều khiển tự động công suất phát:
Công suất phát của máy di động được tự động điều chỉnh sao cho tất
cả các máy di động trong một vùng phục vụ có thể thu được với đọ nhạy
trung bình tại bộ thu của trạm gốc BTS. Bộ thu CDMA của trạm gốc BTS
chuyển tín hiệu thu được từ máy tương ứng thành thông tin số băng hẹp. Khi
đó tín hiệu thu được của các máy di động còn lại là tín hiệu nhiễu của băng
rộng. Thủ tục thu hẹp băng nhằm nâng cao tỷ số S/N lên đến mức cao nhất.
Dung lượng của hệ thống đạt được là lớn nhất khi tín hiệu thu được tại BTS
từ các máy di động có tỷ số S/N đạt giá trị cao nhất. Trạm BTS cung cấp
chức năng mở mạch điều khiển công suất qua việc cung cấp cho máy di
động một hằng số công suất. Hằng số này liên quan đến các yếu tố như tải,
tạp âm của BTS, tăng ích của anten và khuếch đại công suất. Các thông tin
này được gửi tới máy di động như một bản tin thông báo, thông qua mạch
đóng trạm gốc BTS điều chỉnh cống suất mạch mở để máy di động giữ được
công suất phát tối ưu nhất. Trạm gốc cứ sau khoảng thời gian 1,25 ms lại so
sánh tín hiệu thu được từ máy di động với giá trị ngưỡng biến đổi và BTS
điều khiển máy di động điều chỉnh công suất phát đến khi đạt kết quả tốt.
Mục đích của việc điều khiển công suất phát của trạm gốc còn đạt mục tiêu
giảm công suất phát của máy di động mỗi khi ở trạng thái rỗi hoặc ở vị trí
gần BTS. Với kêt quả này công suất sẽ tập trung cung cấp cho các máy ở
vùng có nguy cơ thu gián đoạn hay máy di động đang ở vị trí xa BTS.
Công suất phát thấp:
Việc giảm tỷ số S/N không những làm tăng dung lượng hệ thống mà
còn có tác dụng giảm công suất phát đẻ khắc phục tạp âm và giao thoa. Khi
giảm công suất phát, sẽ giảm được giao thoa Và bán kính phục vụ của một
trạm gốc có thể đạt lớn hơn, số lượng trạm gốc BTS cần ít hơn so với các hệ
thống di động TDMA.


Bảo mật cuộc gọi:
Hệ thống CDMA cung cấp chức năng bảo mật thông tin rất cao vì tạo
được mã PN riêng biệt cho mỗi máy, vì vậy dùng máy thu khác để nhận
dạng hay tìm kiếm là rất khó khăn.
5. So sánh các công nghệ FDMA, TDMA với CDMA ứng dụng trong
thông tin di động tế bào:
Trong FDMA mỗi một khe tần số được dành riêng cho một người sử
dụng và người này sẽ dùng khe tần số này suốt quá trình cuộc gọi . Trong sơ
đồ TDMA mỗi người dùng được cấp cho một khe thời gian trong quá trình
gọi. Số lượng người dùng được quyết định bởi số lượng các khe thời gian
hay tần số khác nhau có sẵn. Trong sơ đồ CDMA tất cả các người dùng phát
đồng thời và trên một tần số. Tín hiệu được phát đi chiếm toàn bộ dải thông
của hệ thống và các dãy mã được sử dụng để phân biệt người sử dụng này
với người sử dụng kia.
CDMA hơn hẳn so với các kỹ thuật đa truy nhập khác. Nó có thể tính
được phương sai trong hàm truyền của kênh gây ra bởi bộ chọn lọc tần số.
Các máy thu CDMA được thiết kế để tận dụng ưu điểm từ đặc tính nhiều
đường liên quan đến fading chọn lọc tần số và để làm giảm tối thiểu ảnh
hưởng của chúng đến dung lượng của hệ thống.
Ưu điểm chủ yếu về dung lượng của CDMA có được trong môi
trường vô tuyến đa tế bào. Trong thông tin di động trước đây một trạm gốc
công suất lớn được sử dụng để phủ sóng cho một vùng rộng lớn. Hệ thống
này bị hạn chế khắt khe về mặt băng tần và không thể đáp ứng các dịch vụ di
động. Trong hệ thống điện thoại di động tế bào, máy phát của trạm gốc đơn
lẻ được thay thế bởi rất nhiều các trạm gốc có công suất nhỏ hơn, mỗi máy
phát phủ sóng cho một vùng có dạng tổ ong, gọi là một tế bào. Trong các hệ
thống FDMA hay TDMA mỗi tế bào được chia cho một phần tử của dãy tần
số có sẵn. Dãy tần được dùng trong một tế bào có thể được sử dụng lại trong
tế bào khác cách đó đủ xa sao cho tín hiệu trong hai tế bào này không gây

nhiễu đến nhau. Số K tế bào sử dụng hết toàn bộ phổ tần có sẵn được gọi là
cluster (cụm). Các cluster được bố trí như hình vẽ sau:


