Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của cá tra việt nam trên thị trường châu âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 97 trang )









LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian thực tập tại Hiệp Hội Chế biến và Xuất khẩu
Thủy sản Việt Nam(VASEP), được sự giúp đỡ chân thành và chỉ
bảo tận tình của các cô chú, anh chị trong trong hiệp hội đã giúp
em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình.
Trước tiên em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến toàn thể
thầy cô trong khoa kinh tế trường Đại Học Nha Trang đã truyền
đạt trang bị cho em kiến thức và những kinh nghiệp quí báu trong
thời gian em học tập ở trường.
Lời cảm ơn sâu sắc tiếp theo em xin gửi đến Cô PGS-TS
Nguyễn Thị Kim Anh đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo em trong
suốt thời gian thực tập vừa qua để em có thể hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp này.
Cuối cùng, em xin gửi lời cám ơn chân thành đến chú
Trương Đình Hòe, Tổng Thư Kí Hiệp Hội Chế biến và Xuất khẩu
Thủy sản VIỆT NAM(VASEP), chị Nam Phương cùng các cô chú,
anh chị đang công tác tại Hiệp hội đã giúp đỡ em, tạo điều kiện
cho em trong suốt quá trình thực tập tại Hiệp hội.

Nha Trang, tháng 06 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Liên Vy



MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH 4
1.1 KHÁI NIỆM CẠNH TRANH, NĂNG LỰC CẠNH TRANH, LỢI THẾ
CẠNH TRANH 5
1.1.1 Cạnh tranh: 5
1.1.2 Năng lực cạnh tranh 6
1.1.3 Lợi thế cạnh tranh 9
1.2. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 10
1.2.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng 10
1.3 MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH 12
1.3.1 Các lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế 12
1.3.1.1 Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith 13
1.3.1.2 Lý thuyết lợi thế tương đối của David Ricardo 13
1.3.1.3 Lý thuyết tỷ lệ các yếu tố của Hecksher-Ohlin 14
1.3.2 Mô hình kim cương của Michael Porter 14
1.3.2.1 Điều kiện các yếu tố đầu vào 15
1.3.2.2 Các điều kiện về cầu 19
1.3.2.3 Các ngành hỗ trợ và có liên quan 22
1.3.2.4 Chiến lược doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức và môi trường cạnh tranh 24
1.3.2.5 Vai trò của Chính phủ 26
1.3.2.6 Vai trò của cơ hội 28
1.4 VAI TRÒ CỦA CẠNH TRANH 29
1.4.1 Tác động tích cực 29
1.4.2. Tác động tiêu cực 30
CHƯƠNG II: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI THẾ CẠNH
TRANH CỦA CÁ TRA VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG EU 32
2.1 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÁ TRA VIỆT NAM TRÊN THỊ

TRƯỜNG EU 33
2.1.1 Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu cá tra Việt Nam vào EU 33
2.1.2 So sánh khả năng cung cấp cá tra của Việt Nam với các đối thủ vào thị
trường EU 40
2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của cá tra Việt Nam qua
mô hình kim cương của Michael Porter 41
2.2.1 Môi trường cạnh tranh và chiến lược doanh nghiệp 41
2.2.1.1 Môi trường cạnh tranh 41
2.2.1.2 Môi trường văn hóa-xã hội 42
2.2.1.3 Môi trường kinh tế 46
2.2.1.4 Chiến lược doanh nghiệp 54
2.2.2 Điều kiện các yếu tố đầu vào 57
2.2.2.1 Về mặt điều kiện tự nhiên 57
2.2.2.2 Về con giống 61
2.2.2.3 Về lực lượng lao động 63
2.2.2.4 Một số yếu tố cơ bản về kinh tế xã hội tác động đến việc nuôi cá tra ở
ĐBSCL 66
2.2.3 Công nghiệp chế biến 69
2.2.4 Điều kiện về cầu trong nước đối với mặt hàng cá tra 71
2.2.5 Chính sách của Chính phủ 72
2.3 Tổng hợp nhận định lợi thế cạnh tranh cạnh tranh của Việt Nam 74
2.3.1 Môi trường cạnh tranh, chiến lược doanh nghiệp 74
2.3.1.1 Điểm mạnh 74
2.3.1.2 Điểm yếu 74
2.3.2 Các yếu tố điều kiện đầu vào 75
2.3.2.1 Điểm mạnh 75
2.3.2.2 Điểm yếu 75
2.3.3 Ngành hỗ trợ liên quan 76
2.3.3.1 Điểm mạnh 76
2.3.3.2 Điểm yếu 76

