TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐỀ TÀI 1: TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
GVHD : TRƯƠNG MINH TUẤN
LỚP : VB15KT002
THỰC HIỆN : NHÓM 1 STT
CHỮ KÍ
Nguyễn Thị Hằng 31
Đào Thị Thúy Nga 79
Quách Tú Quyên 110
Mai Thị Minh Thư 133
Khâu Thị Phương Uyên 152
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
Tháng 11 năm 2012
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và lạm phát luôn là những chỉ tiêu vô cùng quan trọng trong
các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và dành được sự quan tâm hàng đầu của các nhà quản
lý, nhà hoạch định cũng như công chúng. Không những thế tăng trưởng và lạm
phát còn được xem là những đề tài hấp dẫn và mới mẻ trong nghiên cứu kinh tế
đặc biệt là trong nền kinh tế hiện đại. Dù bạn là ai đi nữa thì hàng ngày, hàng
giờ, tăng trưởng và lạm phát đều đang ảnh hưởng đến đời sống của bạn. Tăng
trưởng có thể giúp bạn trở nên giàu có thì lạm phát chính là “kẻ móc túi” vô
hình luôn thường trực bên bạn.
Mối liên hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế là vấn đề thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế. Trong thời gian gần đây, kinh tế thế
giới có nhiều biến động, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, làm
giảm tốc độ tăng trưởng và khiến lạm phát tăng cao ở nhiều nước, trong đó có
Việt Nam. Điều này đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu một cách sâu sắc sự tác động
qua lại giữa tăng trưởng và lạm phát, từ đó tìm ra biện pháp nhằm ổn định lạm
phát và thúc đẩy tăng trưởng cho từng quốc gia.
Bài viết này sẽ điểm lại một cách có hệ thống các lý thuyết, các nghiên
cứu kiểm nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, bài viết sẽ đi sâu phân tích quan điểm
của các nhà kinh tế Việt Nam và vấn đề lựa chọn ưu tiên giữa tăng trưởng và
lạm phát trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những
sai sót. Nhóm tiểu luận chúng em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét
của giáo viên hướng dẫn Trương Minh Tuấn để bài viết được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Thực hiện: Nhóm 1 2
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Lạm phát
1.1. Khái niệm
Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông
tiền giấy, là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho
chúng bị mất giá. Biểu hiện của lạm phát là mức giá chung của các hàng hóa
dịch vụ tăng liên tục và đồng loạt.
1.2. Phân loại lạm phát
Người ta có thể phân loại lạm phát ra nhiều dạng khác nhau theo những tiêu
chí khác nhau.
1.2.1. Căn vào tốc độ lạm phát
Người ta chia lạm phát ra làm 3 loại:
Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát xảy ra với tốc độ gia tăng giá cả chậm,
chỉ cỡ mức một con sè hay dưới 10%/năm. Đây là loại lạm phát phổ biến.
Lạm phát phi mã: xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỷ lệ từ 2 đến 3 con sè
(20%,100%,200% ) một năm.
Siêu lạm phát: hiện tương cực hiếm chỉ xảy ra vào thời kỳ chiến tranh hay
chuyển đổi cơ chế kinh tế, tốc độ gia tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mă và
cùng không ổn định. Đă từng có những siêu lạm phát mà tốc độ mất giá của tiền
cũng như tăng giá hàng năm ở 8-10 chữ số không trong một năm.
1.2.2. Căn cứ vào nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát
Lạm phát cầu dư thừa tổng quát .
Lạm phát chi phí đẩy.
Lạm phát cơ cấu.
Lạm phát nhập khẩu.
Thực hiện: Nhóm 1 3
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
1.2.3. Căn cứ vào tính chủ động, bị động của chính phủ đối phó với lạm
phát
Lạm phát cân bằng và có thể dự đoán trước: là lạm phát mà toàn bộ giá cả
các hàng hoá dịch vụ đều tăng với chỉ số ổn định trong sự chờ đợi có tính mặc
nhiên, có thể dự báo được và mọi tinh toán thu nhập cũng tăng theo tương ứng.
