Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

chủ trương, đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra trong bối cảnh như thế nào và đâu là nhân tố quyết định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.02 KB, 18 trang )

Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

Tiểu luận
Chủ trương, đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đề ra
trong bối cảnh như thế nào và đâu là nhân tố quyết định? Thực
chất vấn đề đổi mới tư duy đối ngoại là gì? Những bài học nào
được rút ra cho ngoại giao Việt Nam sau đổi mới?

1


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

PHẦN MỞ ĐẦU
Sau Đại hội Đảng VI (tháng 12-1986) khi Đảng ta đề ra chủ trương đổi mới toàn
diện, trước hết là đổi mới tư duy đối ngoại, Đảng và nhân dân ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc XHCN. Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Tổng Bí
thư Nơng Đức Mạnh nêu rõ: "Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng
được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế
và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp".
Về đối ngoại:
Sau 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới với chủ trương phát triển và nâng cao
đường lối đối ngoại của ta thành đường lối độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, làm cho đất nước khởi sắc về mọi mặt. Cụ thể, trong lĩnh vực ngoại
giao đã có nhiều phát triển mới, nổi lên là ba sự kiện trong năm 1995: bình thường


hóa quan hệ với Mỹ (11-7-1995); ký Hiệp định khung hợp tác với Liên minh châu Âu
(17-7-1995) và trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông - Nam Á
- ASEAN (28-7-1995).
Cho đến nay, sau khi tiến hành đổi mới, nước ta đã có quan hệ ngoại giao đầy đủ
với 169 nước, trong đó có tất cả các nước láng giềng và các nước lớn, có quan hệ
thương mại với trên 180 nước và vùng lãnh thổ, trở thành thành viên và có những
đóng góp quan trọng trong nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như ASEAN, ASEM,

2


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

APEC.... Chúng ta đã tổ chức tốt nhiều Hội nghị cấp cao lớn như Hội nghị cấp cao Á
– Âu, Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương APEC 14. Tháng 11/2006, Việt Nam lần đầu tiên tổ chức thành công Hội nghị cấp
cao Diễn đàn châu Á - Thái Bình Dương APEC. Vừa qua, Việt Nam được các nước
Châu Á nhất trí đề cử làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc nhiệm kỳ 2008- 2009. Đó là sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế về uy tín quốc
tế của Việt Nam và về khả năng đóng góp đầy trách nhiệm của Việt Nam trong việc
giải quyết các vấn đề an ninh, chính trị quốc tế quan trọng.
Tóm lại, “Hai mươi năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật về
đối ngoại, đưa đất nước ra khỏi tình trạng bị bao vây, cơ lập, mở rộng hơn bao giờ hết
quan hệ quốc tế cả về chính trị lẫn kinh tế, khơng ngừng nâng cao vị thế ở khu vực và
trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc1.”
Về kinh tế
Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu vượt bậc trên hầu hết các lĩnh vực,
tạo nên thế và lực mới, và mở ra rất nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển cho đất
nước .

Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội liên tiếp tăng qua các năm. Liên tục trong vòng 20
năm, tăng trưởng kinh tế khá cao, GDP tăng bình quân 7% / năm, riêng năm 2005 và
2006 tăng trưởng trên 8%/năm. Đất nước đã chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường
và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Chính phủ Việt Nam đang hồn
thiện thể chế kinh tế thị trường. Cùng với Trung Quốc, Nam Phi, và Vênêzuêla, đầu
tháng 5/2007, tổ chức ASEAN đã chính thức ra tuyên bố công nhận Việt Nam là một
nền kinh tế thị trường đầy đủ. Theo số liệu của IMF, tổng sản phẩm quốc dân của Việt
Nam tăng từ 45 tỷ USD năm 2004 lên hơn 60 tỷ USD năm 2006, kim ngạch xuất khẩu
trung bình hàng năm đạt 40 tỷ USD, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi vượt trên 10
tỷ USD. Đến nay, đã có 76 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với hơn
8.000 dự án và tổng số vốn đăng ký trên 70 tỷ USD, riêng năm 2006 đã thu hút được
10,2 tỷ USD. Việt Nam hiện có quan hệ kinh tế thương mại với hơn 220 quốc gia và nền
1

“Thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại qua 20 năm đổi mới”, Vũ Khoan, Báo Nhân Dân ngày 14/1/2005.