2.3.4 Các điều kiện về cầu 76
2.3.5 Chính phủ 77
2.3.5.1 Điểm mạnh 77
2.3.5.2 Điểm yếu 77
2.3.6 Cơ hội 78
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO LỢI THẾ CẠNH
TRANH CỦA CÁ TRA VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG CHÂU ÂU 80
3.1 Giải pháp về chiến lược doanh nghiệp 81
3.2 Giải pháp về các yếu tố đầu vào 82
3.3 Ngành chế biến hỗ trợ 84
3.4 Giải pháp về điều kiện cầu trong nước 84
3.5 Giải pháp về chính sách của chính phủ 85
KẾT LUẬN 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tỷ trọng khối lượng và giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam trên thị
trường EU 34
Bảng 2.2 Bảng giá cá tra xuất khẩu sang EU giai đoạn 2003-2008 36
Bảng 2.3: Cơ cấu thị trường chính nhập khẩu cá tra ở khu vực EU trong giai
đoạn 2004-2008 37
Bảng 2.4: Sản lượng cá tra của một số nước sản xuất chính giai đoạn
2004-2008 40
Bảng 2.5: Khối lượng một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào
EU trong hai năm 2007-2008 42
Bảng 2.6 : Tỉ giá EUR/USD giai đoạn 2003-2008 48
Bảng 2.7: Giá trị nhập khẩu thủy sản EU từ các nước giai đoạn từ
2002-2007 51
Bảng 2.8 : Nhập khẩu thủy sản của EU theo loài giai đoạn 2002-2007 53
Bảng 2.9 : Năng suất nuôi cá tra trung bình qua các năm 2001-2008 55

Bảng 2.10: Hoạch toán kinh tế nghề nuôi cá tra giai đoạn 2006 - 2008 56
Bảng 2.11: Giá bình quân nguyên liệu của cá thịt trắng thế giới và cá tra Việt
Nam giai đoạn 2004-2008 56
Bảng 2.12: Số lượng cơ ương giống cá tra vùng ĐBSCL năm 2001-2008 61
Bảng 2.13: Số lượng giống sản xuất hằng năm ở vùng ĐBSCL 62
Bảng 2.14: Số lượng lao động nuôi cá tra của các tỉnh vùng ĐBSCL giai đoạn
1997-2007 64
Bảng 2.15 : Tỷ lệ thất nghiệp tại ĐBSCL giai đoạn 2001-2007 67
Bảng 2.16: Danh sách 20 doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra đứng đầu
Việt Nam năm 2007 70
Bảng 2.17: Nhu cầu nguyên liệu chế biến xuất khẩu giai đoạn 2003 – 2007 71

DANH MỤC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ

Hình 1.1: Hệ thống các yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh 15
Hình 2.1: Bản đồ đồng bằng sông Cửu Long 57
Đồ thị 2.1: Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu cá tra Việt Nam vào thị
trường EU 35
Đồ thị 2.2: Cơ cấu thị trường chính nhập khẩu cá tra ở khu vực EU trong giai
đoạn 2004-2008 38
Đồ thị 2.3: Nhập khẩu thủy sản EU theo loài 2002-2007 53

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. ĐBSCL : Đồng Bằng Sông Cửu Long
2. GT: Giá trị
3. KL: Khối lượng
4. OECD: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
5. Thuế CBPG: Thuế chống bán phá giá