Lạm phát không cân bằng và không dự báo trước được: là loại lạm phát mà
giá cả các hàng hoá dịch vụ tăng không đều nhau và nhà nước không dự báo
cũng như không chủ động điều tiết được. Đây là hiện tượng phổ biến nhất ở các
nước đang phát triển.
1.2.4. Căn cứ vào quá trình bộc lộ hiện hình lạm phát người ta phân biệt:
Lạm phát ngầm: là lạm phát đang ở giai đoạn ẩn náu, tiềm ẩn bị kiềm chế
về tốc độ tăng giá hoặc biểu hiện ở dạng giá cả không tăng nhưng sự khan hiếm
hàng hoá hoặc giảm chất lượng hàng hoá và dịch vụ cung cấp.
Lạm phát công khai: có sự biểu hiện tăng phổ biến giá cả hàng háo, dịch vụ
rõ rệt trên thị trường
1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
Chính phủ phát hành lượng tiền quá lớn để bù đắp bội chi ngân sách.
Chính phủ tăng chi tiêu đầu tư để cứu vãng khủng hoảng kinh tế.
Hệ thống tín dụng ngân hàng hoạt động kém hiệu quả.
Tâm lý bất ổn của người tiêu dùng …
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thì lạm phát được quy về là do “chi
phí đẩy” hoặc do “cầu kéo”.
1.4. Tác động của lạm phát:
Lạm phát (inflation) có ảnh hưởng nhất định nhất định đến sự phát triển kinh
tế - xã hội tùy theo mức độ của nó.
Nhìn chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh những
tác hại không đáng kể; còn lạm phát cao và siêu lạm phát gây ra những tác hại
nghiêm trọng đối với kinh tế và đời sống. Tác động của lạm phát còn tùy thuộc
Thực hiện: Nhóm 1 4
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
vào lạm phát đó có dự đoán trước được hay không, nghĩa là công chúng và các
thể chế có tiên tri được mức độ lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát là một
điều bất ngờ. Nếu như lạm phát hoàn toàn có thể dự đoán trước được thì lạm
phát không gây nên gánh nặng kinh tế lớn bởi người ta có thể có những giải
pháp để thích nghi với nó. Lạm phát không dự đoán trước được sẽ dẫn đến
những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên làm mất
tinh thần và sinh lực của nền kinh tế.
Tác động phân phối lại thu nhập và của cải
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những loại khác
nhau trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những
ngươi có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các loại tài sản
nói chung đều tăng lên, con giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những
người làm công ăn lương, những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt
hại.
Để tránh thiệt hại, một số nhà kinh tế đưa ra cách thức giải quyết đơn giản là
lãi suất cần được điều chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Ví dụ, lãi suất thực
là 3%, tỷ lệ tăng giá là 9%, thì lãi suất danh nghĩa là 12%. Tuy nhiên, một sự
điều chỉnh cho lãi suất phù hợp tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện được trong
điều lạm phát ở mức độ thấp.
Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm
Trong điều kiện nền kinh tế chưa dạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phải
thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu
thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản suất kinh doanh, kích thích sự tiêu
dùng của chính phủ và nhân dân.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm phát tăng
lên thì thất nghiệp giảm xuống và ngược lại khi thất nghiệp giảm xuống thì lạm
phát tăng lên. Nhà linh tế học A.W. Phillips đã đưa ra “Lý thuyết đánh đổi giữa
Thực hiện: Nhóm 1 5
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
lạm phát và việc làm”, theo đó một nước có thể mua một mức độ thất nghiệp
tháp hơn nếu sẵn sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn.
