Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

phân tích quy định pháp luật nhằm đảm bảo an toàn cho tổ chức tín dụng và thực tế áp dụng tại các tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.86 KB, 17 trang )

Phân tích quy định pháp luật nhằm đảm bảo an toàn cho tổ chức tín dụng
và thực tế áp dụng tại các tổ chức tín dụng
MỞ BÀI
Ở Việt Nam, các ngân hàng chiếm tỷ trọng cao trong hệ thống tài chính. Tuy là nghiệp vụ
kinh doanh chính đem lại 80% doanh thu, nhưng hoạt động tín dụng của các ngân hàng Việt
Nam là hoạt động tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro cao và mang tính dây chuyền. Chính vì thế
mà để đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng, pháp luật đã có những quy định cụ thể
nhằm giúp ngân hang hạn chế rủi ro. Để hiểu hơn về vấn đề này chúng tôi xin chọn tìm hiểu
đề tài: “Phân tích quy định pháp luật nhằm đảm bảo an toàn cho tổ chức tín dụng và thực tế
áp dụng tại các tổ chức tín dụng”. Từ đó, chúng tôi cũng đưa ra một số nhận xét nhằm đóng
góp ý kiến của mình vào vấn đề này.
NỘI DUNG
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Hoạt động ngân hàng là hoạt động tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro cao và mang tính dây
chuyền.
Hoạt động ngân hàng theo khoản 1 Điều 6 Luật NHNN 2010 và khoản 12 Điều 4 Luật các
TCTD năm 2010 quy định: “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường
xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau đây: nhân tiền gửi, cấp tín dung và cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản”. Như vậy xét về bản chất thì hoạt động ngân hàng chính là hoạt
động kinh doanh tiền tệ. Xuất phát từ chính bản chất đó hoạt động ngân hàng có đặc điểm
quan trọng đó là hoạt động ngân hàng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro cao và mang tính dây
chuyền. Để thực hiện hoạt động kinh doanh này, các tổ chức tín dụng (TCTD) luôn ở trong
tình trạng vừa là chủ nợ, vừa là người có nghĩa vụ trả nợ, do đó sẽ phải chịu áp lực từ khả
năng rút tiền hàng loạt của người gửi tiền. Hiện nay theo Quyết định của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/9/2004 về việc ban hành quy chế
về tiền gửi tiết kiệm quy định cụ thể tại Điều 16 theo đó thì người gửi tiền có quyền rút tiền
bất kỳ lúc nào kể cả trước hạn nếu như có thỏa thuận với tổ chức tiền gửi tiết kiệm khi gửi
tiền và có thông báo trước yêu cầu rút tiền thậm chí người gửi tiền có nhu cầu rút nhưng
không có thỏa thuận, không báo trước vẫn được rút tiền ra khỏi TCTD với một mức lãi suất
khác. Chính vì vậy nếu xảy ra tình trạng rút tiền hàng loạt của người gửi tiền tại một thời


điểm nhất định đương nhiên sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thanh toán của
TCTD và các TCTD khác trong thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Thực trạng của vấn đề này ta có thể thấy trong những năm gần đây ở Việt Nam đã xảy ra
những sự cố không nhỏ gây ảnh hưởng tới thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Chẳng hạn như
sự xuất hiện của tin đồn thất thiệt làm giảm uy tín của ngân hàng Á Châu (ACB) "Tổng giám
đốc Phạm Văn Thiệt của ACB đã bỏ trốn rồi bị bắt" đã gây ra xung động “domino” vào ngày
14/08/2003 đồng loạt ồ ạt người gửi tiền đến hội sở, chi nhánh, phòng giao dịch của ngân
hàng ACB để rút tiền. Cho đến sáng ngày 15/10/2003, vẫn còn rất nhiều khách hàng chờ
đợi tại hội sở ACB để rút tiền gửi dù chưa đến kỳ đáo hạn. Sau đó, sự xuất hiện của Thống
đốc ngân hàng nhà nước cùng các thông tin của UBND TP.HCM được chuyển tải tới khách
hàng một cách kịp thời đã góp phần trấn an dư luận đã tạm ổn định, lượng khách hàng rút
tiền đã giảm hẳn.
Hay vào cuối tháng 5 gần đây cũng xuất hiện tin đồn Tổng giám đốc NH TMCP Phương Nam
(SouthernBank) ông Phan Huy Khang bỏ trốn cũng khiến cho một bộ phận khách hàng của
ngân hàng tâm lý hoang mang ồ ạt rút tiền gây thiệt hại không nhỏ tới bản thân ngân hàng
và cả hệ thống liên ngân hàng nói chung.
1.2. Các lý do cơ bản khác lý giải cho việc cần thiết phải có những quy định bảo đảm an
toàn trong hoạt động ngân hàng:
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ
thống các tổ chức tín dụng có một vai trò quan trọng trong việc luân chuyển và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn của xã hội. Là một doanh nghiệp, mục tiêu quan trọng nhất của tổ chức
tín dụng đó là tìm kiếm lợi nhuận thông qua các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác. Trong ngắn hạn, mục tiêu đảm bảo an toàn và mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận
dường như mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên về mặt dài hạn thì mục tiêu này lại không quá khác
biệt khi tổ chức tín dụng muốn hoạt động hiệu quả và lâu dài.
Chính vì thế, để phòng ngừa tổ chức tín dụng theo đuổi các mục tiêu kinh doanh mà ảnh
hưởng đến khả năng thanh toán các khoản nợ thì pháp luật cần có những quy định an toàn
cho sự hoạt động của tổ chức tín dụng với những lý do cơ bản:
Thứ nhất, pháp luật cần phải có các quy định để bảo vệ quyền lợi của những người gửi tiền.
Có thể nói rằng những người gửi tiền chính là tiền đề quan trọng đầu tiên đối với hoạt động

ngân hàng. Chính vì thế, bảo vệ lợi ích của người gửi tiền là trách nhiệm của tổ chức tín
dụng để duy trì hoạt động ngân hàng lâu dài và hiệu quả. Nếu tổ chức tín dụng mà gặp khó
khăn trong thanh toán dẫn đến phá sản thì những người gửi tiền sẽ bị mất một phần hoặc
toàn bộ các khoản tiền đã gửi tại tổ chức tín dụng. Hơn nữa với phản ứng dây chuyền,
những tổ chức tín dụng khác cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm lý rút tiền ồ ạt của công chúng
gây ảnh hưởng không nhỏ tới thị trường tiền tệ liên ngân hàng và cả nền kinh tế của quốc
gia.
Hai là, pháp luật cần có những quy định nhằm ngăn chặn các hành vi “phi đạo đức” làm gia
tăng các rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Biểu hiện của những hành vi này là lợi dụng chức vụ quyền hạn để được cấp tín dụng ưu
đãi, thông đồng để được trục lợi lừa đảo. Những hành vi này cần được ngăn chặn bởi chúng
gây ảnh hưởng không nhỏ tới thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Chẳng hạn như trong năm
nay chúng ta thấy hiện tượng là hiện nay việc huy động tiền gửi với lãi suất bị NHNN khống
chế không quá 14%, trong khi một số ngân hàng trên thực tế phá lãi suất trần của NHNN
trả lãi cho người gửi tiền lên tới 17 - 18%. Và như vậy việc phá trần này không chỉ làm suy
giảm niềm tin vào chính sách, mà nó khiến hệ thống các TCTD méo mó, không minh bạch
đồng thời tạo ra cuộc chạy đua ngầm lãi suất huy động tiền gửi giữa các ngân hàng gây sự
ảnh hưởng lớn tới việc chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN và đảm bảo hoạt động an toàn
của các TCTD khác.
Ba là, pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng sẽ hạn chế được sự đổ vỡ
trong hệ thống các tổ chức tín dụng, nâng cao trách nhiệm của tổ chức tín dụng đối với xã
hội. Như đã phân tích và đưa ra thực trạng chứng minh ở trên thì việc các tổ chức tín dụng
gặp khủng hoảng sẽ gây ra những hậu quả nặng nề nghiêm trọng tới nền kinh tế quốc gia.
Chính vì vậy, việc đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng không còn giới hạn là những
nhu cầu tự thân của tổ chức tín dụng mà còn là trách nhiệm của nhà nước trong điều hành
chính sách kinh tế vĩ mô.
Bốn là, pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng sẽ góp phần hạn chế tình
trạng “bất cân xứng thông tin”.
Một trong những yếu tố làm gia tăng rủi ro chính là tình trạng “bất cân xứng thông tin” giữa
các ngân hàng. Bất cân xứng thông tin là hiện tượng mà các chủ thể trong một mối quan hệ