G
B
C
D
F
A
E
G
B
C
D
F
A
E
G
B
C
DF
A
E
G
B
C
D
F
A

E
G
B
C
DF
A
E
Hình vẽ: Cấu trúc cơ bản của hệ thống tế bào
Những tín hiệu cơ bản của người sử dụng khác đồng thời trên cùng
băng tần sẽ gây ra nhiễu đồng kênh. Nhiễu đồng kênh là một tham số giới
hạn của hệ thống vô tuyến di động. Phương pháp tái sử dụng tần sổ trong
TDMA/FDMA và FM/FDMA gây ra nhiễu đồng kênh vì có cùng một dải
tần được sử dụng lại ở một tế bào khác. Việc sử dụng các cluster 7 tế bào
trong nhiều hệ thống vô tuyến di động là không đủ để tránh hiện tượng nhiễu
đồng kênh. Có thể tăng K lớn hơn 7 để giảm nhiễu đồng kênh nhưng sẽ làm
giảm số lượng các kênh trong một tế bào, do vậy sẽ làm giảm dung lượng
của hệ thống. Tương tự nếu giữ nguyên hệ số tái sử dụng là 7 và chia tế bào
thành những vùng nhỏ hơn. Mỗi tế bào được chia thành ba hoặc sáu vùng
nhỏ sẽ sử dụng ba hoặc sáu anten định hướng tương ứng tại trạm gốc phục
vụ cho cả thu lẫn phát. Mỗi vùng nhỏ này sử dụng một dải tần riêng, khác
với dải tần của các vùng kia. Thí dụ, nếu một tế bào được chia thành ba vùng
nhỏ thì nhiễu thu được trên anten định hướng chỉ sấp xỉ một phần ba của
nhiễu thu được trên anten vô hướng đặt tại trạm gốc. Sử dụng tế bào chia
nhỏ thành ba vùng thì số lượng người dùng trong một tế bào có thể tăng
thêm gấp ba lần trong cùng một cluster.
Một vấn đề quan trọng khác trong việc tăng dung lượng của hệ thống
là tính tích cực của thoại. Trong một cuộc thoại giữa hai người, mỗi người
chỉ nói khoảng 35% đến 40% thời gian và nghe hết thời gian còn lại. Trong
hệ thống CDMA tất cả những người sử dụng cùng chia sẻ một kênh vô
tuyến. Khi những người sử dụng trên kênh đang liên lạc không nói thì những

người sử dụng đang đàm thoại khác sẽ chỉ chịu ảnh hưởng rất nhỏ của nhiễu.
Do vậy việc giám sát tính tích cực của tiếng nói làm giảm nhiễu đa truy nhập
đến 65%. Điều này dẫn đến việc tăng dung lượng của hệ thống lên hệ số 2,5.
Trong đa truy nhập FDMA hoặc TDMA việc người sử dụng được
phân chia tần số hoặc thời gian trong thời gian diễn ra cuộc gọi và hệ thống
cấp lại hai tài nguyên này cho hai người khác trong khoảng thời gian rất
ngắn khi kênh ấn định yên lặng là không thực tế vì điều này yêu cầu phải
chuyển mạch rất nhanh giữa những người sử dụng khác nhau. Trong FDMA
và TDMA việc tổ chức tần số là yêu cầu khó khăn vì nó kiểm soát nhiễu
đồng kênh. Trong hệ thống CDMA chỉ có một kênh chung nên không cần
thực hiện tổ chức tần số.
Trong FDMA và TDMA, khi máy di động ra khỏi vùng phủ sóng của
tế bào trong quá trình đàm thoại thì tín hiệu thu được sẽ bị yếu đi và trạm
gốc sẽ yêu cầu chuyển giao (handover). Hệ thống sẽ chuyển mạch sang một
kênh mới khi cuộc gọi tiếp tục. Trong CDMA các tế bào khác nhau, khác
nhau ở chỗ sử dụng các dãy mã khác nhau nhưng giống nhau là đều sử dụng
cùng phổ tần. Do đó không cần phải thực hiện handover từ tần số này qua
tần số khác. Chuyển giao như vậy được gọi là chuyển giao mềm (soft
handover).
Trong hệ thống CDMA không có một giới hạn rõ ràng về số lượng
người dùng như trong FDMA và TDMA. Tuy vậy chất lượng hoạt động của
hệ thống đối với tất cả những người sử dụng giảm ít nhiều khi số lượng
người sử dụng cùng liên lạc tăng lên. Khi số người sử dụng tăng lên đến
mức độ nào đó thì sẽ khiến cho nhiễu có thể làm cho tiếng nói trở nên khó
hiểu và gây mất ổn định hệ thống. Tuy nhiên trong CDMA ta quan tâm đến
điều kiện “phong toả mềm”, có thể giải toả được trái với điều kiện “phong
toả cứng” như trong TDMA và FDMA khi mà tất cả các kênh đều bị chiếm.
Hệ thống CDMA cũng có một vài nhược điểm. Hai nhược điểm nổi
bật là: hiệu ứng tự nhiễu và hiệu ứng xa gần. Hiệu ứng tự nhiễu do các dãy
mã không trực giao gây ra. Trong hệ thống vô tuyến di động các máy di