3


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

kinh tế, kim ngạch xuất khẩu tăng 20%/năm liên tục trong nhiều năm qua.
Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là ngày 7/11/2006, Việt Nam đã là thành
viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập hoàn
toàn của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu, mang đến những cơ hội to lớn về thương
mại và đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam. Đây này thể hiện sự công nhận và tin tưởng
của cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu đổi mới của Việt Nam.


Tình hình chính trị - xã hội
Cùng với sự mở rộng các quan hệ đối ngoại và sự phát triển của kinh tế, tình hình
chính trị - xã hội của đất nước ngày càng ổn định, an ninh quốc phòng được tăng
cường vững chắc hơn. Nền dân chủ không ngừng được củng cố, quyền làm chủ của
nhân dân ngày càng được phát huy. Những thành tựu kinh tế chung của đất nước đã
góp phần cải thiện đời sống các tầng lớp nhân dân. Có thể nói, công cuộc đổi mới đã
làm cho vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao và đưa nước
ta trở thành một người bạn và là một đối tác tin cậy của nhân dân tất cả các nước.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới trên mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội...,
đến nay, Việt Nam đã từng bước vượt qua các thử thách và khó khăn, có đủ cơ sở để
khẳng định rằng đổi mới là sự lựa chọn đúng đắn, đã đặt Việt Nam vào quỹ đạo phát
triển mới, phù hợp với xu thế của thời đại và với mong muốn của nhân dân. Sự hưởng
ứng đường lối đổi mới ngày càng sâu rộng và tự giác của nhân dân, khả năng tiếp cận
và hội nhập một cách có hiệu quả của đất nước vào đời sống của cộng đồng quốc tế
cùng với những kết quả to lớn và toàn diện mà đổi mới mang lại là những bằng chứng
thuyết phục về tính tất yếu lịch sử của quá trình đổi mới ở Việt Nam.
Trong quá trình nhìn nhận, đánh giá những thành tựu của Việt Nam sau 20 năm
đổi mới, còn rất nhiều những câu hỏi được đặt ra như: Chủ trương, đường lối đổi
mới toàn diện đất nước được đề ra trong bối cảnh như thế nào và đâu là nhân tố
quyết định? Thực chất vấn đề đổi mới tư duy đối ngoại là gì? Những bài học nào
được rút ra cho ngoại giao Việt Nam sau đổi mới?
Trong phần tiếp theo của bài viết, chúng ta sẽ lần lượt đi vào tìm hiểu và giải

4


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33


thích từng câu hỏi được đặt ra ở trên để có cái nhìn sâu sắc và tổng quát hơn về vấn
đề này.
Do những hạn chế về mặt thời gian và tài liệu tham khảo, bài viết chắc chắc
không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự nhận xét góp ý của các
thầy cô giáo bộ môn để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
I. “Đổi mới hay là chết”2- Vấn đề chính của chính sách đối ngoại của Việt Nam
trong giai đoạn từ 1986 đến nay.
1. Xu hướng hịa bình ổn định trên thế giới ngày càng phát triển.
Cuộc khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa tư bản kéo dài trong suốt những năm
70 đã đưa đến giai đoạn mới của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Giai đoạn mới
này đang thúc đẩy một cuộc chạy đua kinh tế toàn cầu và lịch sử. Những thách thức
to lớn về kinh tế trở thành những thách thức lớn về an ninh, chính trị và quốc phòng
của tất cả các nước lớn và nhỏ trên thế giới. Xu thế tồn cầu hóa và tự do hóa thương
mại ngày càng diễn ra sâu rộng và quyết liệt trong quá trình phát triển kinh tế của mọi
quốc gia, làm cho nền kinh tế của các quốc gia ràng buộc lẫn nhau ngày một chặt chẽ
hơn. Dưới tác động của xu thế này, không một quốc gia nào có thể độc lập giải quyết
mọi vấn đề của mình như phát triển kinh tế, khoa học cơng nghệ, bảo vệ môi sinh....
Xu thế mới của thời đại là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự điều chỉnh chiến lược của
các nước lớn, trong đó đặc biệt ưu tiên phát triển kinh tế, kể cả những nước có tiềm
lực cũng đều phải giảm chạy đua vũ trang và chi phí quân sự, tập trung giải quyết nội
bộ nhằm tạo ra một nền kinh tế phát triển cao vào cuối thế kỷ này.
Đáng chú ý nhất là Xô-Mỹ, từ năm 1985, hai nước này đã giảm chạy đua vũ trang
để tập trung sức lực vào giải quyết khó khăn kinh tế, tạo khả năng tốt nhất để có thể
thắng trong cuộc chạy đua về kinh tế. Các cuộc gặp cấp cao Xơ-Mỹ đánh dấu bước
2

Câu nói nổi tiếng của cựu Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt nam Nguyễn Văn Linh trong Đại Hội VI (1986) của Đảng.


