Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

THU HÚT ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH TRÀ VINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.5 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
BÙI VĂN GÀN
THU HÚT ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
TỈNH TRÀ VINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Trà Vinh – Năm 2013
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 0
1. Tính cấp thiết của đề tài 0
2. Mục tiêu nghiên cứu 0
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 0
4. Phương pháp nghiên cứu 0
5. Cấu trúc của luận văn 0
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu 0
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ 0
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ VÀ THU HÚT ĐẦU TƯ 0
1.1.1. Một số khái niệm 0
1.1.2. Các loại nguồn vốn đầu tư 1
2
1.1.3. Các hình thức đầu tư tại Việt Nam 1
1.1.4. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp ảnh hưởng đến thu hút
đầu
1.1.5. Ý nghĩa của việc thu hút đầu tư để phát triển nông nghiệp 2
1.2. NỘI DUNG THU HÚT ĐẦU TƯ 2
1.2.1. Những chỉ tiêu phản ánh kết quả thu hút đầu tư 2
1.2.2. Chính sách thu hút đầu tư 2
1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ 3
1.3.1. Nhân tố về điều kiện tự nhiên 3


1.3.2. Nhân tố về điều kiện xã hội 3
1.3.3. Nhân tố về điều kiện kinh tế 3
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
NÔNG
NGHIỆP TỈNH TRÀ VINH THỜI GIAN QUA
3
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, XÃ HỘI, KINH TẾ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 3
2.1.2. Điều kiện xã hội 3
2.1.3. Điều kiện kinh tế 4
2.2. THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP 4
2.2.1. Những kết quả thu hút đầu tư 4
2.2.2. Những chính sách thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp 5
2.3. TÁC ĐỘNG CỦA THU HÚT ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH TRÀ VINH
2.3.1. Tác động trực tiếp đến phát triển nông nghiệp 6
2.3.2. Tác động đến tăng trưởng kinh tế 6
4
2.3.3. Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 6
2.3.4. Tác động đến giải quyết việc làm 6
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
NÔNG
2.4.1. Thành công và hạn chế 6
2.4.2. Nguyên nhân của các hạn chế 7
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THU HÚT ĐẦU
TƯ 7
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH TRÀ VINH THỜI GIAN
TỚI 3

3.1. CƠ SỞ CỦA VIỆC XÂY DỰNG GIẢI PHÁP 7
3.1.1. Cơ hội và thách thức ảnh hưởng đến thu hút đầu tư 7
3.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ và định hướng 7
3.1.3. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư cần thu hút 7
5
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ
PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH TRÀ VINH TRONG THỜI GIAN
TỚI
3.2.1. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư 8
3.2.2. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính 8
3.2.3. Huy động vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước 8
3.2.4. Hoàn thiện chính sách đất đai, giải phóng mặt bằng 8
3.2.5. Gia tăng số lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 8
3.2.6. Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng 8
3.2.7. Một số chính sách khác 9
KẾT LUẬN 9
2
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn đầu tư là một yếu tố rất quan trọng đóng góp vào sự phát triển và
tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện của nước ta, vốn đầu tư ngày càng cực
kỳ quan trọng và thường xuyên trong tình trạng thiếu hụt. Vì vậy việc thu hút
vốn đầu tư bao giờ cũng được chính quyền các cấp quan tâm và tìm nhiều
biện pháp để thu hút.
Nhờ thu hút vốn đầu tư, việc khai thác các tiềm năng và sử dụng lao
động, học tập kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ tại địa phương… được
thực hiện.
7

Trà Vinh là một tỉnh có điều kiện địa lý thuận lợi, giàu tiềm năng về
nông nghiệp, thế mạnh về nuôi trồng và khai thác thủy, hải sản. Trong những
năm qua nông nghiệp luôn là ngành có kim ngạch xuất khẩu cao, giá trị đóng
góp lớn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư vào nông
nghiệp còn hạn chế, chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực này là từ ngân sách nhà
nước, đầu tư từ khu vực tư nhân vào nông nghiệp rất ít so với các lĩnh vực
khác. Thời gian qua địa phương cũng có những chính sách khuyến khích đầu
tư vào lĩnh vực này, tuy nhiên tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa
bàn tỉnh vẫn chưa cải thiện. Vì thế chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh về
nông nghiệp của tỉnh để góp phần phát triển kinh tế tỉnh nhà.
Với tình hình trên nhưng chưa có một nghiên cứu chính thức nào trên
địa bàn tỉnh đi sâu nghiên cứu vấn đề này nhằm để tìm hiểu nguyên nhân, từ
đó đưa ra các giải pháp để thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn
tỉnh nhằm khai thác tốt hơn những lợi thế về nông nghiệp của tỉnh trong thời
gian tới. Xuất phát từ những lý do trên bản thân quyết định chọn vấn đề "Thu
hút đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Trà Vinh" làm nội dung nghiên
cứu luận văn tốt nghiệp. Hy vọng luận văn sẽ góp phần nhỏ vào công tác thu
hút đầu tư phát triển nông nghiệp của tỉnh nhà.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về thu hút đầu tư để phát triển nông
nghiệp.
- Phân tích thực trạng công tác thu hút đầu tư để phát triển nông nghiệp
thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư phát
triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Trà Vinh trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8
- Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Trà Vinh.
- Phạm vi nghiên cứu:

+ Nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các biện pháp nhằm thu hút
đầu tư phát triển nông nghiệp.
+ Về mặt không gian: Các nội dung trên được tiến hành tại địa bàn tỉnh
Trà Vinh.
+ Về mặt thời gian: Các giải pháp đề xuất trong luận văn có ý nghĩa
trong thời gian 2013 - 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài sử dụng các phương pháp
sau:
- Phương phát phân tích thực chứng.
- Phương pháp nghiên cứu chuẩn tắc.
- Phương pháp khảo sát.
- Phương chuyên gia.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp so sánh và các phương pháp khác.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3
chương sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp.
- Chương 2: Thực trạng thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Trà
Vinh thời gian qua.
- Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển nông
nghiệp tỉnh Trà Vinh trong thời gian tới.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
9
Để đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển kinh tế một số tác giả đã tập
trung nghiên cứu và đưa ra một số đề xuất chủ yếu sau đây:
Phạm Thị Khanh (2003), “Huy động vốn phát triển nông nghiệp vùng
Đồng bằng Sông hồng hiện nay”, với phương pháp hệ thống, phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê tác giả đưa ra một số giải pháp thu hút đầu tư vào nông

nghiệp như:
- Thực hiện tốt các giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo động lực và sức thu
hút vốn.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Đổi mới quản lý nhà nước trong ngành nông nghiệp, đảm bảo huy
động ngày càng hiệu quả các nguồn vốn.
Mặc dù đề tài cũng tập trung vào nghiên cứu, đề xuất thu hút đầu tư
phát triển nông nghiệp nhưng những giải pháp, đề xuất phù hợp với điều kiện
vùng Đồng bằng Sông Hồng, một số giải pháp chưa phù hợp với điều kiện
của tỉnh Trà Vinh.
Nguyễn Văn Toàn (2009), “Thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế Nhơn
hội tỉnh Bình Định”, với phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, kết hợp
lôgic-lịch sử, khảo sát thực tế, tổng kết thực tiễn tác giả đưa ra một số giải
pháp thu hút đầu tư như:
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư.
- Thực hiện tốt công tác bồi thường thiệt hại, GPMB, tái định cư,
chuyển đổi nghề và ổn định đời sống cho nhân dân khi thực hiện các dự án.
- Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch, chủ động xác định dự án
kêu hội đầu tư.
10
Với nghiên cứu này tác giả đã nêu nhiều biện pháp trong thu hút vốn
đầu tư, nhưng chủ yếu là thu hút vốn vào khu kinh tế, việc thu hút vốn cho
phát triển nông nghiệp chưa được đề cập nghiên cứu.
Trang Minh Trực (2010), “Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển kinh
tế xã hội tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2011-2020”, với phương pháp thống kê,
phân tích, so sánh, mô tả, dự báo nguồn vốn đầu tư cho giai đoạn 2011-2010
bằng hàm hồi quy tuyến tính theo thời gian đưa ra một số giải pháp về môi
trường đầu tư:
- Thực hiện chính sách tập trung phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế như