động truyền tin độc lập với nhau, tín hiệu của chúng không đến trạm gốc
một cách cùng lúc. Do trễ thời gian của chúng là phân bố ngẫu nhiên nên sự
tương quan chéo giữa các tín hiệu thu được từ những người sử dụng là khác
không. Để nhận được nhiễu có mức thấp tất cả tín hiệu phải có tương quan
chéo nhỏ và mọi trễ thời gian tương đối. Tương quan chéo giữa các ký tự có
được bằng việc thiết kế một tập các dãy trực giao. Tuy nhiên không có một
tập dãy mã nào được biết là hoàn toàn trực giao khi được dùng trong hệ
thống không đồng bộ. Các thành phần không trực giao của tín hiệu của
những người sử dụng khác sẽ xuất hiện như là nhiễu trong tín hiệu điều chế
mong muốn. Nếu sử dụng máy thu có bộ lọc thích ứng trong hệ thống như
vậy thì số lượng của người sử dụng bị hạn chế bởi nhiễu gây ra bởi những
người sử dụng khác. Điều này khác với trong các hệ thống TDMA và
FDMA, trong các hệ thống này tính chất trực giao của tín hiệu thu được bị
duy trì bằng việc chọn lọc và đồng bộ chính xác.
Hạn chế chính của CDMA là hiệu ứng xa gần. Hiện tượng này xuất
hiện khi một tín hiệu yếu từ một máy di động ở xa thu được tại trạm gốc bị
chèn ép bởi tín hiệu mạnh từ nguồn nhiễu đó. Tín hiệu nhiễu với công suất
lớn hơn n lần công suất tín hiệu mong muốn sẽ tác dụng gần như là n tín
hiệu nhiễu có công suất bằng công suất của tín hiệu. Để khắc phục hiệu ứng
xa gần trong hầu hết các ứng dụng CDMA người ta sử dụng các sơ đồ điều
khiển công suất. Trong hệ thống tế bào điều khiển công suất được thực hiện
bởi các trạm gốc, các trạm này định kỳ ra lệnh các máy di động điều chỉnh
công suất máy phát sao cho tất cả các tín hiệu thu được tại trạm gốc với mức
công suất là như nhau.

CHƯƠNG III : GIỚI THIỆU CHUNG VỀ AMPS
1. Giới thiệu chung
AMPS là hệ thống điện thoại di động tổ ong do AT&T và Motorola-
Mỹ đề xuất sử dụng vào năm 1982. Để sử dụng hiệu quả hơn nguồn tần số
có giới hạn nên vùng phục vụ rộng của nó được phân chia thành các cell nhỏ

và dịch vụ cung cấp sử dụng một tần số nhất định với một công suất nhỏ để
cho phép các BS ở cách xa một khoảng cách nhất định có thể tái sử dụng
cùng một tần số đó một cách đồng thời. Sau đó, người ta coi vùng phục vụ
tương ứng như một hình lục giác để làm đơn giản hoá việc thiết kế và tính
toán lý thuyết về mạng điện thoại di động.
Tái sử dụng tần số liên quan đến việc định vị các BS để tái sử dụng
các tần số chính xác, không phải sử dụng cùng một tần số giữa các BS kề
nhau mà chỉ sử dụng lại ở một khoảng cách nhất định hoặc xa hơn nhằm làm
giảm giao thoa giữa các kênh giống nhau.
Ngoài ra còn có các mẫu tái sử dụng tần số ứng với K= 12 hoặc 19.
Qua hình vẽ cho ta thấy các cụm mẫu tái sử dụng tần sốcủa các BS với tất cả
các băng tần có thể, số lượng cell trong cụm đó gọi là yếu tố tái sử dụng tần
số (K).
Trong trường hợp này thì hiệu quả tái sử dụng tần số nếu một anten
định hướng được sử dụng tại BS, vì giao thoa tần số chỉ ảnh hưởng đến các
BS sử dụng cùng một kênh trong anten phát xạ định hướng. Và vì vậy giao
thoa ở các kênh chính tăng (Thông thường sử dụng vùng phủ sóng 120
0
- sử
dụng 3 sector trong một cell).
Khi xuất hiện trạng thái chuyển vùng thì tín hiệu đã được kết nối với
BS có khả năng thu nhận tín hiệu tốt. Trong trạng thái chuyển vùng thì kênh
bị ngắt trong khoảng thời gian ngắn (150 ms) và chuyển vùng sẽ bị trì hoãn
hoặc bị cản trở trong trường hợp không có kênh trong cell. Dịch vụ chuyển
vùng ngoài hệ thống thông thường được cung cấp trong một vùng phục vụ
khác, do một hệ thống khác điều khiển mà thuê bao nói đến không đăng ký.
2. So sánh một số các thông số giữa các hệ thống analog