5


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

chuyển biến quan trọng từ Chiến tranh lạnh chuyển dần sang đấu tranh và hợp tác
trong cùng tồn tại hịa bình.
Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô, trật tự hai cực khơng cịn, ý
thức hệ khơng cịn là chuẩn mực trong tư duy tập hợp lực lượng. Các dân tộc nâng
cao ý thức tự chủ, tự lực tự cường, kiên quyết đấu tranh chống lại sự áp đặt và can
thiệp của các thế lực bên ngồi vì hịa bình và phát triển; Các nước XHCN, các đảng
cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ khác trên thế giới kiên trì
chống các thế lực thù địch và phản động, kiên trì lý tưởng XHCN, phấn đấu cho dân
sinh, dân chủ, vì một xã hội mới tốt đẹp, một cuộc sống hịa bình độc lập tự do ấm no
hạnh phúc; Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh
trong cùng tồn tại hịa bình. Việc tập hợp lực lượng trên trường quốc tế cũng không
dựa trên ý thức hệ như trước kia nữa mà rất đa dạng, phức tạp, tùy vấn đề, từng hoàn
cảnh cụ thể, căn cứ vào lợi ích của từng quốc gia, dân tộc
Những thay đổi sâu sắc của nền chính trị quốc tế, nhất là xu thế tồn cầu hóa và
sự gia tăng ảnh hưởng của các quyền lực đa quốc gia đòi hỏi chúng ta phải có tư duy
đối ngoại mới.
2. Đơng Nam Á- xu hướng hợp tác hịa bình, cùng phát triển.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, lịch sử các nước Đơng Nam Á có những bước
phát triển thăng trầm do những mâu thuẫn nội bộ và tác động của tình hình thế giới.
Cho đến khoảng giữa thập niên 60, trong bối cảnh quốc tế của chiến tranh lạnh thì sự
ra đời của ASEAN là một bước phát triển quan trọng nhằm thiết lập hàng rào bảo vệ
an ninh của 5 nước trong Đông Nam Á.

Giai đoạn 9 năm đầu 1967-1975 là giai đoạn thử thách sự tin cậy giữa các nước thành
viên để giải quyết những xung đột trước đó như: tranh châp Malaixia và PhiLip Pin,
Indonexia và Xinggapo.
Cuối thập kỉ 70 đến giữa thập kỉ 80 của thế kỉ XX, tình hình giữa 2 nhóm nước
trong khu vực đó là nhóm nước ASEAN và ba nước Đơng Dương căng thẳng do sự
kích động can thiệp của các nước lớn khi Việt Nam đưa quân vào giúp đỡ nhân dân
Campuchia lật đổ chế độ Polpot. Tuy nhiên, do tác động của xu thế hịa bình, hợp tác

6


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

ngày càng phát triển trên thế giới giữa những năm 80, tình hình khu vực Đơng Nam
Á cũng dần dần hồ dịu. ASEAN bắt đầu đối thoại với 3 nước Đông Dương nhất là
Việt Nam, để cùng tìm giải pháp giải quyết vấn đề Campuchia trong hịa bình. Có thể
nói, tại Đơng Á đối đầu chính trị lùi bước nhường chỗ cho đối thoại và hợp tác, xích
lại gần nhau thơng qua tăng cường quan hệ kinh tế đa phương giữa hầu hết các thành
viên trong khu vực.

3. Tình hình trong nước.
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc, nước ta vẫn cịn phải đối
mặt với nhiều khó khăn do chiến tranh gây ra. Thêm vào đó, do những sai lầm chủ
quan, duy ý chí, nóng vội, chúng ta đã lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
và bị bao vây cấm vận về kinh tế, chính trị: chỉ tham gia khối SEV, lạm phát cao,
thiếu hụt lương thực,…
Cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội nước ta lên tới đỉnh cao.
Sau hai kế hoạch 5 năm xây dựng và phát triển kinh tế theo mơ hình cũ, nền kinh

tế Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng:
Quan hệ sản xuất chưa phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Kinh tế tăng trưởng thấp, nếu tính chung từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản
phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân mỗi năm tăng 4,6 %. Thu nhập quốc dân tăng
38,8 %, bình qn tăng 3,7%/năm.
Sản xuất trong nước khơng đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Toàn bộ
quỹ tích lũy và một phần tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngồi. Nhà nước khơng
những phải nhập các mặt hàng quan trọng cho sản xuất mà còn phải nhập hàng tiêu
dùng, kể cả những loại hàng hóa lẽ ra sản xuất trong nước có thể đáp ứng được như
gạo, vải mặc.
Lạm phát diễn ra ở mức trầm trọng. Trong kế hoạch 1976 - 1980, lạm phát đã gây
tác động xấu đến đời sống kinh tế- xã hội. Chính phủ đã có nhiều biện pháp kiềm chế
tốc độ lạm phát nhưng khơng có hiệu quả. Năm 1985, cải cách giá, lương tiền không