giao thông, thủy lợi, tập trung xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng của ngành;
tập trung thực hiện tốt các chính sách cải cách thủ tục hành chính, thực hiện
triệt để mô hình một cửa; cung cấp thông tin về đầu tư, thông tin tài liệu chính
sách pháp luật của tỉnh một cách đầy đủ, rộng rãi đến các nhà đầu tư, các
doanh nghiệp; tăng cường tính minh bạch, năng động và tiên phong của các
cấp lãnh đạo tỉnh; hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích ưu đãi thu hút
đầu tư.
Đồng thời tác giải cũng đưa nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân
lực: Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và bố trí sử dụng cán
bộ, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý. Phát triển bồi dưỡng tài năng
trẻ trong hàng ngũ cán bộ công chức quản lý Nhà nước và kỷ thuật; điều
chỉnh cơ cấu đào tạo, cân đối giữa đào tạo và sử dụng ở các trình độ và các
ngành nghề khác nhau, đảm bảo nhân lực cho các ngành mũi nhọn. Chú trọng
nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân, đảm bảo đáp ứng được đội ngũ
công nhân lành nghề cho các dự án phát triển sản xuất lớn của tỉnh; không
nên xem việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho khu vực đầu tư nước
ngoài là vấn đề riêng của các nhà đầu tư, mà cần có sự quan tâm hỗ trợ thích
đáng để đảm bảo được đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ cao và công nhân
11
lành nghề đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư, tăng sức hấp dẫn của
môi trường đầu tư.
Nghiên cứu trên được tác giả nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Trà Vinh,
cũng đề cập đến thu hút vốn. Tuy nhiên, tác giả chú trọng việc thu hút đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nói chung, đi sâu từng lĩnh vực, từng ngành
nhất là trong nông nghiệp chưa sâu, chưa cụ thể.
Lê Thị Thúy Nga (2011), “Hoàn thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, với phương pháp trừu tượng hóa
khoa học, phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử
tác giả đưa ra các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư như:
- Đẩy mạnh cải cách hành chính:

+ Rút ngắn các khâu phê duyệt công nhận hành chính theo nguyên tắc
đầy đủ và chặt chẽ để bảo đảm về quyền lợi pháp lý cho cả nhà đầu tư và
nước nhận đầu tư.
+ Tập trung các khâu phê duyệt và xác nhận hành chính vào một đầu
mối theo “chế độ một dấu, một cửa”, để các nhà đầu tư giảm thiểu chi phí đi
lại và thời gian thực hiện.
+ Tổ chức bộ máy tư vấn tận tình cở mở thông thạo nghiệp vụ giúp đỡ
các nhà đầu tư hoàn thành đầy đủ các thủ tục hành chính.
- Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng:
+ Phát triển và đa dạng các loại hình vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải.
+ Tăng mức đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông từ ngân sách nhà
nước hàng năm, thu hút vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế dưới nhiều hình
thức để xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông.
Với đề tài này tác giả cũng đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
môi trường nhằm thu hút đầu tư, tuy vậy chưa đi sâu vào từng lĩnh vực cụ thể
và còn ở tầm cả nước, còn một số mặt không phù hợp với tỉnh Trà Vinh.
12
Tóm lại, trong các công trình nghiên cứu trên, ở khía cạnh này hay khía
cạnh khác, các tác giả đã đề cập đến những vấn đề cần thiết để thu hút vốn
đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, do góc độ tiếp cận và quan điểm khác
nhau nên các tác giả đều có hướng đi riêng của mình nhằm đạt được mục đích
nghiên cứu. Có công trình nghiên cứu hướng về thu hút vốn đầu tư trong tổng
thể nền kinh tế quốc gia, có công trình nghiên cứu về một khía cạnh trong thu
hút vốn đầu tư tại một địa phương hay một khu vực Tuy nhiên, cho đến
nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu việc thu hút đầu tư phát
triển nông nghiệp một cách cơ bản, có hệ thống, phù hợp với điều kiện cụ thể
của tỉnh Trà Vinh.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ VÀ THU HÚT ĐẦU TƯ

1.1.1. Một số khái niệm
a. Đầu tư
Thuật ngữ đầu tư được hiểu và trình bày trong sách báo kinh tế ở nước
ta dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo từ điển bách khoa Việt Nam (1995),
đầu tư là hành động “bỏ vốn vào một doanh nghiệp, một công trình hay một
sự nghiệp bằng nhiều biện pháp như cấp phát ngân sách, vốn tự có, liên doanh
hay vay dài hạn để mua sắm thiết bị mới, hoặc thực hiện việc hiện đại hoá,
13
mở rộng xí nghiệp nhằm thu doanh lợi hay phát triển phúc lợi công cộng”.
Cách định nghĩa này nhấn mạnh vào đầu tư phát triển, vào hình thái biểu hiện
và động lực của đầu tư, nhưng không làm rõ bản chất của đầu tư cũng như
chưa phản ánh được đầy đủ nội dung của đầu tư.
Theo Giáo trình Kinh tế đầu tư của Trường Đại học Kinh tế quốc dân
do PGS.TS.Nguyễn Ngọc Mai chủ biên thì “đầu tư là sự bỏ ra, sự huy sinh
những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm
đạt được kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai”. Định nghĩa này nêu
được đặc tính khái quát của đầu tư là hành vi bỏ vốn trong hiện tại nhằm đạt
lợi ích trong tương lai. Tuy nhiên, với cách tiếp cận quá rộng như vậy có thể
gây nhằm lẫn giữa hành vi lao động bình thường (bỏ sức lao động) với hành
vi đầu tư thực sự của chủ đầu tư.
Theo Luật Đầu tư năm 2005 của Việt Nam (Số 59/2005/QH11): “Đầu
tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để
hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này
và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Về mặt khoa học, cách định
nghĩa này quá chung chung và trùng lập khi sử dụng thuật ngữ “hoạt động
đầu tư” để định nghĩa đầu tư.
Nhà kinh tế học P.A.Samuelson cho rằng đầu tư là hoạt động tạo ra vốn
tư bản thật sự, theo các dạng nhà ở, đầu tư vào tài sản cố định của doanh
nghiệp như máy móc, thiết bị và nhà xưởng và tăng thêm hàng tồn kho. Đầu
tư cũng có thể dưới dạng vô hình như giáo dục, nâng cao chất lượng năng lực,