Các tác động khác
Trong điều kiện lạm phát cao và không dự đoán được, cơ cấu nền kinh tế dễ
bị mất cân đối vì khi đó các nhà kinh doanh thường hướng đầu tư vào những
khu vực hàng hóa có giá cả tăng lên cao, nhưng ngành sản suất có chu kỳ ngắn,
thời gian thu hồi vốn nhanh, hạn chế đầu tư vào những ngành sản suất có chu kỳ
dài, thời gian thu hồi vốn chậm vì có nguy cơ gặp phải nhiều rủi ro. Trong lĩnh
vực lưu thông, khi vật giá tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hóa
thường là hiện tượng phổ biến, gây nên mất cân đối giả tạo làm cho lưu thông
càng thêm rối loạn. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, lạm phát xảy ra
làm tăng tỷ giá hối đoái. Sự mất giá của tiền trong nước so với ngoại tệ tạo điều
kiện tăng cường tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi
cho hoạt động nhập khẩu. Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho hoạt động của
hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nguồn tiền trong xã hội bị sụt
giảm nhanh chóng,nhiều ngân hàng bị phá sản vì mất khả năng thanh toán, lam
phát phát triển nhanh, biểu giá thường xuyên thay đổi làm cho lượng thông tin
được bao hàm trong giá cả bị phá hủy, các tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều
theo thời gian, từ đó gây khó khăn cho các hoạt động đầu tư. Lạm phát gây thiệt
hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mòn giá trị thực của những khoản
công phí. Ngoài ra lạm phát cao kéo dài và không dự đoán trước được làm cho
nguồn thu ngân sách nhà nước bị giảm do sản xuất bị suy thoái. Tuy nhiên, lạm
phát cũng có tác động làm gia tăng số thuế nhà nước thu được trong những
trường hợp nhất định. Nếu hệ thống thuế tăng dần (thuế suất lũy tiến) thì tỷ lệ
lạm phát cao hơn sẽ đẩy người ta nhanh hơn sang nhóm phải đóng thuế cao hơn,
và như vậy chính phủ có thể thu được nhiều thuế hơn mà không phải thông qua
luật. Trong thời kỳ lạm phát giá cả hàng hóa – dịch vụ tăng lên một cách vững
chắc, bên cạnh đó tiền lương danh nghĩa cũng theo xu hướng tăng lên, vì vậy thu
Thực hiện: Nhóm 1 6
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
nhập thực tế của người lao động nói chung có thể vững hoặc tăng lên, hoặc giảm
đi chứ không phải bao giờ cũng suy giảm.
Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội
và nhà nước phải áp dụng những biện pháp thích hợp để
kiềm chế, kiểm soát lạm phát.
2. Tăng trưởng kinh tế
2.1. Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy
mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được
so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng
quy mô sản lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc
độ tăng trưởng là "cặp đôi" trong nội dung khái niệm tăng trưởng kinh tế. Hiện
nay, trên thế giới người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải của
xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm quốc
nội.
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của những
hàng
hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình (dù là
sản xuất ở trong nước hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định (thường là
một năm).
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ
hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó (thuộc
về người trong nước hay người nước ngoài) trong một thời gian nhất định
thường là một năm).
2.2. Vai trò của tăng trưởng kinh tế
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo
những dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong đó,
Thực hiện: Nhóm 1 7
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã
hội.
Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất
lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế
là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh
là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường khắc phục
sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng.
Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội
và
chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm
tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá phát
triển.
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp.
Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên
nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng
kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng trưởng
thực tế và tỷ lệ thất nghiệp ở nước phát triển đã được lượng hoá dưới tên gọi quy
luật Okum1 (hay quy luật 2,5% -1). Quy luật này xác định, nếu GNP thực tế
tăng 2,5% trong vòng một năm so với GNP tiềm năng của năm đó thì tỷ lệ thất
nghiệp giảm đi 1%.
Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng,
củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã
hội.
Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là điều
kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đang
phát triển.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh là mục tiêu thường xuyên của các
quốc gia, nhưng sẽ là không đúng nếu theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi
Thực hiện: Nhóm 1 8
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
giá. Thực tế cho thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội như mong muốn, đôi khi quá trình tăng trưởng mang tính hai
mặt. Chẳng hạn, tăng trưởng kinh tếquá mức có thể dẫn đến tình trạng nền kinh
tế "quá nóng", gây ra lạm phát, hoặc tăng trưởng kinh tế cao làm cho dân cư
giàu lên, nhưng đồng thời cũng có thể làm cho sự phân hoá giàu nghèo trong xã
hội tăng lên. Vì vậy, đòi hỏi mỗi quốc gia trong từng thời kỳ phải tìm ra những
biện pháp tích cực để đạt được sự tăng trưởng hợp lý, bền vững.
Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối
cao, ổn định trong thời gian tương đối dài (ít nhất từ 20 - 30 năm) và giải quyết
tốt vấn đề tiến bộ xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
Thực hiện: Nhóm 1 9
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu liên quan
1.1.Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
Về lý thuyết, lạm phát có thể tác động tiêu cực lẫn tích cực lên tăng trưởng
kinh tế: Theo Mundell (1965) và Tobin (1965), có mối tương quan tỉ lệ thuận
giữa lạm phát và tăng trưởng; hai trường phái Keynes và trường phái tiền tệ đều
cho rằng trong ngắn hạn, chính sách nới lỏng tiền tệ kích thích tăng trưởng,
đồng thời làm gia tăng lạm phát; đường cong Phillips nổi tiếng về sự đánh đổi
giữa mục tiêu lạm phát và thất nghiệp.
• Stagflation nghĩa là suy thoái và lạm phát, tình trạng nền kinh tế vừa có
những dấu hiệu của lạm phát, mà cơ bản nhất là giá cả leo thang, tiền mất
giá nhưng lại vừa có những biểu hiện của suy thoái như sản xuất đình trệ,
thất nghiệp gia tăng, lạm phát cao, tăng trưởng thấp.
• Lạm phát có thể tác động tiêu cực lên tăng trưởng như: dấu hiệu bất ổn
kinh tế vĩ mô; tăng sự không chắc chắn của các hoạt động đầu tư; lạm
phát làm thay đổi giá cả tương đối, làm méo mó quá trình phân bổ nguồn
lực; lạm phát còn được xem như là một loại thuế đánh vào nền kinh tế.
Giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tồn tại một quan hệ tỷ lệ ước chế lẫn
nhau. Lạm phát chỉ có thể ở một mức nhất định mới phù hợp cho tăng trưởng
kinh tế. Vì thế kiểm soát lạm phát là một trong nhiều mục tiêu quan trọng của
kinh tế vĩ mô.Về lý thuyết, nếu lạm phát ở mức có thể kiểm soát được thì nền
kinh tế có thể tránh được mọi hậu quả xấu. Nếu không sẽ xảy ra hậu quả như
sau:
Lạm phát cao sẽ kìm sự tăng trưởng do nó làm lệch lạc cơ cấu giá cả, kéo
theo tài nguyên nguồn lực không được phân bố hiệu quả, kết cụa là tăng trưởng
chậm.
Lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu tư dài hạn. Nếu các nhà đầu tư
không biết chắc chắn mức giá cả trong tương lai, kéo theo không biết lãi suất
Thực hiện: Nhóm 1 10
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
thực thì họ sẽ không dám đầu tư nhất là các dự án dài hạn. Lạm phát sẽ đẩy mức
lãi suất lên cao do các chủ nợ muốn có sự đảm bảo cho các rủi ro lớn. Lãi suất
cao kìm hãm đầu tư do đó kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.
Lạm phát cao gây khó khăn trong thu chi ngân sách của nhà nước.
Thực tế những nước đã trải qua lạm phát cho rằng không kiểm soát được
lạm phát là vấn đề đáng sợ nhất, toàn bộ hoạt động kinh tế sẽ bị méo mó biến
dạng nghiêm trọng, tâm lý xã hội phức tạp, lãng phí tiềm lực sản xuất. Mặt khác
khi rơi vào lạm phát cao đến khi kiểm soát được lạm phát sẽ làm cho nền kinh tế
chịu phí tổn lớn.