nhất định không có đầy đủ thông tin được coi là cơ sở để đưa ra quyết định. Ví dụ: một
TCTD không có đầy đủ thông tin về khách hàng, NHNN không có đầy đủ thông tin về TCTD…
Bất cân xứng thông tin sẽ làm hạn chế khả năng đánh giá, phán đoán về rủi ro và từ đó, các
chủ thể sẽ đưa ra những quyết định thiếu thận trọng và có thể gây thiệt hại. Do vậy TCTD
phải thường xuyên cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho NHNN để cơ quan này thực hiện
chức năng giám sát và có những hành động kịp thời nhằm đảm bảo an toàn cho tổ chức tín
dụng.
Năm là, pháp luật về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng tăng cường khả năng
cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng Việt Nam và và giữa các tổ chức tín dụng
Việt Nam và tổ chức tín dụng nước ngoài.
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay đang có quá trình hội nhập quốc tế sâu sắc nhất
là kể từ khi chúng ta gia nhập WTO. Một trong những lĩnh vực hội nhập quan trọng là lĩnh
vực ngân hàng. Bên cạnh việc các tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài cạnh tranh với
các tổ chức tín dụng trong nước khác thì việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng qua biên giới
cũng đòi hỏi sự cạnh tranh ngày càng lớn giữa các tổ chức tín dụng. Việc có những quy định
về các biện pháp bảo đảm an toàn sẽ buộc các tổ chức tín dụng không thể vì mục tiêu lợi
nhuận mà coi thường rủi ro để hạ thấp chi phí, hơn nữa, sẽ tạo cơ hội để các tổ chức tín
dụng có khả năng quản lý rủi ro tốt, tăng khả năng cạnh tranh lành mạnh và được khách
hàng ưa chuộng hơn.
II. CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT-
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT PHÁP LÝ.
2.1 Bảo hiểm tiền gửi (BHTG).
2.1.1. Nội dung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi
.
Tại Việt Nam sự đổ vỡ của hàng loạt các hợp tác xã tín dụng nông thôn và quỹ tín dụng đô
thị trên toàn quốc trong những năm 90 của thế kỷ XX đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc
tăng cường đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người gửi tiền. Cùng với việc triển khai thí điểm mô hình quỹ tín dụng nhân dân theo
Quyết định số 390/ QĐ- TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính Phủ, quy tắc bảo hiểm
trách nhiệm của quỹ tín nhân dân đối với khoản tiền gửi có kỳ hạn đã được ban hành kèm

theo Quyết định của Bộ tài chính số 101/QĐ- BTC ngày 1/2/1994. Đây được coi là văn bản
pháp lý đầu tiên đánh dấu sự ra đời của hoạt động BHTG công khai ở Việt Nam.
Hiện nay, các quy định về BHTG được ghi nhận chủ yếu tại Nghị định của Chính Phủ số
89/1999/NĐ- CP ngày 1/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi, Nghị định của chính phủ số
109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89, Thông tư
của NHNNVN số 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4/2006 hướng dẫn một số nội dung của Nghị
định 89 và Nghị định 109 cùng một số văn bản quy định về quản lý tài chính đối với
BHTGVN.
Pháp luật hiện hành quy định BHTG Việt Nam (DIV) là tổ chức tài chính Nhà nước có tư cách
pháp nhân, hạch toán độc lập, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí, hoạt động trên
phạm vi cả nước, có vốn điều lệ, có tài sản, có bảng cân đối, có con dấu riêng, được mở tài
khoản tại các ngân hàng trong nước và nước ngoài. Mục tiêu hoạt động của BHTG Việt Nam
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của
các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân
hàng. Chính vì những lý do trên mà BHTG không hoạt động theo Luật Kinh doanh bảo hiểm
mà có khung pháp lý riêng do Chính phủ quy định.
Theo quy định tại Điều 10 Luật các TCTD năm 2010 quy định về bảo vệ quyền lợi khách
hàng có ghi nhận tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tham gia tổ chức
bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật và công bố công khai việc tham gia
tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở và chi nhánh. Như vậy thì việc tham gia bảo
hiểm tiền gửi là nghĩa vụ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Theo đó BHTG là một loại hình phi thương mại, tổ chức tín dụng (TCTD) và các tổ chức khác
kinh doanh hoạt động ngân hàng có nhận tiền gửi bằng tiền đồng Việt Nam của khách hàng
là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh thì bắt buộc
phải tham gia đóng phí BHTG cho tổ chức BHTG Việt Nam theo quy định. Khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm thì tổ chức BHTG Việt Nam sẽ có trách nhiệm thay tổ chức nhận tiền gửi đó trả các
khoản tiền gửi được bảo hiểm của các khách hàng gửi tiền ở tổ chức tham gia bảo hiểm đó.
Một số trường hợp không bắt buộc phải có BHTG:
- Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên

10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
- Tiền gửi của người gửi tiền là thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc
(giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó.
- Tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền.
- Tiền mua các giấy tờ có giá trừ một số loại giấy tờ có giá theo quy định của NHNN.
Bên cạnh đó, các TCTD tham gia BHTG phải nộp phí bảo hiểm (là khoản tiền mà các TCTD
có nghĩa vụ phải nộp cho tổ chức BHTG để được bảo hiểm cho tiền gửi của khách hàng,
được hạch toán vào chi phí hoạt động của TCTD). TCTD tham gia BHTG phải nộp phí BHTG
theo mức 0.15%/năm trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm. Phí
bảo hiểm được tính và nộp 4 lần trong năm tài chính theo hướng dẫn của NHNN.
Ngoài ra thì việc chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền đối với các TCTD tham gia BHTG bị cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xác định là không có khả năng thanh toán được các khoản nợ
đến hạn trong vòng 60 ngày (kể từ ngày CQNN có thẩm quyền có văn bản yêu cầu TCTD
chấm dứt hoạt động giao dịch để thanh lý tài sản hoặc kể từ ngày tòa án thông báo quyết
định mở thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật về phá sản) thì tổ chức BHTG
có trách nhiệm tiến hành chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại TCTD tham gia BHTG
đó theo nguyên tắc “số tiền bảo hiểm được trả tối đa không quá 50 triệu đồng Việt Nam cho
tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền (một cá nhân hoặc
người đại diện theo pháp luật) tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi”. Đồng thời, BHTG
Việt Nam làm thủ tục ra quyết định chấm dứt bảo hiểm tiền gửi.
2.1.2. Thực tế áp dụng bảo hiểm tiền gửi ở nước ta.
Kể từ khi ra đời và đi vào hoạt động đến nay, thời gian tuy chưa nhiều đối với một tổ chức,
nhưng BHTG Việt Nam đã có nhiều cố gắng để đạt được những kết quả khả quan ban đầu.
Tính đến cuối tháng 6/2011, BHTGVN đã thực hiện cấp mới, cấp đổi, cấp bổ sung 448
Chứng nhận BHTG và nội dung BHTG; thực hiện giám sát định kỳ đối với 100% tổ chức
tham gia BHTG gồm 88 ngân hàng thương mại, 12 tổ chức tín dụng phi ngân hàng, 1072
QTDND cơ sở và QTDND trung ương; hoàn thành kiểm tra 12 NHTM, 80 QTDND và 1 công ty
cho thuê tài chính; thực hiện thu phí BHTG của 1168 đơn vị với tổng số phí thực nộp hơn
739,5 tỷ đồng, tăng 33,8% so với cùng kỳ năm 2010 và bổ sung toàn bộ vào quỹ nghiệp vụ
BHTG. Đồng thời tích cực phối hợp với NHNN và các cấp có thẩm quyền tại địa phương thu