7


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

thành cơng càng làm cho tốc độ lạm phát tăng vọt.
Sau hơn 10 năm tiến hành xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước (1975 - 1986),
tuy có đạt được những thành tựu ban đầu, song nhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu
nhất của cuộc sống nhân dân vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có
những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát triển; tình trạng mất cân đối
nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân
dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị
xói mịn.

Tình trạng thiếu hụt các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu, làm gia tăng các căng thẳng
trong đời sống xã hội. Quần chúng nhân dân mất lòng tin đối với sự lãnh đạo của
Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng cộng sản và
Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức phát triển mới có khả năng đáp
ứng các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất
là phải tháo gỡ các ràng buộc về cơ chế và thể chế để giải phóng các nguồn lực phát
triển của đất nước.
Tồn bộ tình hình trên đây, ở trong cũng như ngoài nước đã tác động đến Việt
Nam về cả hai phương diện. Một mặt, nó địi hỏi phải đổi mới tư duy phát triển, đặt
trọng tâm vào phát triển kinh tế theo một phương thức mới. Mặt khác, nó tạo ra các
cơ hội và điều kiện để sự thay đổi đó diễn ra thuận lợi. Đó là điểm khởi đầu cả về lịch
sử lẫn lý luận của quá trình đổi mới.
“Đại hội của Đổi mới tư duy”
Nhận thức được sự thay đổi của tình hình và yêu cầu gay gắt phải tạo một bước
ngoặt trong tiến trình phát triển đất nước, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
VI đã đề ra chủ trương đổi mới tồn diện và triệt để. Chương trình phát triển đất nước
được thông qua tại Đại hội này có nội dung đặc biệt quan trọng là chuyển nền kinh tế
sang cơ chế thị trường - mở cửa theo định hướng XHCN. Để thực hiện được bước
chuyển ấy, khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới tư duy phát triển.
Chính điều đó xác định giá trị lịch sử của Đại hội VI: Đại hội của Đổi mới tư duy.
Trước hết, với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật

8


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

", Đại hội VI đã kiểm điểm và đánh giá theo tinh thần phê phán những sai lầm chủ

quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động nóng vội, chủ quan, không tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan. Đại hội đã rút ra 4 bài học lớn, trong đó 2 bài
học đầu tiên là "Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng
"lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động " và
"Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan"3. Những bài học trên đây là cơ sở quyết định để từ bỏ lối tư duy sáo mịn;
tập trung trí tuệ của tồn Đảng vào việc tìm kiếm và lựa chọn một tư duy mới, chiến
lược phát triển mới, có khả năng đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của nhân dân. Đại hội Đảng
VI trở thành sự kiện đánh dấu bước ngoặt phát triển là nhờ nó qn triệt sâu sắc
ngun tắc: nếu khơng có sự phê phán và tự phê phán nghiêm túc, sẽ không thể có bất
kỳ một sự đổi mới nào, kể cả đổi mới tư duy.
Qua việc tìm hiểu, phân tích bối cảnh của đổi mới tư duy đối ngoại, có thể
nhận thấy rằng: sự thay đổi trong tư duy của các nhà lãnh đạo, mà cơ bản là sự
chuyển biến các giá trị, quan niệm trong các vấn đề ý thức hệ, từ đó có sự nhạy
bén và linh hoạt trong việc xác định lợi ích quốc gia dân tộc và hoạch định các
chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình thực tiễn.
II. Thực chất vấn đề đổi mới tư duy đối ngoại.
Sau Đại hội VI của Đảng, Bộ Chính trị thông qua Nghị quyết 13 (5/1988) về đổi
mới tư duy đối ngoại, khẳng định: “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là
phải củng cố và giữ vững hồ bình để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế, vì
với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây
dựng thành cơng CNXH hơn”. Để đảm bảo lợi ích cao nhất nêu trên, đường lối đối
ngoại phải chuyển từ việc chú trọng nhân tố chính trị - quân sự sang dành ưu tiên cho
nhân tố kinh tế, giữ vững hồ bình và độc lập. Đây có thể coi là bước chuyển biến
chiến lược đối ngoại cơ bản của Việt Nam. Sự chuyến biến này tiếp tục được khẳng
3

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V.