nghiên cứu, phát minh, … Theo Ông trong thuật ngữ tài chính, đầu tư mang
một nghĩa hoàn toàn khác, dùng để chỉ mua một loại chứng khoán, do đó
không phải là đầu tư thật sự của nền kinh tế. Trên góc độ làm tăng thu nhập
cho tương lai, đầu tư được hiểu là “hoạt động kinh tế từ bỏ tiêu dùng hiện nay
14
với tầm nhìn để tăng sản lượng cho tương lai”, với niềm tin, kỳ vọng thu nhập
do đầu tư đem lại sẽ cao hơn các chi phí đầu tư.
Các vấn đề mà P.A.Samuelson nêu ra trong các cách tiếp cận về đầu tư
đã cho thấy đầu tư là hy sinh tiêu dùng hôm nay để có thu nhập cao hơn trong
tương lai và đó là quá trình chứa đựng những rủi ro. Điều đó không chỉ nói
lên kết quả của đầu tư mà còn chỉ rõ nguồn gốc của đầu tư trên giác độ cá
nhân cũng như trên phạm vi nền kinh tế, thể hiện các mối quan hệ thu nhập,
tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư. Đồng thời ông cũng xác định các dạng chính
của đầu tư, trong đó bao quát được cả hoạt động đầu tư khoa học, kỹ thuật và
phát triển con người.
Dù đưa ra các định nghĩa khác nhau về đầu tư, đa số các nhà kinh tế
cho rằng, nội dung cơ bản của khái niệm đầu tư phải bao hàm các khía cạnh
sau đây:
Thứ nhất, đầu tư là hành động mang tính tích luỹ. Để có vốn đầu tư,
nhà đầu tư phải hy sinh một phần tiêu dùng hiện tại. Do đó nhà đầu tư luôn so
sánh giữa đầu tư và tiêu dùng hiện tại trong các quyết định đầu tư. Nếu lợi ích
từ đầu tư (lãi suất, lợi nhuận, tăng giá từ tài sản hình thành của vốn đầu tư,
…) lớn hơn lợi ích của tiêu dùng hiện tại thì sẽ khuyến khích họ đầu tư,
ngược lại tiêu dùng hiện tại quan trọng hơn giá trị gia tăng do đầu tư đem lại
thì tiêu dùng sẽ ưu tiên hơn.
Thứ hai, mục đích của đầu tư luôn luôn là giá trị lớn hơn trong tương
lai. Bất cứ khoản vốn đầu tư nào cũng chỉ được bỏ ra khi nhà đầu tư kỳ vọng
sẽ thu hồi vốn và có lãi trong tương lai.
Thứ ba, quyết định đầu tư phụ thuộc vào tính toán của nhà đầu tư.
Nhưng xét tổng thể nền kinh tế, thì việc bảo toàn vốn và đem lại lãi cho các