hồi nợ để trả cho các chủ nợ và BHTGVN số tiên là 230, 4 triệu đồng, nâng tổng số luỹ kế
lên 7,8 tỷ đồng, bằng 42% tổng số tiền BHTGVN đã chi trả.
Cho đến bây giờ chúng ta chưa quên những vụ đổ vỡ hàng loạt Quỹ TDNDCS vào những
năm 1990. Rồi vào thời điểm những năm 1997, 1998 hàng loạt ngân hàng thương mại cổ
phần (TMCP) liên tiếp gặp khó khăn về khả năng chi trả, Ngân hàng TMCP Á Châu là một ví
dụ. Ngân hàng này đã lâm vào tình trạng hoảng loạn khi khách hàng ồ ạt rút tiền trong một
thời gian ngắn do tin đồn thất thiệt. Hay tháng 7/2005 Ngân hàng TMCP Nông thôn Ninh
Bình, Ngân hàng TMCP Phương Nam cũng rơi vào trường hợp tương tự
Gần đây nhất là trường hợp của QTD Liên Nghĩa. QTD Liên Nghĩa là một trong 10 QTD có
quy mô lớn nhất nước, xếp hạng thứ 3 trên tổng 125 QTD thuộc địa bàn BHTGVN Chi nhánh
TP.HCM quản lý với tổng nguồn vốn huy động gần 300 tỷ đồng, lãi kinh doanh hàng năm
đều dương, lãi năm sau cao hơn năm trước, dao động trên dưới 4 tỷ đồng/năm. Ngày
21/2/2011 sau khi QTD Liên Nghĩa có sự thay đổi nhân sự thì đến ngày 22/2/2011 tại QTD
bắt đầu có hiện tượng khách hàng đến rút tiền gửi tiết kiệm trước hạn. Tính từ đây đến
ngày 14/3/2011 đã có 517 lượt khách hàng đến rút tiền gửi trước hạn với tổng số tiền trên
64 tỷ đồng. Trong ngày cao điểm (14/3), đã có đến 174 khách hàng đến rút tiền trước hạn.
Khi được hỏi nguyên nhân, nhiều khách hàng cho biết họ nghe thông tin quỹ sắp đổ bể nên
phải nhanh chóng đi rút tiền. Chiều ngày 14/3/2011, ngay sau khi nhận được thông tin về
QTDND Liên Nghĩa, Ban Giám đốc BHTGVN Chi nhánh khu vực TP.HCM cùng với lãnh đạo
Phòng Nghiệp vụ 2 Chi nhánh đã mở cuộc hợp khẩn và thống nhất phương án giải quyết là
“dùng thông tin bác bỏ thông tin thất thiệt”. Sau khi Đoàn cán bộ BHTGVN xuống làm công
tác “dân vận” với khách hàng gửi tiền thì ngày 14/3 từ 174 món rút tiền trước hạn, sang
15/3 chỉ có 103 món – với số tiền trên 6 tỷ; ngày 16/3 có 72 món – với số tiền gần 3 tỷ;
ngày 17/3 có 42 món – với số tiền trên 4 tỷ; ngày 18/3 có 24 món – với số tiền khoảng 3
tỷ. Tại những ngày cuối tháng 3/2011, số món rút trước hạn dao động trên dưới 20 món,
với số tiền khoảng 0,7 tỷ đồng. Không những thế, bắt đầu từ 18/3 tại Quỹ còn xuất hiện
khách hàng đến gửi tiền, tổng số tiền huy động hàng ngày có khi trên 1 tỷ đồng. Số liệu
thống kê trên cho thấy hoạt động QTD Liên Nghĩa đang dần ổn định trở lại, người dân cũng
hiểu thêm về BHTGVN – cơ quan đại diện Chính phủ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền. Qua sự cố QTD Liên Nghĩa, BHTGVN tiếp tục khẳng định vai trò ngày càng

quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và góp phần an toàn hoạt động hệ
thống ngân hàng.
2.1.3 Các đề xuất pháp lý hoàn thiện bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
- Mở rộng đối tượng chủ thể được bảo hiểm và loại tiền gửi được bảo hiểm:
Khi xây dựng Luật BHTG trong thời gian tới cần chú ý mở rộng hơn nữa đối tượng được
BHTG là các loại hình doanh nghiệp như công ty TNHH, công ty cổ phần bên cạnh các đôi
tượng như quy định của luật hiện hành là chỉ bao gồm cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác,
doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh.
Bên cạnh quan tâm đến đối tượng được bảo hiểm, thì cũng cần phải quan tâm tới loại tiền
gửi có thể được bảo hiểm là ngoại tệ. Để đảm bảo hơn quyền lợi của người gửi tiền và tăng
tỷ lệ huy động vốn băng ngoại tệ của các ngân hàng cần thiết phải mở rộng đối tượng tiền
gửi. Việc đưa ngoại tệ vào đối tượng được bảo hiểm sẽ tạo cảm giác yên tâm cho những
người gửi tiền và kích thích họ tham gia nhiều hơn các giao dịch tại ngân hàng thúc đẩy kinh
tế phát triển.
- Tăng hạn mức chi trả BHTG:
Đây là vấn đề cũng cần phải quan tâm khi xây dựng Luật BHTG. Từ năm 2008 trở về trước,
với mức bảo hiểm tiền gửi là 50 triệu đồng đã đạt được mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho hơn
90% số người gửi tiền. Tuy nhiên, năm 2008 đã chứng kiến trung tâm chấn động của hệ
thống tài chính, đó là Mỹ với việc đổ vỡ của hệ thống ngân hàng: ngân hàng đầu tư, sau đó
lan sang các ngân hàng thương mại và ngân hàng thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, vì sao sự đổ vỡ lớn như vậy và ảnh hưởng sâu rộng như vậy mà không thấy tình
trạng rút tiền hàng loạt? Học tập kinh nghiệm của Mỹ, và các quốc gia khác, có thể thấy
rằng, do có một cơ chế chính sách tài chính tốt và tổ chức bảo hiểm tiền gửi của Mỹ hành
động rất kịp thời khi nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi từ 100.000 USD lên 250.000 USD.
Do vậy, ở Việt Nam, để kích thích nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, nhóm xin được đề
xuất phương án là trong giai đoạn Việt Nam chịu tác động xấu của thị trường tài chính quốc
tế có thể nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên 200 triệu đồng.
- Áp dụng phí BHTG không đồng hạng:
Việc áp dụng một mức phí đồng hạng là 0,15% tính trên số dư tiền gửi bình quân của các
loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG đã không còn phù hợp với yêu cầu

khách quan của thực tế. Do vậy, nhà nước cần có sự phân biệt giữa các mức phí bảo hiểm,
trước mắt cần xem xét áp dụng thì điểm mức phí phân bổ theo loại hình tổ chức tham gia
BHTG. Ví dụ như ngân hàng thương mại nhà nước sẽ áp dụng mức phí bảo hiểm thấp hơn
quỹ tín dụng nhân dân - là những tổ chức tài chính có độ rủi ro cao.
- Nhanh chóng xây dựng Luật BHTG:
Việc hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động tài chính ngân hàng, hệ thống các cơ quan
giám sát cũng như hoạt động bảo hiểm tiền gửi (BHTG) đang là một trong những yêu cầu
cấp thiết trong quá trình phát triển và hội nhập. Cần xây dựng Luật BHTG phù hợp với thông
lệ quốc tế và yêu cầu phát triển của thị trường tài chính trong điều kiện hội nhập kinh tế thế
giới của nước ta. Việc xây dựng Luật BHTG là một yêu cầu khách quan nhằm phát triển thị
trường tài chính lành mạnh trên cơ sở bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, tạo môi trường pháp
lý cho thị trường tài chính nói chung, thị trường tiền tệ nói riêng phát triển bền vững và an
toàn.
2.2. Hạn chế cấp tín dụng.
2.2.1. Nội dung pháp lý về hạn chế cấp tín dụng.
Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với
nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Hạn chế cấp tín dụng là một trong những biện pháp
nhằm đảm bảo an toàn cho tổ chức tín dụng.
Vấn đề hạn chế cấp tín dụng được quy định tại điều 126, 127, của Luật các tổ chức tín dụng
năm 2010 và quy định tại mục 2, chương 2, Điều 7 của thông tư số 13/2010/TT-NHNN quy
định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Như vậy:
Thứ nhất, tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng cho các đối tượng là: Thành viên Hội
đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc
(Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương đương của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần
vốn góp là thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát của tổ chức tín dụng là
công ty cổ phần, pháp nhân là thành viên góp vốn, chủ sở hữu của tổ chức tín dụng là công
ty trách nhiệm hữu hạn, Cha, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, thành
viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng

giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương đương. Tổ chức tín dụng không được cấp
tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà tổ chức tín
dụng nắm quyền kiểm soát, Tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng trên cơ sở nhận bảo
đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng.
Thứ hai, tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với điều
kiện ưu đãi cho các đối tượng như: tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại tổ
chức tín dụng; kế toán trưởng, thanh tra viên; các cổ đông lớn, cổ đông sáng lập của tổ
chức tín dụng, doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 126
của Luật này sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó; người thẩm định xét duyệt
cấp tín dụng,…
Thứ ba, về giới hạn cấp tín dụng: Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng
không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với
một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng
thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi
mô. Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự
có của tổ chức tín dụng phi ngân hàng; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách
hàng và người có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng phi
ngân hàng. Mức dư nợ cấp tín dụng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không bao
gồm các khoản cho vay từ nguồn vốn ủy thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân hoặc
trường hợp khách hàng vay là tổ chức tín dụng khác.
2.2.2. Thực tế áp dụng hạn chế cấp tín dụng:
Việc có các quy định về hạn chế cấp tín dụng đã phần nào đảm bảo an toàn trong hoạt động
của tổ chức tín dụng. Quy định hạn chế cấp tín dụng đối với một số đối tượng đã thể hiện
tính công minh trong hoạt động tín dụng, tạo niềm tin đối với khách hàng, không thiên vị
những người làm việc liên quan đến tổ chức tín dụng, hơn nữa cũng đề phòng trường hợp
những người này lạm dụng chức vụ, quyền hạn làm những việc phương hại tới lợi ích của tổ
chức tín dụng. việc quy định hạn mức tín dụng cũng là để đảm bảo an toàn cho các tổ chức
này, tránh một số rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng. Tuy nhiên cái gì cũng có
mặt trái của nó, việc quy định hạn chế cấp tín dụng đã đem lại một số bất cấp như: có thể

những đối tượng nằm trong danh sách bị hạn chế cấp tín dụng thực sự cần vay vốn kinh
doanh thì họ lại không thể được cấp tín dụng ở tổ chức tín dụng nơi mình làm việc và như
thế vô hình chung tổ chức tín dụng đã mất đi một số lượng khách hàng nhất định, đối với
giới hạn cấp tín dụng thì nếu một khách hàng cần vay một khoản tiền lớn nhưng nó lại vượt
quá mức cho phép khách hàng đó sẽ phải xoay sở như thế nào? Câu hỏi đặt ra là họ sẽ phải
làm việc thêm với một tổ chức tín dụng khác chăng để mà có đủ số vốn mình cần.
Một ví dụ rất điển hình cho vấn đề này chính là: - Tín dụng ngân hàng là nguồn bổ sung vốn
quan trọng đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp trong các khu công nghiệp; tuy nhiên, Các khu công nghiệp tập trung mới
được hình thành và các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp chủ yếu là các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp trong nước có kết quả kinh
doanh và tình hình tài chính yếu kém, vốn chủ sở hữu nhỏ nên không đáp ứng đủ điều
kiện để các ngân hàng xem xét cho vay theo quy chế cho vay hiện tại;
Vậy trong tương lai yêu cầu phải có những chính sách điều chỉnh phù hợp để vừa tạo điều
kiện cho các đối tương trên vay vốn lại vừa không ảnh hưởng tới lợi ích của các tổ chức tín
dụng, điều chỉnh giới hạn cấp tín dụng sao cho hợp lý tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng tự
do kinh doanh tuy nhiên các tổ chức này cũng phải tự gánh chịu rủi ro và trước khi cấp tín
dụng các tổ chức này cũng cần xem xét thật kĩ đối tượng mà mình cấp tín dụng, thẩm định
phương án kinh doanh của họ xem có khả thi hay không.
2.3 Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.
2.3.1. Nội dung pháp lý về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.
Các hoạt động cấp tín dụng, dù là cho vay, chiết khấu, bảo lãnh ngân hàng hay cho thuê tài
chính thì cũng không thể tránh khỏi những thiệt hại, tổn thất thực tế, dù đã có biện pháp
bảo đảm an toàn (do còn phụ thuộc rất lớn vào tình trạng, khả năng tài chính của các ngân
hàng). Do đó, pháp luật đã đặt ra quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng
để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo Quyết định số
18/2007/QĐ – NHNN ngày 25/4/2007 của NHNN sửa đổi, bổ sung Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử
lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng và theo Quyết định số
493. Việc quy định nhằm bù đắp những tổn thất có thể xảy ra trong hoạt động ngân hàng,

bảo đảm tính ổn định, do vậy tại Khoản 1 Điều 1 Quyết định 493 có nêu ra rõ ràng “Tổ chức
tín dụng hoạt động tại Việt Nam, trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội, phải thực hiện việc phân
loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
theo Quy định này”.
Tại khoản 2 Điều 2 quy định về “Dự phòng rủi ro” là “khoản tiền được trích lập để dự phòng
cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa
vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt
động của tổ chức tín dụng”. Như vậy, Nhà nước đã cho phép các ngân hàng thương mại
được trích lập quỹ tạo sự yên tâm đối với những rủi ro xảy ra trong quá trình kinh doanh,
nhất là các ngân hàng tạm thời chưa có lãi.
Theo Điều 6, Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN và khoản 3 Điều 1 Quyết định số 18, TCTD
thực hiện phân thành 5 loại nợ: Nợ đủ tiêu chuẩn, nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi
ngờ và nợ có khả năng mất vốn.
Nhóm 1 được gọi là nhóm nợ đủ tiêu chuẩn, là những khoản nợ được đánh giá tốt và khả
năng hoàn trả của khách hàng là rất cao. Nợ nhóm 1 bao gồm các khoản nợ trong hạn và tổ
chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2 được gọi là nợ cần chú ý, là những khoản nợ mà khách hàng không có khả năng
hoàn trả đúng hạn, nhưng thời gian quá hạn chưa lâu hoặc đã được điều chỉnh kỳ hạn trả
nợ. TCTD cần phải chú ý theo dõi các khoản nợ này nhằm đôn đốc khả năng hoàn trả của
khách hàng. Những khoản nợ nhóm 2 bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày tới 90
ngày và các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.
Nhóm 3 được gọi là nợ dưới tiêu chuẩn, tức là những khoản nợ không được đánh giá bình
thường. Đây là những khoản nợ quá hạn tương đối dài hoặc đã được cơ cấu lại thời hạn trả
nợ do khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn. Đối với những khoản nợ này, TCTD
cần theo dõi chặt chẽ, yêu cầu khách hàng phải có giải pháp để hoàn trả nợ đúng hạn.
Những khoản nợ trong nhóm 3 gồm các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu.
Nhóm 4 được gọi là nợ nghi ngờ tức là TCTD bắt đầu phải đặt ra khả năng có thể bị mất vốn
do khách hàng không có khả năng trả nợ. Đối với những khoản nợ này, ngoài các giải pháp
yêu cầu khách hàng phải hoàn trả nợ, TCTD cần xem xét đến các biện pháp thu hồi nợ như