1

LỜI MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam là một đất nước có tiềm năng rất lớn về mặt hàng thủy sản với
hệ thống sông ngòi ao hồ chằng chịt, điều kiện khí hậu thuận lợi. Đây là một
ngành hàng xuất khẩu mũi nhọn trong các ngành kinh tế chiến lược của đất
nước. Theo thống kê, thủy sản là ngành có kim ngạch xuất khẩu đạt 3,76 tỷ
USD đứng thứ 3 sau dầu thô và dệt may. Sản lượng thủy sản Việt Nam năm
2007 đạt 4.149 nghìn tấn, tăng 11,52% so với năm 2006. Nuôi trồng ngày
càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng sản lượng thủy sản (50,25%), mặt hàng cá
tra chiếm hơn 71,68% sản lượng nuôi trồng. Và trong năm 2007, Việt Nam đã
xuất khẩu được 386.870 tấn cá tra với giá trị 979 triệu USD. Chính vì thế có
thể nói việc xuất khẩu cá tra trong thời gian qua đã mang lại cho đất nước một
lượng ngoại tệ đáng kể, tạo điều kiện công ăn việc làm cho người dân. Tuy
nhiên, gần đây việc xuất khẩu cá tra của Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn,
giá cả không được ổn định, gây tác động xấu đến sản xuất và đời sống người
nông dân. Vì thế cần phải đánh giá được tầm quan trọng cũng như khả năng
cạnh tranh của mặt hàng cá tra để cải thiện tình trạng khó khăn hiện nay. Xác
định được các nhân tố ảnh hưởng tới lợi thế cạnh tranh cho cá tra của Việt
Nam sẽ là vũ khí cơ bản nhất quyết định khả năng tồn tại, đứng vững của
ngành cá này trên thương trường quốc tế nói chung và ở thị trường EU nói
riêng, nơi mà thị phần cá tra của Việt Nam chiếm gần 90%. Vì lẽ đó, em
mong muốn thực hiện đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh
của cá tra Việt Nam trên thị trường Châu Âu” nhằm xem xét cá nhân tố ảnh
huởng đến lợi thế cạnh tranh của mặt hàng này, và đề ra một số giải pháp
nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của cá tra Việt Nam.

2


2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài khóa luận “Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của cá
tra Việt Nam trên thị trường Châu Âu” có mục tiêu nghiên cứu như sau:
 Tổng hợp, phân tích các số liệu thống kê về tình hình xuất khẩu cá tra
qua thị trường EU và tình hình hiện trạng nuôi, chế biến xuất khẩu cá tra để
tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của mặt hàng này.
 Đề ra được một số giải pháp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của cá
tra Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài này là phương
pháp thống kê mô tả, đánh giá tổng hợp, phương pháp so sánh. Thông qua
những phương pháp này việc đánh giá lợi thế cạnh tranh của mặt hàng cá tra
của Việt Nam sẽ được thể hiện thông qua các con số, bảng số liệu, từ đó đem
lại kết quả đánh giá chính xác.
 Nguồn số liệu: Dựa vào số liệu đã được tổng hợp thống kê từ VASEP
và thông qua một số cơ quan tổ chức khác về mặt hàng cá tra của Việt Nam
và số liệu ở thị trường EU.
4. Phạm vi của đề tài
Nghiên cứu hoạt động xuất khẩu cá tra Việt Nam trên thị trường EU và
tình hình nuôi, chế biến xuất khẩu cá tra Việt Nam trong giai đoạn từ năm
2004-2008, trong đó đi sâu phân tích đánh giá những lợi thế cạnh tranh của cá
tra Việt Nam.
5. Ý nghĩa thực tế của đề tài
Việc phân tích hoạt động xuất khẩu cá tra Việt Nam trên thị trường EU sẽ
giúp đánh giá được khả năng và vị thế của cá tra Việt Nam trên thị trường
EU.