4


1

2

3

4

1

2

3

4

1

2

3

4

1

2

3
K= 4


4

1

2

5

7

6

3

4

1

2

5

7

6

3

4


1

2

5

7

6

3
K= 7
Tham số AMPS TSCS/ETACS NMT 900 NMT 450
Băng tần phát 8000 MHz 9000 MHz 9000 MHz 450-470 MHz
Khoảng cách kênh 30 KHz 25 KHz 25/12,5 KHz 25/10 KHz

Khoảng cách
Song công 45 MHz 45 MHz 45 MHz 10 MHz
Số kênh 832 920 (*) 1000 (1999) 180/225
Loại điều chế FM FM FM FM
Độ lệch đỉnh 12 KHz 9,5 KHz 4,7 KHz 4,7 KHz

Thiết bị nén dãn 2:1 Syllabic 2:1 Syllabic 2:1 Syllabic Không
Kế hoặc cell 4,7,12 4,7,12 7,9,12 7
Đ iều chế kênh
điều khiển (ĐK) FSK FSK FFSK FFSK

Độ lệch kênh ĐK 8 KHz 6,4 KHz 3,5 KHz 3,5 KHz
Mã kênh ĐK Manchester Manchester NRZ NRZ

Dung lượng
kênh ĐK 77000 62000 13000 13000
Tốc độ truyền dẫn 10 Kb/s 8 Kb/s 1,2 Kb/s 1,2 Kb/s
Bảo mật thoại có thể có thể không không
Dịch vụ chuyển
vùng ngoài
hệ thống có có có bị giới hạn
* Bao gồm cả các kênh dự trữ cho GSM .
CHƯƠNG IV : CẤU TRÚC MẠNG GSM
Tham số AMPS TSCS/ETACS NMT 900 NMT 450
Băng tần phát 8000 MHz 9000 MHz 9000 MHz 450-470 MHz
Khoảng cách kênh 30 KHz 25 KHz 25/12,5 KHz 25/10 KHz

Khoảng cách
Song công 45 MHz 45 MHz 45 MHz 10 MHz
Số kênh 832 920 (*) 1000 (1999) 180/225
Loại điều chế FM FM FM FM
Độ lệch đỉnh 12 KHz 9,5 KHz 4,7 KHz 4,7 KHz

Thiết bị nén dãn 2:1 Syllabic 2:1 Syllabic 2:1 Syllabic Không
Kế hoặc cell 4,7,12 4,7,12 7,9,12 7
Đ iều chế kênh
điều khiển (ĐK) FSK FSK FFSK FFSK

Độ lệch kênh ĐK 8 KHz 6,4 KHz 3,5 KHz 3,5 KHz
Mã kênh ĐK Manchester Manchester NRZ NRZ
Dung lượng
kênh ĐK 77000 62000 13000 13000
Tốc độ truyền dẫn 10 Kb/s 8 Kb/s 1,2 Kb/s 1,2 Kb/s
Bảo mật thoại có thể có thể không không

Dịch vụ chuyển
vùng ngoài
hệ thống có có có bị giới hạn
1. Cấu trúc mạng GSM

OSS : Hệ thống khai thác và hỗ trợ
AUC : Trung tâm nhận thực
HLR : Bộ ghi định vị thường trú
MSC : Tổng đài di động
BSS : Hệ thống trạm gôc
BSC : Đài điều khiển trạm gốc
OMC : Trung tâm khai thác và bảo dưỡng
PSPDN: Mạng chuyển mạch gói công cộng
PSDN : Mạng chuyển mạch điện thoại công cộng
SS : Hệ thống chuyển mạch
VLR : Bộ ghi định vị tạm trú
EIR : Thanh ghi nhận dạng thiết bị
BTS : Đài vô tuyến gốc
MS : Máy di động
ISDN : Mạng số liên kết đa dịch vụ
CSPDN : Mạng chuyển mạch số công cộng theo mạch
PLMN : Mạng di động mặt đất công cộng
SS
AUC
AUC
MS
MS
EIR
EIR
MSC