đề nghị xử lý tài sản đảm bảo, khởi kiện ra tòa án…Các khoản nợ nhóm 4 bao gồm các
khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; các khoản nợ có cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần
đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu và các khoản nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
Nhóm 5 hay còn gọi là nợ có khả năng mất vốn, tức là những khoản nợ mà khả năng khách
hàng không trả nợ là rất cao. Đây là những khoản nợ rất xấu và do đó TCTD cần tìm các giải
pháp thu hồi nợ nhằm loại bỏ những khoản nợ này ra khỏi bảng cân đối kế toán bằng sự bù
đắp quỹ dự phòng rủi ro. Những khoản nợ trong nhóm 5 bao gồm các khoản nợ quá hạn
trên 360 ngày; các khoản nợ có cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;…
Bên cạnh việc phân loại nợ theo các quy định trên đây, pháp luật hiện hành còn cho phép
các TCTD điều chỉnh việc phân loại nợ trong một số trường hợp.
Đống thời pháp luật hiện hành cũng đề cập đến số tiền dự phòng cho hoạt động cấp tín
dụng (gồm 4 nghiệp vụ) sẽ được xác định trên cơ sở tỷ lệ trích dự phòng và tài sản “có”
từng nhóm. Nhóm 1 (nợ chưa đến hạn) tỷ lệ trích là 0%; nhóm 2,3,4,5 tăng dần theo mức
độ quá hạn mà có tỷ lệ trích là: 5%, 20%, 50% và 100%. Khoản dự phòng này sẽ được
xem xét bù đắp cho những rủi ro khi khách hàng là tổ chức bị phá sản, giải thể hoặc không
thực hiện được nghĩa vụ do nguyên nhân bất khả kháng, hoặc do Nhà nước thay đổi cơ chế
chính sách. Nó cũng sẽ bù đắp cho những rủi ro khi khách hàng là cá nhân vay vốn, bảo
lãnh vay vốn, thuê tài chính bị mất tích, chết, bị tòa án kết án tù trên một năm hoặc không
thực hiện được nghĩa vụ do nguyên nhân bất khả kháng. Tuy nhiên, số dự phòng này chỉ sử
dụng khi tổ chức tín dụng đã tận thu mọi khoản thu, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa
vụ của mình, phát mại tài sản cầm cố, thế chấp (nếu có) và các biện pháp khác theo quy
định của pháp luật để thu hồi nợ.
2.3.2.Thực tế áp dụng việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro của các Ngân hàng.
Quy định phân loại nợ theo Quyết định số 18/2007/QĐ – NHNN của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) sửa đổi, bổ sung về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín
dụng đã ban hành được 4 năm nhưng tới thời điểm này cũng không có nhiều ngân hàng tiến
hành phân loại nợ mới. Có nhiều bất cập đang diễn ra.
Hiện chỉ có 3 ngân hàng áp dụng phân loại nợ mới theo Điều 7 của Quyết định 493 là BIDV,

Agribank và Vietcombank. Nguyên nhân chính để ít ngân hàng thực hiện theo Điều 7 của
Quyết định này là lo sẽ tăng tỉ lệ nợ xấu. Đơn cử như với Viecombank việc điều chỉnh này
(áp dụng từ tháng 4/2010) khiến tỉ lệ nợ xấu của ngân hàng có thể sẽ tăng từ 2,47% trong
năm 2009 lên 3,5% vào năm 2010. Đi cùng với đó là yêu cầu tăng trích lập dự phòng. Đây
cũng là một nguyên nhân chính khiến chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế năm 2010 của ngân
hàng này giảm so với số thực hiện trong năm 2009 (4.500 tỷ đồng so với 5.004 tỷ đồng).
Trong quý 1/2009, Vietcombank đã thực hiện trích 350 tỷ đồng dự phòng rủi ro tín dụng.
BIDV vào thời điểm 2006 khi mới bắt đầu tiến hành phân loại nợ theo điều 7 có tỉ lệ nợ xấu
tới 9,6% và sau đó giảm xuống còn 3,9% vào cuối năm 2007. Trong khi đó nếu thực hiện
phân loại nợ theo Điều 6 cũng của Quyết định 493 vốn đang được hầu hết các NHTM triển
khai, tỉ lệ nợ xấu năm 2007 của BIDV sẽ chỉ còn 1,56%. Sự chênh lệch này chưa hẳn là lớn
nhất bởi theo đánh giá của một số chuyên gia ngân hàng, việc phân loại nợ theo phương
pháp định tính (Điều 7) có nguy cơ làm tăng tỉ lệ nợ xấu của một ngân hàng gấp 2-3 lần so
với cách phân loại định lượng (Điều 6).
Bên cạnh đó, còn có một nguyên nhân khác khiến các ngân hàng thích áp dụng điều 6 hơn
là điều 7 của Quyết định 493 bởi nếu làm theo điều 7 họ sẽ phải “chi” nhiều hơn cho các
khoản trích lập dự phòng rủi ro, đặc biệt với các nhóm nợ 3, 4 và 5, dẫn đến chỉ tiêu lợi
nhuận sụt giảm. Theo quy định của NHNN, với các nhóm nợ này, NHTM sẽ phải trích lập một
khoản dự phòng cụ thể tương ứng lần lượt là 20%, 50% và 100%.Tuy nhiên, theo các
chuyên gia thì dù có phải giảm lợi nhuận cũng cần áp dụng cách phân loại nợ mới này bởi nó
đi kèm với việc xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Đây là một công
cụ quản trị tín dụng tiên tiến, đã thông dụng ở các ngân hàng trên thế giới.
2.3.3 Các đề xuất pháp lý hoàn thiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.
- Về hình thức pháp lý.
Để đảm bảo tính hiệu lực pháp lý cao của các quy định có liên quan đến giám sát và xử lý
rủi ro tín dụng, pháp luật về vấn đề này cần được tập trung trong văn bản do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cao hơn ban hành như: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Nghị
định của Chính phủ để tránh tình trạng không tương thích trong điều chỉnh cùng nội dung ở
các văn bản pháp luật khác nhau, có hiệu lực pháp lý khác nhau. Ví dụ, trường hợp quy định
về lãi suất cơ bản và mối quan hệ giữa lãi suất cơ bản với lãi suất cho vay trong Luật Ngân

hàng Nhà nước và Bộ luật Dân sự với Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của
Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay đồng Việt Nam đối với khách hàng
vay theo lãi suất thỏa thuận. Nếu xét ở góc độ tuân thủ nguyên tắc pháp chế, rõ ràng có sự
không đồng bộ trong quy định của các văn bản pháp luật về cùng một nội dung là lãi .
- Tiêu chí tài chính để xác lập mức dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro.
Các ngân hàng thương mại phi nhà nước ở Việt Nam hiện nay đều có mức vốn điều lệ rất
thấp. Chỉ có một số ít ngân hàng thương mại cổ phần có phần vốn góp của Nhà nước hoặc
là các ngân hàng thương mại nhà nước được cổ phần hóa mới có mức vốn điều lệ cao. Trong
khi đó, để thực hiện kiểm soát, tăng cường các tiêu chí an toàn, theo thông lệ, các nước
trên thế giới đều áp dụng tiêu chí vốn tự có/vốn chủ sở hữu để xác định các tỉ lệ bảo đảm an
toàn. Việc xác định tỉ lệ an toàn dựa trên tiêu chí này sẽ giúp định hướng cho ngân hàng
thương mại phát triển ổn định, thực chất; gia tăng tích lũy; tăng cường huy động nguồn vốn
dài hạn.
- Tiêu chí nhận diện khách hàng để thiết lập dự phòng và xử lý rủi ro.
Hiện nay, mặc dù đã có nhiều văn bản quy định về phân loại và xử lý rủi ro cấp tín dụng
nhưng chưa có quy định cụ thể nào về việc nhận diện khách hàng cùng với các tiêu chí để
nhận diện khách hàng. Các văn bản điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng hiện nay như Quyết
định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định
về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, trong đó có xác
định điều kiện chủ thể vay vốn; Quyết định 1906/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín
dụng mới chỉ dừng lại ở điều kiện về tình trạng pháp lý, điều kiện kinh doanh mà chưa đi
sâu vào các tiêu chí gắn với rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng. Vì vậy, cần sớm ban hành
quy định cụ thể về nhận diện khách hàng để phòng ngừa rủi ro, mà trước hết là quy định
các tiêu chí nhận diện khách hàng. Căn cứ xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng khách
hàng là quan trọng, nhằm định hướng cho các tổ chức tín dụng trong việc xếp hạng và quản
trị rủi ro.
- Phương pháp phân loại nợ.
Theo quy định hiện hành, các khoản nợ được chia thành năm nhóm khác nhau như đã trình
bày. Nếu xét ở góc độ an toàn tín dụng đơn thuần thì đây là biện pháp phòng ngừa và sẵn