3


6. Kết cấu của đề tài
Nội dung và kết cấu của đề tài này ngoài lời mở đầu, kết luận bao gồm 3
chương như sau:
 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH.
 CHƯƠNG II: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI THẾ CẠNH
TRANH CỦA CÁ TRA VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG CHÂU ÂU.
 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO LỢI THẾ CẠNH
TRANH CỦA CÁ TRA TRÊN THỊ TRƯỜNG EU.
Do thời gian và kiến thức có hạn, việc đi sâu phân tích, đánh giá vấn đề sẽ
không sao tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự
góp ý của các thầy cô giáo và các bạn.















4







CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH










5

1.1 KHÁI NIỆM CẠNH TRANH, NĂNG LỰC CẠNH TRANH, LỢI
THẾ CẠNH TRANH
1.1.1 Cạnh tranh:
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Việc nghiên
cứu hiện tượng cạnh tranh đã có từ lâu và lý thuyết cạnh tranh cũng xuất hiện
từ rất sớm với các trường phái nổi tiếng như: lý thuyết cạnh tranh cổ điển, lý
thuyết cạnh tranh tân cổ điển và lý thuyết cạnh tranh hiện đại. Với các học
giả kinh tế nổi tiếng như: Adam Smith, John Stuart Mill, C.Mác, Ăngghen,
W.S.Jevos, Micheal Porter, J.Robinson Có rất nhiều cách định nghĩa khác
nhau về cạnh tranh nhưng ở đây chúng ta chỉ đề cập đến khái niệm cạnh tranh
dưới góc độ của một doanh nghiệp.

Theo từ điển kinh doanh của Anh, cạnh tranh được hiểu là: “sự ganh
đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng
một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
Còn theo Krugman (1994), cạnh tranh chỉ ít nhiều phù hợp ở cấp độ
doanh nghiệp vì ranh giới ở đây rất rõ ràng, nếu công ty không bù đắp nổi chi
phí thì không trước thì sau sẽ phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản. Trong khi
đó P.Samuelson cho rằng “Cạnh tranh là sự đối đầu giữa các doanh nghiệp
cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần”.
Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa về cạnh tranh và đã cố gắng
kết hợp cả các doanh nghiệp, ngành, và quốc gia: “Cạnh tranh là khả năng
của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và
thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Với những quan niệm trên, phạm trù cạnh tranh được hiểu là: quan hệ
kinh tế, ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ
6

thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm
lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị
trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá
trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích, còn đối với người sản xuất kinh doanh là
lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
1.1.2 Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là một trong những khái niệm chưa có sự thống
nhất. Theo lý thuyết thương mại truyền thống thì năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp/ngành/quốc gia được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản
xuất và năng suất. Và các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu dựa
trên mức chi phí thấp.
Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học cho rằng năng lực cạnh tranh là khả
năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể

cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp (Từ
điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB từ điển Bách Khoa Hà Nội, trang
349).
Khái niệm cạnh tranh được áp dụng với cả hai cấp độ vi mô và vĩ mô,
cấp vĩ mô bao gồm năng lực cạnh tranh của quốc gia và thậm chí của một
khu vực và cấp vi mô bao gồm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của
các ngành kinh doanh và của sản phẩm.
 Năng lực cạnh tranh quốc gia
Đối với một quốc gia, năng lực cạnh tranh là khả năng nâng cao mức
sống một cách nhanh và bền vững, tức là đạt được mức độ tăng trưởng kinh
tế cao và ổn định, được đo lường bằng mức độ thay đổi trong thu nhập bình
quân đầu người qua các năm. Theo cách tiếp cận này, trình độ và chất lượng
hoạt động của các doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng quyết định đến
năng lực cạnh tranh quốc gia.
7