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế là sự biểu hiện tập trung
nhất về cân đối vĩ mô của nền kinh tế: cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, tiết
kiệm đầu tư, thu chi ngân sách và thanh toán quốc tế. Nếu một trong những cân
đối này bị vi phạm sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống cân đối vĩ mô của nền
kinh tế, đến mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát. Khi đó:
Một là, lạm phát gia tăng, hậu quả là đầu tư quá mức, hiệu quả thấp,lãng
phí vốn, giá cả tăng, nhu cần có khả năng thanh toán giảm sút, tốc độ sản xuất
chậm lại, thất nghiệp nảy sinh.
Hai là, lạm phát quá thấp khi đầu tư trong nước giảm sút, một phần vốn
đáng kể di chuyển ra nước ngoài hoặc đem về tích trữ, sản xuất và lưu thông
đình trệ, thất nghiệp tăng cao.
Cả hai trường hợp trên đều phản ánh tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh
tế.
1.2. Các nghiên cứu kiểm nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng
Nghiên cứu ban đầu (những năm 60) không tìm thấy mối quan hệ có ý
nghĩa thống kê nào. Giai đoạn sau khủng hoảng dầu hỏa 1973-1974, tìm thấy
quan hệ âm giữa lạm phát và tăng trưởng (Fischer, 1993; Bruno và Easterly,
1995; Barro,1998).
Thực hiện: Nhóm 1 11
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là phi tuyến tính. Lạm phát chỉ
tác động tiêu cực lên tăng trưởng khi đạt ngưỡng nhất định nào đó (threshold). Ở
mức dưới ngưỡng, lạm phát không nhất thiết tác động tiêu cực lên tăng trưởng,
thậm chí có thể tác động dương như lý thuyết Keynes đề cập.
Kết quả kiểm nghiệm ảnh hưởng ngưỡng của lạm phát:
• Nghiên cứu của Khan và Senhadji (2001): 140 nước, giai đoạn 1960-
1998. Các nước đang phát triển, ngưỡng lạm phát từ 11-12%/năm.
• Nghiên cứu của Li (2006): Số liệu cho 90 nước đang phát triển, giai
đoạn 1961-2004, ngưỡng là 14%/năm.
• Nghiên cứu của Christoffersen và Doyle (1998) tìm ra ngưỡng là
13% cho các nền kinh tế chuyển đổi.
Kết luận: ngưỡng tiêu cực của lạm phát là từ 11%-14% trở lên
Tương đồng với nghiên cứu trên, tác giả Tú Anh - Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) cũng cho rằng: giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối
quan hệ nhất định. Tuy nhiên, mức độ gắn kết như thế nào là vấn đề còn tranh
cãi. Một số nghiên cứu và thực nghiệm cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu
cực đến tăng trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Fischer là
người đầu tiên nghiên cứu vấn đề này đã kết luận, khi lạm phát tăng ở mức độ
thấp, mối quan hệ này có thể không tồn tại, hoặc mang tính đồng biến, và lạm
phát ở mức cao mối quan hệ này là nghịch biến. Bằng các nghiên cứu khác
nhau, các nhà kinh tế học đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đó nếu
lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tác động tiêu cực (tác động ngược chiều) đến tăng
trưởng. Theo Sarel, ngưỡng lạm phát là 8%, theo Shan và Senhadji, ngưỡng lạm
phát cho các nước đang phát triển là 11-12%, các nước công nghiệp khoảng 1-
3%. Gần đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan (2005) đã tập trung nghiên
cứu xác định mức lạm phát tối ưu. Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu
đối với các nước vùng Trung Đông và Trung Á là khoảng 3,2%.
Thực hiện: Nhóm 1 12
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
Học thuyết kinh tế vĩ mô đã khẳng định, nếu sản lượng thực tế vượt sản
lượng tiềm năng sẽ làm lạm phát gia tăng. Thực tế 2005-2006, lạm phát thế giới
gia tăng, ngoài nguyên nhân giá dầu còn do nền kinh tế nhiều nước phát triển
quá nóng.