nhà đầu tư phụ thuộc rất lớn vào tình trạng chung của nền kinh tế quốc gia và
thị trường thế giới. Trong điều kiện kinh tế thị trường, khi cơ chế thị trường tụ
15
phát còn quyết định trạng thái chung của nền kinh tế, thì tính bất ổn của các
chu kỳ kinh tế dẫn đến các rủi ro đầu tư. Độ bất ổn càng lớn, mức độ rủi ro
càng cao. Rủi ro sẽ cản trở đầu tư.
Cùng với xu hướng phát triển chung của xã hội, hoạt động đầu tư trở
thành nhân tố không thể thiếu cho phát triển sản xuất và gia tăng nguồn lực tài
chính cho nền kinh tế. Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau các nhà
kinh tế học đã đưa ra các khái niệm khác nhau khi nhìn nhận về đầu tư.
Một khái niệm chung nhất về đầu tư đó là: Đầu tư là hoạt động sử
dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí
tuệ để sản xuất kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi
nhuận và lợi ích kinh tế xã hội.
b. Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là phương thức đầu tư trực tiếp mà việc bỏ vốn đầu tư
nhằm gia tăng giá trị tài sản. Thực chất của việc đầu tư này là để tạo ra những
năng lực mới; hoặc cải tạo, mở rộng, nâng cấp năng lực hiện có phục vụ cho
mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển
kinh tế, là phương thức căn bản để tái sản xuất mở rộng, tạo ra việc làm và
tăng thu nhập cho người lao động.
c. Vốn đầu tư
Cùng với các nguồn lực khác, vốn là một trong những nhân tố không
thể thiếu được trong quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Nó
góp phần tạo ra thu nhập, là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế. Vốn là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, nhưng đồng thời bản thân nó
lại là kết quả đầu ra của quá trình sản xuất đó.
Để có quá trình sản xuất, cần phải có tài sản sản xuất như: nguyên vật
liệu, máy móc thiết bị, nhà xưởng … Toàn bộ số tiền và các giá trị các tài sản
được đưa vào đầu tư để tạo ra các tài sản sản xuất được gọi là vốn sản xuất.

16
Vốn sản xuất là tòan bộ giá trị của những giá trị được sử dụng làm phương
tiện phục vụ cho quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, có bộ phận vốn
sản xuất bị hư hỏng, hao mòn cần phải được sửa chữa, thay thế để đảm bảo
cho quá trình sản xuất được diễn ra bình thường, liên tục. Để đáp ứng nội
dung này cần phải có vốn để tiến hành các họat động đầu tư, vốn trong trường
hợp này gọi là vốn đầu tư. Mặt khác, trong kinh tế thị trường và trước yêu cầu
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết đã tác động trực tiếp đến quá
trính sản xuất của xã hội, làm cho họat động sản xuất không ngừng mở rộng
về quy mô, nâng cao năng suất, đổi mới công nghệ, … do vậy cần phải có vốn
đầu tư để đáp ứng được những yêu cầu đó trong quá trình tăng trưởng, phát
triển nền kinh tế quốc dân.
Vốn đầu tư là sự biểu hiện bằng tiền các khỏan mục chi phí gắn liền với
nội dung của các họat động đầu tư. Để rõ hơn nguồn gốc vốn đầu tư, hay
nguồn gốc các khoản tiền bỏ ra đầu tư, ta nghiên cứu bản chất nguồn vốn đầu
tư.
- Bản chất của nguồn vốn đầu tư
Muốn thực hiện quá trình đầu tư sản xuất, cần có các nguồn đầu vào
như sức lao động, tư liệu lao động. Khỏan tiền cần có trang trải các chi phí
ứng trước này là vốn đầu tư. Rõ ràng, vốn đầu tư phải lấy từ trong số của cải
đã làm ra, sau khi trừ đi phần tiêu dùng.
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm
hay từ tích lũy mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái
sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế chính trị học Mác – Lênin và kinh
tế học hiện đại chứng minh.
+ Theo quan điểm của C.Mác, con đường cơ bản và quan trọng về lâu
dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả
17
trong sản xuất và tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản

xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng từ sự gia tăng sản xuất và tích lũy của
nền kinh tế.
+ Tạo lập vốn đầu tư là nguồn hình thành nên tiết kiệm. Trong tác
phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại diện của trường
phái kinh tế học cổ điển đã khẳng định: “Tiết kiệm là nguồn nhân trực tiếp gia
tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích lũy cho quá trình tiết kiệm. Nhưng
dù nó tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không
bao giờ tăng lên”.
+ Quan điểm về bản chất của vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà kinh
tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quát về
việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, Jonh Maynard Keynes đã chứng minh
được rằng: “Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu
dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu
nhập so với tiêu dùng”.
Tức là: Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy: Đầu tư = Tiết kiệm
Theo Keynes đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản
xuất mới trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu
dùng mà ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản
xuất mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không
phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích lũy của nền kinh tế có thể lớn hơn
nhu cầu đầu tư ở nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang nước khác
18
để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích lũy của nền kinh tế có thể ít hơn nhu
cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động vốn đầu tư từ nước ngòai.
- Vốn đầu tư với sự phát triển kinh tế
Vào những năm 1940 với sự nghiên cứu một cách độc lập, hai nhà kinh

tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đã cùng đưa ra mô hình
giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và thất nghiệp ở các nước phát
triển. Mô hình này cũng được sử dụng rộng rải ở các nước đang phát triển để
xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn, mô hình Harrod
– Domar đưa ra hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio – Tỷ số vốn /
sản lượng tăng thêm). Hệ số ICOR nói lên rằng: Vốn được tạo ra bằng đầu tư
là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, tiết kiệm của nhân dân và các công ty là
nguồn gốc của đầu tư. Hệ số này cũng phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất
và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư.
Công thức của mô hình được xác định: g = s/ICOR, với g là tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế, s là tỷ lệ tiết kiệm. Như vậy, tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế phụ thuộc tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm (hay tỷ lệ đầu tư) trong
nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với hệ số ICOR.
Để tăng trưởng sản xuất, các nhà sản xuất có thể lực chọn công nghệ sử
dụng nhiều vốn, hoặc công nghệ sử dụng nhiều lao động. Paul A.Samuelson
cho rằng một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế hiện đại là “kỹ
thuật công nghiệp tiên tiến, hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn”. Do đó
vốn là cơ sở để phát huy tác dụng của các yếu tố khác: vốn là cơ sở để tạo ra
việc làm, để có công nghệ tiên tiến. Vì vậy trong phân tích và dự báo kinh tế
ngày nay hệ số ICOR được xem là cơ sở để xác định tỷ lệ đầu tư cần thiết phù
hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Qua nghiên cứu về bản chất của nguồn vốn đầu tư, từ đó có thể rút ra
khái niệm hoàn chỉnh về vốn đầu tư: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội,
19
của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tiền tiết kiệm của dân cư và vốn
huy động từ các nguồn khác đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã
hội nhằm duy trì và tạo năng lực mới cho nền kinh tế - xã hội.
d. Thu hút đầu tư
Thu hút đầu tư nhằm tới việc khai thác, huy động và đưa các nguồn vốn
từ tích luỹ trong nền kinh tế vào đầu tư nhằm thoả mãn nhu cầu đầu tư ngày

càng tăng. Thu hút đầu tư theo cách chuyên nghiệp cho phép các cơ quan xúc
tiến đầu tư thêm cơ hội thu hút và duy trì các dự án đầu tư mới và phù hợp
hơn cho phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Thu hút đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên tác động của nó cũng là gián tiếp, nó không trực
tiếp tiến hành đầu tư mà nó thu hút các nguồn tích luỹ trong nền kinh tế tạo
thành vốn đầu tư. Vốn đầu tư là yếu tố quan trọng cho việc thực hiện hoạt
động đầu tư làm cho nền kinh tế tăng trưởng.
Nếu không có hoạt động thu hút vốn thì nguồn vốn tích luỹ trong nền
kinh tế không được đưa vào sử dụng, điều này dẫn đến tình trạng không có
nguồn vốn đầu tư tái sản xuất xã hội và tất yếu là nền kinh tế sẽ không tăng
trưởng. Mặt khác nếu không có hoạt động thu hút vốn thì việc tạo lập vốn đầu
tư sẽ không còn ý nghĩa gì nữa. Vì vậy thu hút vốn đầu tư là cơ sở cho tạo lập
và là điều kiện cho sử dụng vốn đầu tư.
Để thu hút vốn đầu tư phải có một số điều kiện như sau:
Thứ nhất, tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững
cho nền kinh tế. Xét trong dài hạn, năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là
yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động các nguồn vốn đầu tư một
cách hiệu quả. Vấn đề tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố sự
hấp dẫn ngày càng lớn đối với cả vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.
Nó thể hiện nguyên tắc mang tính chủ đạo trong thu hút vốn đầu tư: Vốn đầu
20
tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn. Một là, với
năng lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích luỹ của nền kinh tế sẽ có
khả năng gia tăng. Khi đó quy mô các nguồn vốn trong nước có thể huy động
được cải thiện. Hai là, triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng là
tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, bảo đảm xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô. Đây được xem là
điều kiện tiên quyết cho mọi ý định và hành vi đầu tư. Sự an toàn của vốn đòi
hỏi môi trường kinh tế vĩ mô, chính trị xã hội và môi trường kinh doanh ổn