sàng xử lý rủi ro tốt. Tuy nhiên, nếu xét ở góc độ các tổ chức tín dụng, thì cần cân nhắc quy
định cho phù hợp. Nếu sử dụng phương pháp xếp hạng khách hàng cứng nhắc sẽ dẫn đến
tình trạng nợ nhóm 3 đến nhóm 5 của các tổ chức tín dụng sẽ có thể ở mức rất cao, làm
tăng tỷ lệ nợ quá hạn của toàn hệ thống. Vì vậy, Nhà nước cần nên xem xét, điều chỉnh việc
phân loại nợ vào các nhóm theo các tiêu chí phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế và các
khách hàng vay của Việt Nam.
2.4 Hệ thống kiểm soát nội bộ.
2.4.1. Nội dung pháp lý về kiểm soát nội bộ.
Nhằm đảm bảo phòng ngừa và phát hiện các rủi ro, TCTD cần thường xuyên giám sát, đánh
giá về hoạt động của mình thông qua hệ thống kiểm soát nội bộ. Hiệp ước Basel II cũng
khuyến nghị rằng: “các ngân hàng cần có một quá trình đánh giá tính đủ vốn tổng thể trong
quan hệ với bình diện rủi ro và chiến lược duy trì các mức vốn”, trong đó vai trò của giám
sát quản lý cấp cao và ban giám đốc là quan trọng nhất.
Pháp luật ngân hàng Việt nam đã có những quy định về việc yêu cầu các TCTD xây dựng và
hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ. Tại Điều 40 Luật các TCTD năm 2010 có quy định:
“Hệ thống kiểm soát nội bộ là tập hợp các cơ chế, chính sách quy trình, quy định nội bộ, cơ
cấu tổ chức của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được xây dựng phù hợp với hướng
dẫn của NHNN và được tổ chức thực hiện nhằm bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp
thời rủi ro và đạt được yêu cầu đề ra.” Như vậy theo hệ thống kiểm soát nội bộ không phải
là một bộ phận trong cơ cấu của TCTD mà là tổng thể các chính sách và quy trình để tạo ra
sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ phận của TCTD để phát hiện, ngăn chặn vầ xử lý các rủi ro
trong quá trình hoạt động ngân hàng. Theo Quyết định 36/2006/QĐ – NHNN ngày 1/8/2006
của Thống đốc NHNN về việc ban hành Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD yêu
cầu hệ thống kiểm soát nội bộ phải đáp ứng được những yêu cầu và nguyên tắc pháp luật
nhất định:
Thứ nhất, mọi rủi ro có nguy cơ gây ảnh hưởng xấu tới hiệu quả và mục tiêu hoạt động của
TCTD đều phải được nhận dạng, đo lường, đánh giá một cách thường xuyên liên tục để kịp
thời phát hiện, ngăn ngừa và có biện pháp quản lý rủi ro thích hợp.
Thứ hai, hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ là một phần không thể tách rời của các hoạt
động hàng ngày của TCTD. Cơ chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ được thiết kế, cài đặt, tổ chức

thực hiện ngay trong mọi quy trình nghiệp vụ, tại tất cả các đơn vị, bộ phận của TCTD dưới
nhiều hình thức: Cơ chế phân cấp ủy quyền rõ ràng, minh bạch; đảm bảo tách bạch nhiệm
vụ, quyền hạn của các cá nhân, các bộ phận trong TCTD; Cơ chế kiểm tra chéo giữa các cá
nhân, các bộ phận cùng tham gia một quy trình nghiệp vụ; Quy định về hạn mức rủi ro cụ
thể đốiv ới từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện các giao dịch; Quy trình và cơ chế
thẩm định, kiểm tra, chấp thuận và duyệt cho phép thực hiện các giao dịch; đảm bảo một
quy trình nghiệp vụ phải có ít nhất hai cán bộ tham gia, không có cá nhân nào có thể một
mình tiến hành thực hiện và quyết định một quy trình nghiệp vụ, một giao dịch cụ thể,
ngoại trừ những giao dịch trong hạn mức được TCTD cho phép phù hợp với quy định của
pháp luật. Cơ chế phân cấp ủy quyền phải được thiết lập, thực hiện một cách hợp lý, cụ thể,
rõ ràng, tránh các xung đột về lợi ích; đảm bảo một cán bộ không đảm nhiệm cùng một lúc
những cương vị, nhiệm vụ có mục đích quyền lợi mâu thuẫn hoặc chồng chéo với nhau; đảm
bảo cho mọi cán bộ trong TCTD không có điều kiện để thao túng hoạt động, bưng bít thông
tin phục vụ các mục đích cá nhân hoặc che dấu các hành vi vi phạm pháp luật và nội bộ.
Hoạt động kiểm soát nội bộ phải đảm bảo chấp hành chế độ hạch toán, kế toán theo quy
định và phải có hệ thống thông tin nội bộ về tài chính về hoạt động, về tình hình tuân thủ
trong TCTD và tình hình kinh tế, thị trường bên ngoài hợp lý, tin cậy, kịp thời nhằm phục vụ
công tác quản tị, điều hành có hiệu quả.
Hệ thống thông tin, tin học của TCTD phải được giám sát, bảo vệ một cách hợp lý, an toàn
và phải có cơ chế quản lý dự phòng độc lập (back up) nhằm xử lý kịp thời những tình huống
bất ngờ như thiên tai, cháy nổ để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thường xuyên, liên
tục của TCTD.
Hơn nữa thì mọi cán bộ, nhân viên của TCTD đều phải quán triệt được tầm quan trọng của
hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ và vai trò của từng cá nhân trong quá trình kiểm tra,
kiểm soát nội bộ có liên quan tới chức năng nhiệm vụ của bản thân họ và phải tham gia
thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả các quy định, quy trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ
liên quan. Ngoài ra thì người điều hành các bộ phận, đơn vị nghiệp vụ, các cá nhân có liên
quan phải thường xuyên xem xét, đánh giá về tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm
tra, kiểm soát nội bộ giải quyết kịp thời những khiếm khuyết.
Pháp luật hiện hành cũng xác định trách nhiệm của các bộ phận lãnh đạo của TCTD trong

hoạt động kiểm soát nội bộ như hội đồng quản trị, tổng giám đốc (giám đốc), ban kiểm soát
và trưởng kiểm toán nội bộ. Pháp luật cũng cho phép TCTD xem xét thành lập bộ phận kiểm
soát nội bộ chuyên trách để giúp tổng giám đốc thực hiện việc kiểm soát hoạt động của
TCTD. Bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách có trách nhiệm kiểm tra, giám sát
việc tuân thủ quy định của pháp luật và các quy chế, quy trình nghiệp vụ, quy định nội bộ
của TCTD; giúp tổng giám đốc thực hiện việc tự kiểm tra để tổng hợp, rà soát, đánh giá tính
hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ nhằm phát hiện, ngăn ngừa và
kịp thời kiến nghị xử lý những tồn tại, sai phạm trong mọi hoạt động nghiệp vụ, hoàn thiện
hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ TCTD.
2.4.2. Thực trạng áp dụng hệ thống kiểm soát nội bộ ở các Ngân hàng.
Tính đầy đủ và hiệu lực của qui trình kiểm soát nội bộ…của đối tượng chọn kiểm toán đều
được đánh giá khá tốt như: Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc đã chú trọng và quan tâm đến
công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động nghiệp vụ trong toàn hệ thống, tạo môi trường
kiểm soát chặt chẽ, phù hợp với qui định hiện hành của Nhà nước như: xây dựng các hệ
thống qui chế điều hành hoạt động khá đầy đủ; Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ độc lập
với bộ phận nghiệp vụ…qua kết quả hoạt động của bộ phận kiểm soát nội bộ đã phát hiện
và chấn chỉnh kịp thời các sai sót trong công tác quản lý, điều hành các bộ phận nghiệp vụ;
Tham mưu đề xuất với Ban lãnh đạo sửa đổi bổ sung các qui chế phù hợp với đặc điểm hoạt
động và qui định của Nhà nước…
Tuy nhiên, mặc dù bộ phận Kiểm toán nội bộ đã được các Ngân hàng thương mại thành lập,
song bản chất hoạt động của bộ phận này (từ mô hình tổ chức đến nội dung hoạt động) lại
không đồng nhất, bởi chính sự nhận thức của mỗi ngân hàng và do “tính mở” trong quy định
của NHNN tại Quyết định 36/2006/QĐ-NHNN, cụ thể tại điều 8-Bộ phận kiểm tra, kiểm soát
nội bộ, khoản 1 có nêu “tuy theo quy mô, mức độ, phạm vi và đặc thù hoạt động của mình,
TCTD tự xem xét, quyết định thành lập bộ phận kiểm tra, kiểm soat nội bộ bộ phận chuyên
trách, chịu sự điều hành trực tiếp của Tổng Giám đốc (Giám đốc)…” và tại khoản 2 “Bộ phận
kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy
định của các quy luật về các quy chế, qui trình nghiệp vụ, qui định nội bộ của TCTD; giúp
Tổng Giám đốc thực hiện việc tự kiểm tra để tổng hợp, rà soát đánh giá có hiệu lực và hiệu
quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ…”. Theo qui định trên, TCTD có thể thành lập