9


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

định trong văn kiện của các Đại hội Đảng sau này.
Đổi mới tư duy đối ngoại: Chuyển từ lăng kính ý thức hệ sang lăng kính lợi
ích quốc gia dân tộc.
Đây chính là quá trình giảm yếu tố ý thức hệ trong chính sách đối ngoại, đặt
quốc gia dân tộc là mục tiêu cơ bản trong quan hệ quốc tế. Chúng ta đã có cái nhìn
tồn diện hơn, đúng đắn hơn về tình hình thế giới trong thời kỳ mới. Đó là cái nhìn
đổi mới từ một thế giới 2 phe 4 mâu thuẫn sang một thế giới các quốc gia dân tộc với
nhiều mâu thẫn đan xen, từ quan điểm ba dòng thác cách mạng,đấu tranh chống đế
quốc sang thế giới tuỳ thuộc lẫn nhau, đối thoại thay đối đầu ,các quốc gia tham gia
vào phân công lao động quốc tế và cùng tồn taị hồ bình.Và đặc biệt quan trọng, lợi
ích quốc gia dân tộc chính là định hướng cho mọi hoạt động quốc tế của quốc gia dân
tộc. Nghị quyết 13 của Bộ Chính Trị tháng 5/1988 đã nêu rõ : “Lợi ích cao nhất của
Đảng và nhân dân ta sau khi giải phóng miền Nam, cả nước thống nhất, đi lên
CNXH là phải củng cố và giữ vững hồ bình để tập trung xây dựng và phát triển
kinh tế”.
Rõ ràng đến thời điểm này, Đảng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của kinh
tế đối với một quốc gia dân tộc.Trong thời chiến, lợi ích cao nhất của nước ta là an
ninh, và sau khi đã giành độc lập dân tộc, chúng ta nên tìm cách giữ vững nền độc lập
ấy để phát triển nền kinh tế, xây dựng đất nước giàu mạnh chứ không phải là thực
hiện nghĩa vụ quốc tế, là tiền đồn cho CHXN ở Đơng Nam Á. Nghị quyết 13 5/1988
có thể nói là mốc son chói lọi trong sự nghiệp lãnh đạo của Đảng ta. Nghị quyết đã
xác định rõ trong thời điểm này, chúng ta cần xác định lợi ích đúng đắn, phù hợp với
tình hình thực tiễn quốc gia và thế giới. “Với một nền kinh tế mạnh,một nền quốc

phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,chúng ta sẽ
càng có khả năng giữ vững độc lập và xây dựng tành công CNXH hơn”. Sự
chuyển biến trong tư duy đối ngoại về lợi ích quốc gia đã thể hiện ngày càng rõ nét.
Trong thời đại mới chúng ta khơng thể đứng ngồi sự vận động và phát triển của thế
giới.Chúng ta cần giải quyết những vấn đề tồn tại, then chốt là: giải quyết hồ bình
vấn đề Campuchia,bình thường hố quan hệ với Mỹ và Trung quốc và xây dựng quan

10


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

hệ tốt đẹp với ASEAN.Có như vậy, mới thốt khỏi tình thế bị bao vây cấm vận, từ đó
có điều kiện để phát triển kinh tế, quốc phịng, có nền tảng để đảm bảo cho lợi ích
quốc gia. Đảng cũng xác định “kết hợp chủ nghĩa quốc tế chân chính với chủ nghĩa
yêu nước trong tình hình mới”. Chúng ta cần phải xây dựng một tiềm lực quốc gia
mạnh mẽ về mọi mặt và quan trọng nhất là kinh tế. Chỉ có như vậy, lợi ích quốc gia
mới được đảm bảo và có thể duy trì và giữ vững hồ bình độc lập, xây dựng một đất
nước phát triển mạnh mẽ, phát huy tầm ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế.
Những quan điểm mới được đưa ra từ sau năm 1986 nhằm thích nghi tốt hơn với
tình hình thế giới biến động đã thể hiện sự linh hoạt trong tư duy và nhận thức của
các nhà lãnh đạo.Có thể nói, sự chuyển biến tư duy về lợi ích quốc gia chính là bước
khởi đầu và quyết định cho sự đổi mới của đất nước và đó là điểm xuất phát đúng đắn
dể đem đến sự phát triển ngày nay của Việt Nam ta. Chủ trương này tiếp tục được
phát huy ở giai đoạn tiếp theo: Hội nghị TƯ 6, khoá VI (3/1989) xác định cần phải
chuyển mạnh hoạt động đối ngoại sang phục vụ kinh tế, kết hợp chính trị đối ngoại
với ngoại giao kinh tế.
Hội nghị Trung ương 8 khoá IX năm 2003 tiếp tục xác định: Một là, bảo vệ

vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; hai là, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới,
hiện đại hóa đất nước; bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; năm là, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và n ền v ăn h óa; sáu là, giữ Vững ổn định
chính trị và mơi trường hịa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nghị quyết khơng phân loại

theo tiêu chí tầm quan trọng như: sống cịn,

thiết yếu, thơng thường song có nhấn mạnh lợi ích ưu tiên. Đó là: Kiên trì mục tiêu
độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; lấy việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định để phát triển kinh tế xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước.
Đổi mới tư duy xác định mối quan hệ giữa các phạm trù: Hợp tác, đấu tranh
Trước năm 1986, chúng ta thi hành chính sách đối ngoại với hai loại đối tượng
tương ứng: chú trọng hợp tác và đấu tranh. Với Lào và Campuchia ta thi hành đường
lối đối ngoại dựa trên quan hệ đặc biệt, làm tròn nghĩa vụ quốc tế và hợp tác trên cơ

11


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

sở chống bá quyền. Với các nước trong khu vực, chúng ta nêu lên khẩu hiệu “Đơng
Nam Á hồ bình và ổn định, trung lập thực sự”, nhưng lại tự nhận mình là tiền đồn
của Chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Á, coi họ là kẻ thù. Còn với Trung Quốc, chúng
ta gắn Trung Quốc với Mỹ, coi Trung Quốc là kẻ thù nguy hiểm trực tiếp. Với các
nước xã hội chủ nghĩa chúng ta chủ trương hợp tác toàn diện. Chúng ta thi hành
chính sách với Liên Xơ là hịn đá tảng, quan hệ với Liên Xô là “ nguyên tắc, chiến

lược và tình cảm” mà khơng nhận ra chiến lược lấn sân của Liên Xơ. Chính ý thức
hệ, sự phân hoá bạn thù một cách hạn hẹp, cứng nhắc qua lăng kính của cuộc chiến
tranh lạnh đã dẫn đến việc xa rời đường lối cân bằng quan hệ giữa Liên Xô và Trung
Quốc đã thành công trong kháng chiến chống Mỹ mà chỉ chú trọng hợp tác hoặc đấu
tranh một chiều. Điều này đã khiến cho mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước
ASEAN và các nước lớn (trừ Liên Xô) gặp nhiều vướng mắc, chúng ta bị rơi vào thế
cô lập về ngoại giao, bị bao vây cấm vận về kinh tế, khiến cho nền an ninh của đất
nước trở nên bấp bênh, nhất là khi cùng lúc phải đối phó với căng thẳng ở cả hai đầu
biên giới (chiến tranh biên giới 1979).
Sau năm 1986, chúng ta đã có những chuyển biến trong việc xác định hai phạm
trù hợp tác và đấu tranh, chủ trương đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ
đối ngoại, mở rộng quan hệ với nhiều đối tượng khác nhau. Đảng nhận định: Giữa
các đối tượng trên thế giới quan hệ với nhau thường có những lợi ích trùng hợp và
những lợi ích khơng trùng hợp vì mỗi đối tượng đều tìm cách bảo vệ lợi ích của
mình. Vì vậy, trong quan hệ quốc tế, thúc đẩy hợp tác nhưng vẫn phải đấu tranh
dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tượng cụ thể nhằm bảo vệ lợi ích
của dân tộc, thiết lập các quan hệ bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hồ bình. Đây
là một sự đổi mới tư duy quan trọng của Đảng, thoát ra khỏi tư duy bạn thù hạn hẹp,
cứng nhắc, chúng ta không chỉ chú trọng hợp tác hợp tác toàn diện với các nước xã
hội chủ nghĩa, chống các nước tư bản chủ nghĩa như trước nữa mà chủ trương vừa
hợp tác vừa đấu tranh với tất cả các nước trên có sở lợi ích dân tộc là trên hết.
Đảng ta đã nêu ra khái niệm mới về đối tượng, đối tác. Nghị quyết nêu rõ: “Để
phát huy thuận lợi, hạn chế thách thức, cần có cách nhìn mới và thống nhất về vấn