MSC
HLR
HLR
BSS
BSC
BSC
BTS
BTS
VLR
VLR
ISDN
ISDN
OMC
OMC
PSPDN
PSPDN
PLMN
PLMN
PSTN
PSTN
CSPDN
CSPDN
2. Hệ thống GSM
Hệ thống này được chia thành hệ thống chuyển mạch SS và hệ thống
trạm gốc BSS, mỗi hệ thống này có một số chức năng tại đó thực hiện tất cả
các chức năng của hệ thống. Và những khối chức năng này được thực hiện ở
các thiết bị khác nhau.
Hệ thống được thực hiện như một mạng gồm nhiều cell vô tuyến cạnh
nhau để cùng đảm bảo toàn bộ vùng phủ sóng của vùng phục vụ. Mỗi cell có
một trạm vô tuyến gốc BTS làm việc ở một tập hợp các kênh vô tuyến. Các

kênh này khác với các kênh được sử dụng ở các cell lân cận để tránh nhiễu
giao thoa.
+ Một bộ điều khiển trạm gốc BSC sẽ điều khiển một nhóm BTS.
BSC điều khiển các chức năng như chuyển giao và điều khiển công suất.
+ Một MSC (trung tâm chuyển mạch các dịch vụ di động ) phục vụ
một số bộ điều khiển trạm gốc, MSC điều khiển các cuộc gọi tới và đi từ
mạng chuyển mạch điện thoại công cộng PSTN, mạng số liên kết đa dịch vụ
ISDN, mạng di động mặt đất công cộng PLMN và các mạng số liệu công
cộng PSDN, và có thể là các mạng riêng.
Các khối nói trên đều tham gia vào việc nối thông giữa một trạm di
động MS và một thuê bao di động ở PSDN. Nếu không thể thực hiện một
cuộc gọi đến MS ta sẽ không cần bất cứ một thiết bị nào khác. Vấn đề nảy
sinh khi ta muốn thực hiện một cuộc gọi kết cuối ở MS .người gọi hầu như
không biết MS được gọi ở đâu. Vì thế cần có một số cơ sở dữ liệu mạng để
theo dõi MS. Cơ sở dữ liệu quan trọng nhất là bộ đăng ký thường trú HLR.
Khi một thuê bao di động mua một đăng ký từ một hãng khai thác GSM,
thuê bao di động này sẽ được đăng ký ở HLR của hãng này. HLR chứa các
thông tin về thuê bao như các dịch vụ bổ xung và các tần số nhận thực,
quyền thâm nhập của thuê bao, các dịch vụ mà thuê bao đăng ký, các số liệu
động về vùng mà ở đó đang chứa thuê bao của nó (Roaming), trong HLR
còn tạo báo hiệu số 7 trên giao diện với MSC. Ngoài ra sẽ có thông tin về vị
trí của MS tức là hiện thời vị trí của MS ở đâu thuộc MSC nào. Thông tin
này thay đổi khi MS di động. MS sẽ gửi thông tin về vị trí thông qua
MSC/HLR đến HLR của mình, nhờ vậy đảm bảo phương tiện để thu một
cuộc gọi.
2.1. Hệ thống con chuyển mạch (SS)
Hệ thống con chuyển mạch (SS): bao gồm các chức năng chuyển
mạch chính của GSM cũng như các cơ sở dữ liệu cần thiết cho số liệu thuê
bao và quản lý di động của thuê bao. Chức nãng chính của SS là quản lý
thông tin giữa những người sử dụng mạng GSM với nhau và với mạng khác.

MSC thực hiện các chức năng chuyển mạch chính, nhiệm vụ chính của MSC
là điều phối việc thiết lập cuộc gọi đến những thuê bao của GSM, một mặt
MSC giao tiếp với hệ thống con BSS và mặt khác giao tiếp với mạng ngoài
qua G-MSC.
SS cũng cần giao tiếp với mạng ngoài để sử dụng khả năng truyền tải
của các mạng này cho việc truyền tải số liệu của người sử dụng hay báo hiệu
giưã các phần tử của mạng GSM. Chẳng hạn SS có thể sử dụng mạng báo
hiệu kênh chung số 7, mạng này đảm bảo hoạt động tương tác giữa các phần
tử của SS trong một hay nhiều mạng GSM. MSC thường là một tổng đài lớn
điều khiển và quản lý một số các bộ điều khiển trạm gốc BSC. Một tổng đài
MSC thích hợp cho một vùng đô thị và ngoại ô có dân cư vào khoảng một
triệu (với mật độ thuê bao trung bình).
• Khối IWF:
Để kết nối MSC với một số mạng khác cần phải thích ứng các đặc
điểm truyền dẫn của GSM với các mạng này. Các thích ứng này gọi là chức
năng tương tác IWF. IWF bao gồm một thiết bị để thích ứng giao thức và
truyền dẫn. IWF có thể thực hiện trong cùng chức năng MSC hay có thể ở
thiết bị riêng, ở trường hợp hai giao tiếp giữa MSC và IWF được để mở.
• Khối HLR :
Giữ các thông tin liên quan tới việc cung cấp các dịch vụ viễn thông
không phụ thuộc vào vị trí hiện thời của thuê bao và chứa các thông tin về vị
trí hiện thời của thuê bao. Thường HLR là một máy tính đứng riêng không
có khả năng chuyển mạch nhưng có khả năng quản lý hàng trăm ngàn thuê
bao. Một chức năng con của HLR là nhận dạng trung tâm nhận thực thuê
bao AUC.
• Khối trung tâm nhận thực AUC ;
Được nối đến HLR chức năng của AUC là cung cấp cho HLR các tần
số nhận thực và các khoá mật mã để sử dụng cho bảo mật. Đương vô tuyến
cũng được AUC cung cấp mã bảo mật chống nghe trộm, mã này được thay
đổi riêng biệt cho từng thuê bao cơ sở dữ liệu của AUC còn ghi nhiều thông