Mặc dù nhiều quan điểm chưa thống nhất nhưng các nhà kinh tế đều thừa
nhận sự thành công về sự tăng trưởng nhanh nhất trong giai đoạn dài là việc tạo
ra môi trường kinh tế - tài chính ổn định, thuận lợi trong đó duy trì mức lạm phát
8% so với mức trung bình 18% ở các nước đang phát triển khác trong 30 năm
qua. Thực tế cho thấy trong mấy thập kỷ qua, nước nào có tỷ lệ lạm phát cao
hơn mức độ tăng trưởng thì nền kinh tế không phát triển được, điển hình là
Philippin. Ngược lại những nước như Hàn Quốc, Thái Lan, Singarpo,Malaysia
luôn kiểm soát được lạm phát và giữ tốc tăng trưởng cao hơn tốc độ lạm phát
nên đã phát triển nhanh chóng. Với các nước đang phát triển, do mục tiêu tăng
trưởng kinh tế là hàng đầu nên họ không duy trì mục tiêu lạm phát ở mức thấp
nhất.
2. So sánh và lựa chọn phương pháp nghiên cứu
Với thời gian và kiến thức còn hạn chế, cũng như do sự cần thiết phải
nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng ở Việt Nam, nên bài
viết này lựa chọn phương pháp nghiên cứu theo quan điểm của các nhà kinh tế
Việt nam.
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng của Việt Nam cũng không nằm
ngoài lý thuyết và kết quả kiểm định của thế giới. Lạm phát không có tác động
tiêu cực lên tăng trưởng khi ở mức lạm phát thấp. Khi gia tăng lạm phát sẽ làm
cho tốc độ tăng trưởng cao hơn nhưng đến một ngưỡng lạm phát cao nhất định
thì nó sẽ có tác động tiêu cực tới tăng trưởng.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, ở Việt Nam xuất hiện thêm quan điểm mới, đó
là “tỉ lệ lạm phát tốt nhất là không vượt quá tốc độ tăng trưởng”; đây là quan
điểm của ông Lê Đức Thuý, nguyên Thống đốc NHNN khi phát biểu quan điểm
Thực hiện: Nhóm 1 13
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
này trước Quốc hội: “Tôi cho rằng một nền kinh tế phát triển bền vững thì lạm
phát ở mức thấp hơn tăng trưởng 1-2%. Chẳng hạn GDP năm 2006 là 8% thì
lạm phát là 6-7%”. Quan điểm về lạm phát theo ông Lê Đức Thuý “Ngay ở nước
ta, trong điều kiện bình thường, không ít nhà khoa học đã đề nghị tôi đẩy lạm
phát lên cao hơn để thúc đẩy tăng trưởng. Thậm chí họ cho rằng, nếu Việt Nam
muốn tăng trưởng cao thì lạm phát hai chữ số là bình thường. Nhưng với tôi,
chừng nào còn được giao nhiệm vụ này, sẽ tiếp tục theo đuổi quan điểm giữ cho
lạm phát nằm trong tầm kiểm soát, và tốc độ lạm phát tốt nhất là không vượt quá
tốc độ tăng trưởng”.
Việc muốn tăng cung tiền, chấp nhận lạm phát là hệ quả trực tiếp của quan
điểm về lạm phát như: lạm phát, tăng cung tiền là tăng vốn đầu tư cho nền kinh
tế; có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng, chấp nhận lạm phát để tăng
trưởng; hai quan điểm này tuy khác nhau nhưng có tác động bổ sung cho nhau
và làm cho các nhà hoạch định chính sách tin rằng lạm phát có lợi hơn là có hại
cho nền kinh tế (đặc biệt tỉ lệ lạm phát dưới hai chữ số), lạm phát tăng cung tiền
để thêm vốn đầu tư từ ngân sách là giải pháp tốt nhất để đạt mức tăng trưởng
nhanh. Cùng quan điểm tăng cung tiền là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, ý kiến
của ông Vũ Ngọc Nhung cho rằng “Lạm phát tạo vốn lớn và cực rẻ cho phát
triển kinh tế, vốn phát hành tiền chỉ tốn chi phí in tiền nên cực rẻ”; hoặc “Lạm
phát giúp ngân sách vay ngân hàng nhiều hơn để chi cho sản xuất, tăng thu nhập
của người dân”.