định. Đối với đầu tư nước ngoài còn yêu cầu năng lực trả nợ tối thiểu của
nước nhận vốn đầu tư.
Thứ ba, xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả.
Bên cạnh tiềm năng tăng trưởng và ổn định nền kinh tế vĩ mô, đã có thể huy
động các nguồn vốn cần có các chính sách và giải pháp hợp lý. Đồng bộ trên
cơ sở tính toán tổng hợp đảm bảo khuyến khích, định hướng các hoạt động
thu hút và cung ứng vốn.
Từ phân tích trên có thể rút ra khái niệm thu hút đầu tư là: Thu hút đầu
tư là một quá trình gồm các hoạt động, biện pháp và chính sách kế tiếp nhau
được lặp lại khi cần thiết, làm gia tăng sự chú ý và quan tâm của các nhà đầu
tư để các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào các dự án cụ thể nhằm đem lại những
lợi ích kinh tế cho nhà đầu tư.
1.1.2. Các loại nguồn vốn đầu tư
Để có chính sách thu hút vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, cần phân
loại nguồn vốn đầu tư và đánh giá đúng tầm quan trọng của từng nguồn vốn.
Ở góc độ chung nhất trong phạm vi một quốc gia, nguồn vốn đầu tư có thể
chia thành nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
a. Nguồn vốn trong nước
21
Nguồn vốn trong nước thể hiện sức mạnh nội lực của một quốc gia.
Nguồn vốn này có ưu điểm là bền vững, ổn định, chi phí thấp, giảm thiểu
được rủi ro và hậu quả từ bên ngoài. Nguồn vốn trong nước chủ yếu được
hình thành từ các nguồn tiết kiệm trong nền kinh tế. Mặc dù, thời đại ngày
nay các dòng vốn nước ngoài ngày càng trở nên đặc biệt không thể thiếu được
đối với các nước đang phát triển, nhưng nguồn vốn tiết kiệm từ trong nước
vẫn giữ vai trò quyết định. Có thể nói, tiết kiệm luôn ảnh hưởng tích cực đối
với tăng trưởng, nhất là ở những nước đang phát triển vì làm tăng vốn đầu tư,
là điều kiện cần thiết để hấp thụ vốn nước ngoài có hiệu quả.
Tiết kiệm trong nước được hình thành từ các khu vực sau:
- Tiết kiệm của ngân sách nhà nước: Là số chênh lệch dương giữa tổng

các khoản thu mang tính không hoàn lại (chủ yếu là thuế) với tổng chi tiêu
dùng của ngân sách. Tiết kiệm ở khâu tài chính này sẽ hình thành nên nguồn
vốn đầu tư của nhà nước. Số thu nhập tài chính mà ngân sách tập trung được
không thể xem ngay đó là nguồn vốn đầu tư của nhà nước, điều này còn tuỳ
thuộc vào chính sách tiêu dùng của ngân sách. Nếu quy mô chi tiêu dùng vượt
quá thu nhập tập trung thì nhà nước không có nguồn để tạo vốn cho đầu tư.
- Tiết kiệm của doanh nghiệp: Là số lãi ròng có được từ kết quả kinh
doanh. Đây là nguồn tiết kiệm cơ bản để các doanh nghiệp tạo vốn cho đầu tư
phát triển theo chiều rộng và chiều sâu. Quy mô tiết kiệm của doanh nghiệp
phụ thuộc vào các yếu tố trực tiếp như: hiệu quả kinh doanh, chính sách thuế,
sự ổn định kinh tế vĩ mô, …
- Tiết kiệm của các hộ gia đình và tổ chức đoàn thể xã hội (gọi chung
là khu vực dân cư): Là khoản tiền còn lại của thu nhập sau khi đã phân phối
và sử dụng cho mục đích tiêu dùng. Quy mô tiết kiệm khu vực dân cư chịu
ảnh hưởng bởi các nhân tố trực tiếp như: trình độ phát triển kinh tế, thu nhập
22
bình quân đầu người, chính sách lãi suất, chính sách thuế, sự ổn định kinh tế
vĩ mô…
Tóm lại, tiết kiệm là quá trình nền kinh tế dành ra một phần thu nhập ở
hiện tại để tạo ra nguồn vốn cung ứng cho đầu tư phát triển, qua đó nâng cao
hơn nữa nhu cầu tiêu dùng trong tương lai. Tuy vậy, đối với nền kinh tế đang
chuyển đổi, bước đầu thực hiện chính sách công nghiệp hoá do nguồn tiết
kiệm trong nước thấp không thể đáp ứng đủ nhu cầu vốn nên cần phải thu hút
nguồn vốn nước ngoài để tạo ra cú hích cho sự đầu tư phát triển nền kinh tế.
b. Nguồn vốn nước ngoài
So với nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài có ưu thế là mang
loại ngoại tệ cho nền kinh tế. Tuy vậy, trong nó lại luôn chứa ẩn những nhân
tố tiềm tàng gây bất lợi cho nền kinh tế, đó là sự lệ thuộc, nguy cơ khủng
hoảng nợ, sự tháo chạy đầu tư, sự gia tăng tiêu dùng và giảm tiết kiệm trong
nước … Như vậy, vấn đề thu hút vốn nước ngoài lại đặt ra những thử thách