tin cần thiết khác về thuê bao và phải được bảo vệ chống mọi thâm nhập trái
phép.
• Bộ ghi định vị tạm trú VLR;
Là một cơ sở dữ liệu chứa thông tin về tất cả các MS hiện đang ở
vùng phục vụ của MSC. Mỗi MSC có VLR. Ngay cả khi MS lưu động vào
một vùng MSC mới. VLR liên kết với MSC sẽ yêu cầu số liệu về MS từ
HLR. Đồng thời HLR sẽ được thông báo rằng MS đang ở vùng MSC nào.
Nếu sau đó MS muốn thực hiện một cuộc gọi, VLR sẽ có tất cả các thông tin
cần thiết để thiết lập một cuộc gọi mà không cần hỏi HLR có thể coi VLR
như một HLR phân bố. VLR chứa thông tin chính xác hơn về vị trí MS ở
vùng MSC.
• Tổng đài di động cổng GMSC :
Tất cả các cuộc gọi vào cho mạng GSM /PLMN sẽ được định tuyến
cho tổng đài vô tuyến cổng Gateway-MSC. Nếu người nào đó ở mạng cố
định PSTN muốn thực hiện một cuộc gọi đến một thuê bao di động của
mạng GSM. Tổng đài tại PSTN sẽ kết nối cuộc gọi này đến MSC có trang bị
một chức năng được gọi là chức năng cổng. Tổng đài MSC này gọi là MSC
cổng và nó có thể là một MSC bất kỳ ở mạng GSM. GMSC sẽ phải tìm ra vị
trí của MS cần tìm. Điều này được thực hiện bằng cách hỏi HLR nơi MS
đăng ký. HLR sẽ trả lời khi đó MSC này có thể định tuyến lại cuộc gọi đến
MSC cần thiết. Khi cuộc gọi đến MSC này, VLR sẽ biết chi tiết hơn về vị trí
của MS. Như vậy có thể nối thông một cuộc gọi ở GSM có sự khác biệt
giữa thiết bị vật lý và đăng ký thuê bao.
2.2. Trạm di động(MS) :
MS là một đầu cuối di động, có thể đặt trên ô tô hay xách tay. Tại
GSM có một khối nhỏ gọi là modun nhận dạng thuê bao SIM, là một khối
vật lý tách riêng chẳng hạn là một IC Card còn gọi là card thông minh SIM
cung với thiết bị trạm hợp thành trạm di động. Không có SIM, MS không
thể thâm nhập đến mạng trừ trường hợp gọi khẩn. Khi liên kết đăng ký thuê
bao với card SIM chứ không phải với MS.

Đăng ký thuê bao có thể có thể sử dụng trạm MS khác như của chính
mình. Điều này làm nẩy sinh vấn đề MS bị lấy cắp, vì không có biện pháp để
chặn đăng ký thuê bao nếu bị lấy cắp thì khi đó sẽ cần một cơ sở dữ liệu
chứa số liệu phần cứng của thiết bị: thanh ghi nhận dạng thiết bị EIR (nhưng
hiện nay ở Việt Nam thì người ta không dùng thiết bị này nữa bởi vì khi có
EIR thì nó yêu cầu máy có chỉ tiêu chất lượng tốt. Do kinh tế thị trường thì
không phải ai cũng có thể mua một máy có chất lượng đạt yêu cầu ). EIR
được nối Với MSC qua một đường báo hiệu. Nó cho phép MSC kiểm tra sự
hợp lệ của thiết bị. Bằng cách này có thể cho một MS không được thâm
nhập.
2.3. Hệ thống con BSS
Là một hệ thống đặc thù riêng cho tính chất tổ ong vô tuyến của GSM.
BSS giao diện trực tiếp với các trạm di động MS thông qua giao diện vô
tuyến, vì thế nó bao gồm các thiết bị thu phát đường vô tuyến và quản lý các
chức năng này. Mặt khác BSS thực hiện giao diện với các tổng đài SS. Tóm
laị, BSS thực hiện đấu nối các MS với tổng đài và nhờ vậy đấu nối những
người sử dụng các trạm di động với những người sử dụng viễn thông khác
BSS cũng phải được điều khiển, do đó nó được đấu nối với OSS.
BSS bao gồm hai loại thiết bị: BTS giao diện với MS và BSC giao
diện với MSC.