Các nhà kinh tế cho rằng tỉ lệ lạm phát cao, tác động tiêu cực đến sản lượng
sản xuất của nền kinh tế thông qua các kênh như đầu tư, tín dụng, tiêu dùng;
người cho vay không có động lực để cho vay vì lãi suất cho vay thường âm
trong thời kỳ này và cho vay thời hạn càng dài càng bị lỗ, với chi phí huy động
vốn cao, đẩy lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp dù thiếu vốn cũng rất e ngại
vay vốn vì làm chi phí tăng cao, hệ quả là kênh tín dụng bị thu hẹp; những kết
quả thực tế theo công bố của NHNN cho thấy dư nợ tín dụng 10 tháng đầu năm
Thực hiện: Nhóm 1 14
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
2008 chỉ tăng hơn 19,6%, thấp hơn mức tăng 37,73% so với cùng kỳ năm 2007
(3); tỉ lệ lạm phát cao làm cho thu nhập hộ gia đình giảm, chỉ số lạm phát đến
tháng 10/2008 là 22,14% cũng có nghĩa với việc giảm hơn 22% thu nhập so với
cuối năm 2007. Mọi người phải tiết kiệm chi tiêu dẫn đến giảm tiêu dùng; các
nhà đầu tư tiềm năng sẽ giảm đầu tư vì độ rủi ro cao và hậu quả là làm giảm sản
lượng sản xuất của nền kinh tế. Như vậy, việc sử dụng lạm phát cao để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế thực chất đây là liệu pháp “sốc” với mong muốn tăng trưởng
nhanh để đạt được thành tích mong muốn, nhưng hậu quả tiêu cực gây ra cho
nền kinh tế và ảnh hưởng đến đời sống của dân cư, nhất là tầng lớp nghèo, thu
nhập thấp bị tác động nhiều nhất. Các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, đây là
giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng kém bền vững; hay còn gọi
đó là giải pháp tăng trưởng “bong bóng”. Vì vậy, trong thời gian qua, đã có
nhiều ý kiến cần thay đổi quan điểm về lạm phát như ông Lê Xuân Nghĩa và ông
Vũ Quang Việt để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững.
Lạm phát của Việt Nam gia tăng trong mấy năm gần đây, phải chăng cũng
có chịu ảnh hưởng bởi sự gia tăng sản lượng vượt mức tiềm năng? Theo đánh
giá của IMF (2006) về các nguyên nhân làm tăng lạm phát ở Việt Nam, bắt đầu
từ năm 2005, có dấu hiệu bởi sự gia tăng sản lượng vượt mức tiềm năng (những
năm trước đó mối quan hệ này là không nhất quán và không rõ nét). Một trong
những điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng một cách bền vững đó là sự ổn định
sức mua của đồng tiền; đây là một trong những nhiệm vụ luôn luôn đặt lên hàng
đầu ở tất cả các quốc gia trên thế giới được ghi vào Hiến pháp và Luật Ngân
hàng Trung ương (NHTƯ) của các nước, trong đó Luật NHNN Việt Nam đã ghi
rõ: “Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính
của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời
sống của nhân dân”.
Xu hướng các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất, đó là
Thực hiện: Nhóm 1 15
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
dựa trên cơ sở giá cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ biện luận cho giải pháp này là:
Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì tính dự báo được nâng cao.
Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây dựng được các phương án đầu tư hiệu
quả. Đối với người tiêu dùng thì chi tiêu yên tâm, họ không phải lo cân nhắc các
mặt hàng khác để thay thế do giá tăng. Tất cả điều đó đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thực chất. Hiện nay, các nước phát triển chọn mức lạm phát gần
2% là mức tối ưu cho tăng trưởng. Tuy nhiên, cũng phải hiểu rằng, lạm phát ổn
định chỉ là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện cần cho tăng
trưởng phải là vấn đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và
công nghệ kĩ thuật
Đối với Việt Nam mức lạm phát nào là tối ưu cho tăng trưởng kinh tế? Các
ngưỡng cùng với các phân tích nêu trên có thể cung cấp một mức chuẩn cho
Việt Nam, với một thực tế rằng, các doanh nghiệp Việt Nam và người tiêu dùng
không thích một mức lạm phát cao và không ổn định. Mức lạm phát chuẩn của
Việt Nam có thể gần với mức lạm phát của các nước Đông Nam Á. Nghiên cứu
bước đầu của IMF (2006) về mức độ lạm phát ở Việt Nam với các nước Đông
Nam Á cũng đã chỉ ra rằng, mức lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế ở các
nước vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam khoảng 3,6%. Một thực tế rằng,
các kết quả nghiên cứu về ngưỡng lạm phát tốt cho tăng trưởng đều không đưa
ra với mức tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu. Đây là câu hỏi quan trọng cho Việt
Nam, bởi vì lạm phát mục tiêu được đưa ra trong mối quan hệ với tăng trưởng
kinh tế.
Qua phân tích số liệu trong hơn 20 năm qua, dường như mối quan hệ giữa
lạm phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng tuân theo quy luật.
Thực hiện: Nhóm 1 16
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là mối quan hệ phi tuyến tính. Ở
mức lạm phát thấp (thường là 1 con số) thì lạm phát không có tác động tiêu cực
lên tăng trưởng. Thậm chí ở mức lạm phát thấp, gia tăng lạm phát thường gắn
liền với tăng trưởng cao hơn. Khi lạm phát đạt đến một ngưỡng cao nhất định,
thì lạm phát bắt đầu tác động tiêu cực lên tăng trưởng.
Ngưỡng đối với các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi là
dao động từ 11% đến 14%/năm.
Qua phân tích số liệu trong hơn 20 năm qua, dường như mối quan hệ giữa
lạm phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng tuân theo quy luật
chung. Việc Việt Nam thực thi chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng trong
những năm qua để thúc đẩy tăng trưởng có thể là phù hợp, nhưng hiện nay, khi
mà lạm phát đã đạt ngưỡng tiêu cực, việc thắt chặt tiền tệ và tài khóa là cần thiết
để kiềm chế lạm phát.
Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần chấp nhận đánh đổi giữa mục
tiêu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế, nghĩa là “hy sinh” mục tiêu tăng
trưởng cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm được
tăng trưởng ở mức hợp lý, khi có điều kiện thuận lợi phấn đấu đạt mức tăng
trưởng cao hơn. Đây là một quyết định khó khăn, nhưng lạm phát hiện tại đã đạt
mức độ tiêu cực và ưu tiên hàng đầu kiềm chế lạm phát là cần thiết.
Các cơ quan lập chính sách nên từ bỏ cách đặt mục tiêu là lạm phát thấp
hơn tăng trưởng vì mục tiêu này không có cơ sở khoa học về mặt lý thuyết cũng
như thực tiễn. Mục tiêu có thể được lựa chọn là lạm phát dưới ngưỡng tiêu cực
(từ 11% đến 14%/năm).
Thực hiện: Nhóm 1 17
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng GVHD: Trương Minh Tuấn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyên Văn Phúc (2008) Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh,
.
2. PGS. TS.Nguyễn Ái Đoàn (2007) Tạp chí Ngân hàng số 19 tháng
10/2007.
3. Báo cáo của NHNN - Tạp chí Ngân hàng số 21 tháng 11/2008.
4. Ngày 05/01/2009 Nguyễn Kim Anh - Trang tin điện tử Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
5. Giáo trình Nhập Môn Tài Chính – Tiền Tệ, Nhà xuất bản lao động xã hội
năm 2008.
6. Giáo trình môn kinh tế Vĩ Mô nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM.
7.
8. .php?
Thực hiện: Nhóm 1 18