12


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33


đề đối tác và đối tượng theo nguyên tắc: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ
quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với
Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động
chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều là
đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay,
cần có cách nhìn nhận biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh
thủ, hợp tác; trong một số đối tác có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của
ta. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ mất cảnh giác hoặc
cứng nhắc trong nhận thức chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể”4.
Nghị quyết Đại hội X tháng 4/2006 của Đảng một lần nữa khẳng định chiến lược
bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới về vấn đề xác định đối tác và đối tượng. Xác
định đối tác đối tượng phải tuỳ theo từng tình huống, hồn cảnh, thời điểm cụ thể,
tránh mơ hồ, cứng nhắc, nhất là phải tính đến những quan hệ lợi ích trùng hợp và
những quan hệ lợi ích khơng trùng hợp, mặt thuận lợi và mặt phức tạp, khả năng và
giới hạn cũng như tác động qua lại của các mối quan hệ đó để đạt hiệu quả cao nhất;
tránh sơ hở, nhất là tránh những tình huống bất lợi và phải có cách ứng phó với
những rủi ro bất trắc. Cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác nhưng khi cần thiết phải đấu
tranh với mức độ thích hợp. Chỉ hợp tác một chiều hoặc chỉ đấu tranh một chiều đều
có thể dẫn đến tình huống bất lợi cho ta. Cách ứng xử nói trên trong quan hệ Quốc tế
là xuất phát từ nhiệm vụ thiêng liêng là bảo vệ lợi ích tối cao của dân tộc.
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong tư duy đối ngoại là hướng đi đúng
và được tiếp tục khẳng định trong các kỳ Đại hội tiếp sau kể từ Đại hội VII, và trên
thực tế đã đem lại những thắng lợi lớn cho ngoại giao Việt Nam. Đó là từng bước
làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, khơi phục quan hệ với Trung Quốc, bình
thường hố quan hệ với Mỹ, cải thiện quan hệ với các nước ASEAN, Nhật Bản và
các nước Tây Âu - Bắc Âu, củng cố và tăng cường quan hệ với các nước bạn truyền
thống, thiết lập và mở rộng quan hệ với các nước còn lại trong khu vực và trên thế
giới, tích cực tham gia vào hoạt động của các tổ chức khu vực và quốc tế, tạo cục
4


Nghị quyết về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới, Hơị nghị Trung ương 8, khóa IX tháng 8/2003.

13


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

diện mới cùng tồn tại hồ bình, vừa hợp tác vừa đấu tranh vì hồ bình, độc lập và
phát triển.
Sự thay đổi tư duy về tập hợp lực lượng trong chính sách đối ngoại
Trong đổi mới chính sách đối ngoại, việc sắp xếp các đối tượng quan hệ có
một vai trị quan trọng. Đại hội VI của Đảng (12-1986) khởi xướng đường lối đổi mới,
đã nhất quán tư tưởng đối ngoại của Đảng, giương cao ngọn cờ hồ bình, độc lập dân
tộc và CNXH, giữ vững độc lập tự chủ, đẩy mạnh hợp tác hữu nghị, làm tròn nhiệm
vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Trong chính sách đối ngoại được thông qua tại Đại
hội VI, sự đổi mới tư duy về chính sách tập hợp lực lượng đã được xác định, qua đó
thể hiện mong muốn của Đảng và nhân dân Việt Nam đối với việc tạo lập mơi trường
hồ bình ở Đơng Nam Á cũng như trên tồn thế giới.
Đại hội Đảng lần thứ VII ( 6/1991) tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá quan hệ theo tình thần
“ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hồ bình, độc lập và phát triển”, Đại hội VIII của Đảng (6/1996), “Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hồ bình, độc lập và phát triển”, Đại hội X (4/2006) “Việt Nam là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, tích cực tham gia vào hợp tác quốc tế
và khu vực”.
Việc mở rộng quan hệ hữu nghị và tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với

các nước, đặc biệt là các nước láng giềng cũng như với ASEAN, là chủ trương đúng
đắn và phù hợp thực tiễn của nước ta, nhằm tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi, nhanh
chóng hội nhập khu vực và quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất
nước, góp phần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Sự chuyển biến trong tư duy tập hợp lực lượng sau đổi mới thể hiện ở chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc điều chỉnh chính sách theo
hướng chú trọng quan hệ với các nước láng giềng và khu vực. Thực chất của sự đổi

14


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

mới này là thay thế quan điểm ''khép kín'' trong thế đối đầu trước đây cho phù hợp
với yêu cầu trong nước và xu thế mở cửa, hội nhập khu vực, quốc tế. Điều này chứng
tỏ Đảng đã thận thức đúng những biến động của tình hình thế giới và xu thế quốc tế,
nhất là xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kịp thời điều chỉnh chiến
lược đối ngoại, đề ra đường lối, chủ trương phù hợp với tình hình phát triển mạnh mẽ
quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng và khu vực, tham gia tích cực vào
đời sống quốc tế.