không nhỏ trong chính sách thu hút đầu tư của nền kinh tế đang chuyển đổi.
Đó là, một mặt phải ra sức huy động vốn nước ngoài để đáp ứng tối đa nhu
cầu vốn cho công nghiệp hoá, mặt khác phải kiểm soát chặt chẽ sự huy động
vốn nước ngoài để ngăn chặn khủng hoảng. Để vượt qua những thử thách đó
đòi hỏi nhà nước phải tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi cho sự vận động
vốn nước ngoài, điều chỉnh và lựa chọn các hình thức thu hút đầu tư sao cho
có lợi cho nền kinh tế.
Về bản chất, vốn nước ngoài cũng được hình thành từ tiết kiệm của các
chủ thể kinh tế nước ngoài và được huy động thông qua các hình thức cơ bản
sau:
- Tài trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance –
ODA):
23
Đây là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi
của các chính phủ, các tổ chức thuộc liên hợp quốc, các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức tài chính quốc tế, gọi chung là các đối tác viện trợ nước
ngoài dành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ.
ODA được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
Thứ nhất, Hỗ trợ cán cân thanh toán có nghĩa hỗ trợ tài chính trực tiếp
– chuyển giao tiền tệ, đôi khi bằng hàng hoá hay hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ
hoặc hàng hoá chuyển vào trong nước được chuyển thành hỗ trợ ngân sách
của chính phủ.
Thứ hai, Tín dụng thương mại với các điều kiện mềm như lãi suất thấp,
thời hạn trả nợ và thời gian ân hạn dài, thực tế đây là dạng hỗ trợ hàng hoá có
ràng buộc.
Thứ ba, ODA chương trình hay thường gọi là ODA dự án, thực hiện
hiệp định với đối tác ODA nhằm cung cấp khối lượng ODA cho mục đích
tổng quát với thời hạn nhất định, mà không phải xác định một cách chính xác
nó sẽ được sử dụng như thế nào.
Thứ tư, Hỗ trợ dự án đây là hình thức chủ yếu của ODA. Nó có thể liên

quan tới hỗ trợ cơ bản hay hỗ trợ kỹ thuật, hoặc cả hai. Hỗ trợ cơ bản được sử
dụng chủ yếu về xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Hỗ trợ kỹ thuật tập
trung chủ yếu là chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ, đào tạo …
ODA có vai trò to lớn với quốc gia tiếp nhận: một là bổ sung cho
nguồn vốn trong nước để phát triển kinh tế; hai là tiếp cận nhanh chóng với
các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại; ba là phát triển cơ sở
hạ tầng kinh tế xã hội; bốn là đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI):
Đây là nguồn vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn vào một nước
để đầu tư trực tiếp bằng việc tạo ra những doanh nghiệp. FDI đã và đang trở
24
thành hình thức huy động vốn nước ngoài phổ biến của nhiều nước đang phát
triển khi mà các luồng dịch chuyển vốn từ các nước phát triển đi tìm cơ hội
đầu tư ở nước ngoài để gia tăng khai thác về lợi thế so sánh.
Các hình thức chủ yếu của FDI ở nước ta như sau: doanh nghiệp liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh, và
các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Khác với nguồn vốn ODA, FDI không chỉ đơn thuần đưa ngoại tệ vào
nước sở tại, mà còn kèm theo chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên
tiến và khả năng tiếp cận thị trường thế giới … Tiếp nhận FDI, lợi thế hiển
nhiên mà thời đại tạo ra cho các nước đang phát triển. Song, điều quan trọng
đặt ra cho các nước tiếp nhận là phải khai thác triệt để các lợi thế có được của
nguồn vốn này nhằm đạt được sự phát triển tổng thể cao về kinh tế.
1.1.3. Các hình thức đầu tư tại Việt Nam
Luật Đầu tư 2005 (điều 21) quy định các hình thức đầu tư tại Việt Nam
bao gồm:
a. Các hình thức đầu tư trực tiếp
Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc
100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và

nhà đầu tư nước ngoài.
Đầu tư phát triển kinh doanh; Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia
quản lý hoạt động đầu tư và đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh
nghiệp.
Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
b. Đầu tư theo hợp đồng
Gồm các hình thức đầu tư:
25

×