Khối BTS:
Một BTS gồm các thiết bị thu phát, anten và xử lý tín hiệu đặc thù cho
giao diện vô tuyến. Có thể coi BTS là các Modem vô tuyến phức tạp có
thêm một số các chức năng khác. Một bộ phận quan trọng của BTS là
TRAU là khối chuyển đổi mã và thích ứng tốc độ. TRAU là thiết bị mà ở đó
quá trình mã hoá và giải mã tiếng đặc thù riêng cho GSM được tiến hành, tại
đây cũng thực hiện thích ứng tốc độ trong trường hợp truyền số liệu. TRAU
là một bộ phận của BTS, nhưng cũng có thể đặt cách xa BTS và thậm chí
còn đặt trong BSC và MSC.

Khối TRAU:
Khối thích ứng và chuyển đổi mã thực hiện chuyển đổi giữa tiếng
64kbit/s luật A và tiếng RPE LTP 13 kbit/s cũng như thích ứng tốc độ giữa
các khung 3.6, 6, 12 kbit/s sử dụng ở giao diện vô tuyến. TRAU được điều
khiển bởi BTS. Nếu nó được đặt bên ngoài BTS thì việc điều khiển được
thực hiện bởi báo hiệu trong băng bằng cách sử dụng một số bit dự trữ ở
trong khung 320 bit của các kênh lưu lượng 16 kbit/s trong đó chỉ có 13
kbit/s được sử dụng cho việc truyền lưu lượng các bít dự trữ nói trên là các
bit điều khiển.
Khối BSC:
BSC có nhiệm vụ quản lý tất cả giao diện vô tuyến thông qua các lệnh
điều khiển từ xa BTS và MS. Các lệnh này chủ yếu là lệnh ấn định, giải
phóng kênh vô tuyến và chuyển giao. Một phía BSC được nôí với BTS còn
phía kia nối với MSC của SS. Trong thực tế BSC là một tổng đài nhỏ có khả
năng tính toán đáng kể. Vai trò chính của nó là quản lý các kênh ở giao diện
vô tuyến và chuyển giao. Giao diện giữa BSC và MSC là giao diện A, còn
giao diện giữa BTS và BSC là giao diện Abit.
2.4. Hệ thống khai thác và hỗ trợ (OSS)
Được nối tới tất cả các thiết bị ở hệ thống chuyển mạch và nối đến
BSC. OSS có các chức năng chính sau:
Quản lý mạng tế bào :
Tại PLMN lớn cần xử lý rất nhiều số liệu, các thủ tục chi tiết, các
công cụ quản lý phụ thuộc cơ quan chịu trách nhiệm về mạng.
Số liệu tổng đài và số liệu hệ thống điện thoại di động, cơ sở dữ liệu
này chứa tất cả các nội dung của cơ sở dữ liệu về dữ liệu đang được giữ tại
MSC/BSC. Có thể kiểm tra tại chỗ trước đưa nó vào hoạt động.
Số liệu cell: chứa tất cả các dữ liệu ở các cell PLMN.
Quản lý đăng ký thuê bao:
Bao gồm các hoạt động đăng ký thuê bao. Nhiệm vụ đầu tiên là nhập
và xoá thuê bao khỏi mạng, đăng ký thuê bao rất phức tạp gồm nhiều dịch

vụ và tính năng bổ xung. Nhà khai thác phải có thể thâm nhập tất cả các
thông số nói trên. Một nhiệm vụ quan trọng khác của khai thác là tính cước
các cuộc gọi.

Quản lý chất lượng :
Có một số chức năng đo đạc ở GSM, nội dung chức năng đo đạc sơ
cấp này được thực hiện ở phần tử mạng chịu trách nhiệm về đối tượng đo,
chẳng hạn các số liệu định hướng theo cuộc gọi được thực hiện ở MSC sau,
đó số lượng đo sơ cấp được gửi tới OSS và được lưu trữ ở đấy.
Các phép đo đó là:
• Đo lưu lượng các tuyến
• Đo lưu lượng các loại lưu lượng
• Đo về độ phân tán lưu lượng
Đối tượng chính để đo ở mạng vô tuyến là cell.
3. Cấu trúc địa lý của mạng
Mọi mạng điện thoại cần một cấu trúc nhất định để định tuyến các
cuộc gọi vào tổng đài cần thiết và cuối cùng đến thuê bao bị gọi, ở một mạng
di động cấu trúc này rất quạn trọng do tính lưu thông của các thuê bao trong
mạng.
Vùng mạng:
Tổng đài vô tuyến cổng GMSC kết nối các đường truyền giữa mạng
GSM/PLMN và mạng PSTN/ISDN khác hay các mạng PLMN khác sẽ ở
mức tổng đài trung kế quốc gia hay quốc tế. Tất cả các cuộc gọi vào cho
mạng GSM sẽ được định tuyến đến một hay nhiều tổng đài vô tuyến cổng
GMSC.
Vùng phục vụ MSC/VLR:
Vùng MSC là một bộ phận của mạng được một MSC quản lý. Để
định tuyến một cuộc gọi đến một thuê bao di động, đường truyền qua mạng
sẽ được nối đến MSC ở vùng phục vụ MSC nơi thuê bao đang ở.
Vùng phục vụ như là một bộ phận của mạng được định nghĩa như một