hoặc không thành lập bộ phận chuyên trách kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
2.3.3 Các đề xuất pháp lý hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ.
Trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát, của tổ chức tín dụng cần tổ chức đánh giá thực trạng
hoạt động của bộ phận này trong các tổ chức tín dụng qua việc thực hiện Quyết định
36/2006/QĐ-NHNN về “Ban hành qui chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD” để sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện bộ máy kiểm soát nội bộ tại các tổ chức tín dụng nhằm xác định rõ vị
trí, vai trò công tác kiểm soát nội bộ tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng đạt hiệu quả cao.
Tổ chức hưỡng dẫn, kiểm tra chuẩn mực, qui trình kiểm soát nội bộ, cập nhật kiến thức cho
bộ phận nghiệp vụ kiểm soát nộ bộ của các tổ chức tín dụng để tạo điều kiện cho cán bộ
làm công tác kiểm soát nội bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
2.5 Biện pháp kiểm soát đặc biệt.
2.5.1. Nội dung pháp lý về kiểm soát đặc biệt.
Theo Điều 146 Luật các TCTD năm 2010, theo đó “ Kiểm soát đặc biệt là việc một TCTD bị
đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước do có nguy cơ bị mất khả năng chi
trả, mất khả năng thanh toán ” Như vậy, kiểm soát đặc biệt chính là việc Ngân hàng Nhà
nước thực hiện các biện pháp quản lý nghiệp vụ đặc biệt để kiểm soát, giám sát trực tiếp
tình hình tổ chức và hoạt động của các TCTD có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả
năng thanh toán. Trình tự tiến hành kiểm soát đặc biệt được quy định tại Luật các TCTD
năm 2010 và hướng dẫn thi hành tại Thông tư 08/2010/TT - NHNN. Cụ thể, trong quá trình
quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động hoặc qua báo cáo của các TCTD, xét thấy
TCTD có nguy cơ lâm vào tình trạng kiểm soát đặc biệt hoặc vi phạm nghiêm trọng các quy
định của pháp luật về hoạt động ngân hàng hoặc các trường hợp khác dẫn đến tình trạng
TCTD hoạt động không an toàn, mất ổn định, Thống đốc có thể áp dụng các biện pháp giám
sát đặc biệt đối với TCTD.
Giám sát đặc biệt là biện pháp được tiến hành trước khi áp dụng biện pháp kiểm soát đặc
biệt, khi chấm dứt hoạt động giám sát đặc biệt nếu như nhận thấy cần phải tiến hành kiểm
soát đặc biệt để “giải cứu” TCTD đang gặp nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng
thanh toán thì Thống đốc sẽ xem xét, quyết định đặt TCTD vào kiểm soát đặc biệt, nội dung
của quyết định kiểm soát đặc biệt được quy định tại Điều 147 Luật các TCTD năm 2010. Sau
khi quyết định kiểm soát đặc biệt được thông qua, ngân hàng Nhà nước sẽ thành lập Ban

kiểm soát đặc biệt, cơ cấu tổ chức, điều kiện để trở thành thành viên của Ban kiểm soát đặc
biệt và nội dung quyền hạn, trách nhiệm của ban kiểm soát được quy định cụ thể tại các
Điều 11, 12, 13, 14 Thông tư số 08. Theo đó, Ban kiểm soát sẽ có nhiệm vụ xây dựng
phương án tổ chức và củng cố hoạt động, chỉ đạo và giám sát việc triển khai các giải pháp,
chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Thống đốc ngân hàng về các quyết định của mình,
báo cáo Ngân hàng nhà nước về tình hình hoạt động, kết quả thực hiện phương án củng cố
tổ chức và hoạt động. Bên cạnh những nhiệm vụ cần thực hiện, Ban kiểm soát còn có
quyền: đề nghị TCTD bị kiểm soát đặc biệt kiểm kê toàn bộ tài sản, đình chỉ những hoạt
động không phù hợp với phương án củng cố hoạt động và tổ chức đã được thông qua, đình
chỉ, tạm đình chỉ quyền quản trị, điều hành, kiểm soát TCTD của thành viên hội đồng quản
trị, Hội đồng thành viên, Giám đốc, Phó giám đốc nếu xét thấy cần thiết,…
Như đã phân tích ở trên, kiểm soát đặc biệt là một biện pháp quản lí nghiệp vụ đặc biệt của
ngân hàng Nhà nước được dùng để áp dụng với các tổ chức tín dụng. Hoạt động ngân hàng
là một hoạt động mang đầy rủi ro và rủi ro này lại mang tính dây chuyền, có nghĩa là khi
một TCTD bị phá sản sẽ kéo theo việc lợi ích của rất nhiều đối tượng có liên quan bị tổn hại
thậm chí là phá sản theo, gây thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế. Do vậy với vai trò là cơ quan
quản lí nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng Nhà nước cần phải có biện phảp thích
hợp để ngăn chặn những nguy cơ này và kiểm soát đặc biệt chính là công cụ hữu hiệu nhất.
Với lí do áp dụng như vậy ta có thể thấy mục đích của kiểm soát đặc biệt trước hết là giúp
đỡ các TCTD đang gặp khó khăn về thanh toán, chi trả vượt qua được khó khăn về tài chính
đó và phục hồi hoạt động kinh doanh, bảo vệ an toàn cho TCTD cũng như là cho cả hệ
thống TCTD, bên cạnh đó việc áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt cũng góp phần đảm
bảo lợi ích hợp pháp củ người gửi tiền.
Theo quy định tại Điều 146 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và Điều 6 Thông tư só 08,
cụ thể: một TCTD bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt khi lâm vào một trong các trường
hợp sau: Có nguy cơ mất khả năng chi trả, được biểu hiện: 03 (ba) lần liên tiếp không đảm
bảo tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” có thể thanh toán ngay trong khoảng thời
gian 7 ngày tiếp theo và tổng tài sản “Nợ” phải thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7
ngày tiếp theo đối với từng loại đồng tiền, vàng; Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ
mất khả năng thanh toán, được biểu hiện: Nợ xấu chiếm từ 10% trở lên so với tổng dư nợ

cho vay hoặc từ 100% tổng vốn tự có trở lên trong vòng 03 tháng liên tiếp; Số lỗ lũy kế của
tổ chức tín dụng lớn hơn 50% tổng số vốn điều lệ thực có và các quỹ
2.5.2. Thực tế áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt.
Kiểm soát đặc biệt là một biện pháp đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng được pháp
luật quy định lần đầu tiên trong Luật các tổ chức tín dụng năm 1997. Trong quá trình thực
hiện chức năng quản lý và kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước, không ít ngân hàng đã được
vực dậy từ tình trạng kiểm soát đặc biệt và đang phát triển như: EximBank, VPBank Hàng
Hải, song cũng có một số ngân hàng sau đó hoặc là được sáp nhập, mua lại rồi đổi tên, hoặc
giải thể như: Ngân hàng Châu á Thái Bình Dương, Ngân hàng Vũng Tàu Gia Định (bị giải
thể); Ngân hàng Nam Đô, Ngân hàng Cổ phần Hải Phòng sáp nhập vào ngân hàng khác…
Chưa có ngân hàng nào từ trước đến nay trong lịch sử ngân hàng Việt Nam bị tuyên bố phá
sản. Kể từ khi được pháp luật quy định, kiểm soát đặc biệt đã cho thấy những ưu điểm
không thể phủ nhận. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước không thể lúc nào cũng phải đóng vai
trò “bà đỡ” khi các ngân hàng hoạt động yếu kém. Giải pháp kiểm soát đặc biệt chỉ hiệu quả
đối với từng trường hợp cụ thể. Đã đến lúc phải để các ngân hàng vỡ nợ phá sản theo quy
luật của kinh tế thị trường.
2.6 Các quy định khác liên quan.
Về việc đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Là chủ thể cầm giữ tiền của nhiều cá nhân, tổ chức trong xã hội nên tổ chức tín dụng luôn
có thể gặp những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hang. Để đảm bảo an toàn thì
pháp luật các nước cũng như pháp luật Việt Nam đều định ra các tỷ lệ đảm bảo an toàn nhất
định mà việc duy trì nó sẽ đảm bảo được phần nào khả năng thanh toán , trả nợ của các tổ
chức tín dụng.
Thứ nhất, tỷ lệ về khả năng chi trả được thể hiện bằng tỷ lệ giữa tài sản “Có” có thể thanh
toán ngay với tàn sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định. Tài
sản “Có” có thể thanh toán ngay bao gồm tiền mặt, vàng, tiền gửi tại NHNN chênh lệch giữa
tiền gửi không kỳ hạn của TCTD tại các TCTD khác với tiền gửi không kỳ hạn của TCTD khác
gửi tại TCTD, tiền gửi có kỳ hạn đến hạn thanh toán tại TCTD khác và một số loại chứng
khoán theo giá trị sổ sách được điều chỉnh theo hướng dẫn của NHNN. Tài sản “Nợ” phải
thanh toán bao gồm số chênh lệch lớn hơn giữa tiền gửi nhận của TCTD khác và tiền gửi tại