Qua việc tìm hiểu, phân tích những điểm mới trong các hoạt động đối ngoại,
có thể nhận thấy đổi mới trong tư duy từ sau năm 1986 thực chất là quay trở lại tư
duy đối ngoại đưa quốc gia dân tộc lên làm nền tảng, đặt lợi ích dân tộc lên cao nhất,
nhằm thực hiện nhanh và hiệu quả các mục tiêu: ưu tiên phát triển kinh tế, thoát khỏi
bao vây, cấm vận; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Thực tiễn lịch sử
đã chứng minh những thay đổi trong tư duy về lợi ích quốc gia có ý nghĩa sống cịn

và nó cũng phù hợp với xu thế chung của thời đại.

15


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

KẾT LUẬN
“Đại hội đổi mới” năm 1986, với sự thay đổi tư duy về đường lối đối ngoại, đã
thể hiện rõ nét sự nhạy bén và đúng đắn của Đảng trong đường lối lãnh đạo đất nước.
Sự thay đổi ấy đã mang lại một loạt thay đổi khác mang tính chất bước ngoặt trong
lịch sử phát triển của nước ta ngày hôm nay. Qua việc nhìn nhận và đánh giá một
cách thẳng thắn, khách quan những thành tựu đã đạt được và những mặt còn hạn chế
trong suốt 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, có thể rút ra một số bài học như sau:
Phải thường xuyên đổi mới tư duy đối ngoại một cách nhanh chóng, linh hoạt
nhằm theo kịp sự phát triển của thời đại, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới có
nhiều thay đổi và ngày càng phức tạp.
Đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và nắm vững nguyên tắc độc lập, tự chủ trong
mọi hoạt động đối ngoại. Chỉ khi đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ mới chủ động
tránh được sức ép của bên ngồi, bảo đảm được những lợi ích của dân tộc.
Đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, chủ trương trở thành bạn và
đối tác tin cậy của các dân tộc trong cộng đồng quốc tế, đặc biệt là với các nước láng
giềng, các nước trong khu vực đồng thời cân bằng quan hệ với tất cả các nước lớn.
Mở rộng các mối quan hệ đối ngoại, không chỉ tạo cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ
độc lập, chủ quyền dân tộc mà còn mở ra các cơ hội hợp tác, giao lưu quốc tế, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế trong nước.
Những bài học được đúc kết trong suốt quá trình thực hiện đường lối đổi mới là


16


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

nền tảng vững chắc cho việc hoạch định chính sách đối ngoại trong thời kỳ mới,
nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước về mọi mặt trong tương lai.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chính sách đối ngoại II, Học viện Quan hệ quốc tế
2. Giáo trình Chính sách đối ngoại II, Học viện Quan hệ quốc tế, TS. Nguyễn Vũ
Tùng biên soạn.
3. Bộ Ngoại giao, Tạp chí Cộng sản số 14, tháng 7/2006
4. Văn kiện Đại hội thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
5. Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới 1975-2002, TS. Vũ Dương
Huân, Học viện Quan hệ Quốc tế.
6. Hồi ức và suy nghĩ, Trần Quang Cơ.
7. />
17


Chính sách đối ngoại II

Hồng Thị Thanh Tuyền H33

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

PHẦN NỘI DUNG CHÍNH ............................................................................. 5
I. “Đổi mới hay là chết”- Vấn đề chính của chính sách đối ngoại của Việt
Nam trong giai đoạn từ 1986 đến nay. ........................................................... 5
1. Xu hướng hịa bình ổn định trên thế giới ngày càng phát triển. ............... 5
2. Đông Nam Á- xu hướng hợp tác hịa bình, cùng phát triển. .................... 6
3. Tình hình trong nước. ............................................................................. 7
II. Thực chất vấn đề đổi mới tư duy đối ngoại. ............................................ 9
KẾT LUẬN .................................................................................................... 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 17

18



×