vùng mà ở đó có thể đạt đến trạm di động nhờ việc MS này được ghi lại ở
một bộ định vị khác (VLR).
Một vùng mạng GSM được chia thành một hay nhiều vùng phục vụ
MSC/VLR.
Vùng định vị (LA-location Area):
Mỗi vùng phục vụ MSC/VLR được chia thành một số vùng định vị.
Vùng định vị là một phần của vùng phục vụ MSC/VLR mà ở đó một trạm
di động có thể chuyển động tự do mà không cần cập nhật thông tin về vị trí
cho tổng đài MSC/VLR điều khiển vùng định vị này. Vùng định vị này là
một vùng mà ở đó thông báo tìm gọi sẽ được phát quảng bá để tìm một thuê
bao di động bị gọi. Vùng định vị có thể có một số cell và phụ thuộc vào một
hay vài BSC nhưng nó chỉ phụ thuộc vào một MSC/VLR.
Hệ thống có thể nhận dạng vùng định vị bằng cách sử dụng nhận dạng
vùng định vị LAI.
Vùng định vị được hệ thống sử dụng để tìm một thuê bao đang ở trạng
thái hoạt động.
Ô (cell):
Vùng định vị được chia thành một số ô, là một vùng bao phủ vô tuyến
được nhận dạng bằng nhận đạng ô toàn cầu (CGI).
Trạm di động tự nhận dạng một ô bằng cách sử dụng mã nhận dạng
trạm gốc (BSIC).
4. Mô hình tham chiếu OSI
GSM là một hệ thống rất phức tạp, cần phải được quy hoạch và tổ
chức cả ở việc qui định và việc thực hiện thực tế của nó. Một mô hình để
xây dựng các mạng thông tin số liệu thông thường đã được tổ chức các tiêu
chuẩn quốc tế (ISO) cung cấp ở dạng mô hình liên kết các hệ thống mở
(OSI). Các chi tiết kỹ thuật của GSM hay các khuyến nghị đã được định
nghĩa đầy đủ ở ba lớp dưới của mô hình OSI này.
(*) RR : Tài nguyên vô tuyến (Radio Resource)
Hình vẽ: Mô hình OSI và việc sử dụng ba lớp dưới ở hệ thống GSM

+ ở lớp thấp nhất (Lớp 1), qui định các đặc tính vật lý của truyền dẫn
hay môi trường đường truyền vô tuyến. Trong phạm vi của đường truyền vô
tuyến GSM, các qui định này bao gồm không chỉ các kiểu điều chế tần số
mà còn bao hàm cả cấu trúc các cụm và các khung hoàn toàn trong một
mạch truyền dẫn ghép kênh phân chia theo thời gian. Do việc lớp này chịu
trách nhiệm về việc hiệu chỉnh lỗi của các bít đơn trong truyền dẫn nên yếu
tố mã hoá bảo vệ chống lỗi cũng thuộc lớp này.
+ Lớp 2, lớp liên kết dữ liệu, bao gồm các thực thể linh hoạt chịu
trách nhiệm bảo vệ thông tin của các tin báo có nghĩa hoặc các khung giữa
các trạm vô tuyến. Phân đoạn truyền dẫn sẽ cấu trúc các bản tin của lớp cao
hơn phù hợp với các qui định vật lý của môi trường lớp 1 và đòi hỏi mọi tình
huống một sự thừa nhận từ đầu thu. Các bản tin tại đầu thu sẽ được cấu trúc
lại từ các khung thu được và các thừa nhận sẽ được định dạng để phát lại.
+ Lớp 3, lớp mạng, chịu trách nhiệm về quản lý tất cả các cuộc gọi và
được tới hoạt động của mạng vô tuyến. Các nhiệm vụ này được chia nhỏ
Số TT Tên lớp Mô hình tương đương ở GSM Nhiệm vụ
7 ứng dụng / Ngưòi sử dụng
6 Trình bày

5 Phiên / Mạng
4 Giao vận

3 Mạng Quản lý cuộc gọi
Quản lý di động
Quản lý RR (*)
2 Liên kết Tập trung
Phân đoạn Mạng GSM
Thừa nhận
1 Vật lý Phát hiện lỗi
Mã hoá kênh

Điều chế

×