TCTD đó đến hạn thanh toán; 15% tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân và tổ chức (trừ tiền
gửi của TCTD khác); Giá trị các cam kết cho vay của TCTD đến hạn thực hiện và tất cả các
tài sản “Nợ” khác sẽ đến hạn thanh toán. Trước đây theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN
quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD quy định các TCTD phải
đảm bảo duy trì tỷ lệ tối thiểu 15% và này theo Điều 130 Luật các TCTD năm 2010 thì tỷ lệ
này là 25% giữa giá trị các tài sản “Có” có thể thanh toán ngày và các tài sản “Nợ” sẽ đến
hạn thanh toán trong thời gian 1 tháng tiếp theo và tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản
“Có” thể thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo và tổng tài sản “Nợ” phải
thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo.
Theo báo cáo thường niên năm 2008 của ngân hàng ACB thì các chỉ tiêu về khả năng thanh
toán của ACB luôn được duy trì ở mức an toàn cao qua các tháng trong năm 2008. Cụ thể
theo bảng khả năng thanh toán:
Chỉ tiêu 2008 2007 2006 2005 2004
Tỷ lệ khả năng chi trả (lần) 20,07 5,59 3,67 4,76 4,41
Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng để cho vay trung dài hạn 0% 0% 0% 0% 0%
Thứ hai, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định bằng tỷ lệ giữa vốn tự “Có” so với tài sản
“Có”. Vốn tự có của tổ chức tín dụng ngoài vốn điều lệ còn gồm quỹ dự trữ đặc biệt, các tài
sản cố định. Việc khống chế mức tối đa về huy động vốn so với vốn tự có là rất quan trọng,
tránh huy động vốn một cách ồ ạt và tùy tiện, không theo đúng thực lực của ngân hàng.
Theo quy định tại Điều 4 Thông tư 13/2010/TT-NHNN thì các tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ
lệ tối thiểu là 9%. Còn theo quy định của Luật các TCTD năm 2010 thì tỷ lệ này không được
thấp hơn 8%. Tỉ lệ này nhằm bảo vệ những người gửi tiền trước rủi ro của ngân hàng và
tăng tính ổn định cũng như hiệu quả của hệ thống tài chính toàn cầu. Bằng tỉ lệ này người
ta có thể xác định được khả năng của ngân hàng thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối
mặt với các loại rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành.
Thứ ba, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn.
Về lý thuyết thì nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà TCTD huy động với thời hạn dưới 1
năm. Do vậy, việc quy định tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung
hạn, dài hạn là hết sức cần thiết. tỷ lệ này càng nhỏ thì càng an toàn cho tổ chức tín dụng
nhưng đồng thời nó cũng phải tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng gia tăng tín dụng

trung, dài hạn cho nền kinh tế. Theo Luật các TCTD năm 2010 thì NHTM không được sử
dụng quá 40% nguồn vốn ngắn hạn trên đây để cho vay trung và dài hạn. Đối với các TCTD
không phải là ngân hàng do khả năng huy động vốn ngắn hạn có phần hạn chế hơn, nên tỷ
lệ này chỉ là 30%.
Thứ tư, về giới hạn cho vay, bảo lãnh. khi có tiền gửi tổ chức tín dụng luôn mong muốn cho
vay nhiều để thu lợi nhuận, trong khi đó hoạt động cho vay luôn chứa nhiều rủi ro, việc
không thu hồi được nợ hay thu hồi chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh
ngân hàng. Vì thế cần những quy định về giới hạn cho vay cũng rất quan trọng. theo đó tại
Điều 8 Thông tư 13/2010/TT-NHNN thì “Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với
một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, Tổng dư nợ cho
vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá
25% vốn tự có của tổ chức tín dụng”.
Nửa cuối năm 2007, thị trường chứng khoán chao đảo khi Chỉ thị 03 của Ngân hàng Nhà
nước ban hành, quy định các ngân hàng chỉ được cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán
tối đa 3% tổng dư nợ. Ngày 1/2/2008, Quyết định số 03 ra đời, giới hạn đó được xác định là
20% vốn điều lệ. Mới nhất, tại Điểm 9, Điều 8 Thông tư số 13/2010/TT-NHNN năm 2010
quy định “tổng dư nợ cho vay và chiết khấu giấy tờ có giá đối với tất cả khách hàng nhằm
đầu tư, kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng”.
Các tỷ lệ khác, hoạt động kinh doanh ngân hàng bao gồm nhiều hoạt động như : góp vốn
liên doanh, mua cổ phần, kinh doanh bất động sản… pháp luật đã quy định tại Điều 132
Luật các TCTD năm 2010 thì tổ chức tín dụng không được kinh doanh bất động sản. Khái
niệm kinh doanh bất động sản thường được hiểu là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn kinh
doanh để mua,bán,cho thuê bất động sản được lí giải bởi một số lí do chủ yếu sau đây:Một
là,thị trường bất động sản Việt Nam có nhiều rủi ro đặc biệt là giá cả và khả năng thanh
khoản;Hai là,bất động sản thường là tài sản thế chấp để vay vốn,nếu cho phép tổ chức tín
dụng kinh doanh bất động sản có thể gây ra các rủi ro đạo đức khi tổ chức tín dụng chỉ
muốn xử lí tài sản bảo đảm mà không thiện chí trong việc quyết định điều chỉnh kì hạn trả
nợ hoặc gia hạn nợ.
KẾT LUẬN
Trên đây chúng tôi đã phân tích những quy định của pháp luật nhằm đảm bảo an toàn cho

các tổ chức tín dụng và cũng đã tìm hiểu thực tế áp dụng. Như chúng ta đã biết, một vấn đề
bao giờ cũng có mặt tích cực và mặt hạn chế, vậy nên cần phải tìm hiểu và vận dụng tốt các
quy định của pháp luật để đề ra một chính sách phù hợp nhằm xử lí tốt các vấn đề, góp
phần nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo một hệ thống ngân hàng mạnh, phục vụ cho
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội,
2010.
2. Luật ngân hàng nhà nước năm 2010.
3. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
4. Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày
13/9/2004 về việc ban hành quy chế về tiền gửi tiết kiệm.
5. Nghị định của Chính Phủ số 89/1999/NĐ- CP ngày 1/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi.
6. Thông tư của NHNNVN số 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4/2006 hướng dẫn một số nội dung
của Nghị định 89 và Nghị định 109 cùng một số văn bản quy định về quản lý tài chính đối
với BHTGVN.
7. thông tư số 13/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng.
8. Trần Vũ Hải, “Những vấn đề pháp lí về hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng”, Tạp chí luật
học, số 12/2007.
9. Lê Thị Thu Thuỷ, “Mô hình bảo hiểm tiền gửi trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp
chí luật học, số 12/2007.
10. Phạm Thị Giang Thu, Nguyễn Ngọc Lương, “Một số ý kiến về hệ thống pháp luật phòng
ngừa rủi ro tín dụng của các tổ chức tín dụng và phương hướng khắc phục”, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp, số 7/2010.
11. Nguyễn Văn Tuyến, Tìm hiểu luật ngân hàng (lí thuyết và thực hành), Nxb. CAND, Hà
Nội, 2000.
12. Các wedside:
+) Ngân hàng nhà nước Việt Nam - The State Bank of VietNam
+) Document Moved

+) tvietnam.

×