 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp theo cách đơn giản nhất có thể
hiểu là “Khả năng nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận
được, vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy năng lực cạnh tranh được nâng
cao”. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng hãng đó bán được
hàng nhanh, nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh trên một thị trường cụ thể về
một loại hàng cụ thể. Quan điểm này có thể áp dụng đối với từng doanh
nghiệp, cũng như đối với một ngành công nghiệp của một quốc gia trong
cuộc cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.
Trong quản trị chiến lược, năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp
là khả năng của một doanh nghiệp đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ suất
lợi nhuận bình quân của ngành. Khái niệm này chỉ rõ bản chất của lợi thế
cạnh tranh là hướng tới mục tiêu lợi nhuận nhưng lại không giúp nhiều cho
việc phân tích các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh, đặc biệt là trong bối

cảnh cạnh tranh quốc tế. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp
(HLFIC) của OECD định nghĩa năng lực cạnh tranh là “Khả năng của doanh
nghiệp, các ngành, các quốc gia hoặc khu vực tạo ra thu nhập tương đối cao
hơn và mức độ sử dụng lao động cao hơn, trong khi vẫn đối mặt với cạnh
tranh quốc tế”. Đây là một cách định nghĩa đã kết hợp cả cấp độ doanh
nghiệp, ngành và cấp độ quốc gia.
 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của một sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ nào đó
trên thị trường trong nước hay quốc tế là sự thể hiện tính ưu việt hay tính hơn
hẳn của nó về cả định tính, định lượng với các chỉ tiêu như: Chất lượng sản
phẩm, thương hiệu, mức độ, vệ sinh công nghiệp hay vệ sinh thực phẩm, khối
lượng và sự ổn định chất lượng của sản phẩm; kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm,
môi trường thương mại, mức độ giao dịch và uy tín sản phẩm trên thị trường,
8

sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô và chính sách thương mại như thuế,
tỷ giá, tín dụng, đầu tư, mức độ bảo hộ,… và cuối cùng là chỉ tiêu về giá
thành, và giá cả sản xuất.
Cùng với quá trình tăng trưởng và phát triển của mỗi nền kinh tế thì
các quan hệ thương mại cũng phát triển, theo đó diễn ra sự mở rộng thị
trường trao đổi hàng hóa. Sự mở rộng trao đổi thương mại tác động ngược trở
lại sản xuất của mỗi nước theo cả hai chiều: Kích thích gia tăng khối lượng
sản phẩm một số hàng hóa được thị trường chấp nhận (được người mua trả
giá) và hạn chế sản xuất những hàng hóa mà thị trường không chấp nhận
(người mua không trả giá). Như vậy, mỗi sản phẩm do từng nhà sản xuất đưa
ra thị trường sẽ được người tiêu dùng phản ứng với các mức độ cao thấp khác
nhau. Sự phản ứng của người tiêu dùng thể hiện qua việc mua hay không mua
sản phẩm đó. Đây là biểu hiện tổng quát cuối cùng về sức cạnh tranh của sản
phẩm đó.
Nói cách khác, cạnh tranh giữa các sản phẩm trên một thị trường là quá

trình thể hiện khả năng hấp dẫn tiêu dùng của các sản phẩm đối với khách
hàng trên một thị trường cụ thể và trong một thời gian nhất định. Năng lực
cạnh tranh của sản phẩm có thể gắn với một doanh nghiệp, một quốc gia cụ
thể hoặc xét chung cho tất cả các quốc gia, các doanh nghiệp.
Đối với một doanh nghiệp, hoặc một ngành, một sản phẩm, năng lực cạnh
tranh gắn với mục tiêu duy trì sự tồn tại và thu được lợi nhuận trên thị trường
(nội địa và quốc tế), nó được thể hiện cụ thể bằng lợi thế cạnh tranh của sản
phẩm. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Một quốc gia hay nền kinh tế
có khả năng cạnh tranh tốt sẽ giúp cho các doanh nghiệp tạo dựng được năng
lực cạnh tranh tốt hơn trên thị trường thế giới. Nói cách khác, năng lực cạnh
tranh quốc gia là một nguồn hình thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
9

Khi các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nó sẽ góp phần
vào việc nâng cao thu nhập và tác động tích cực đến môi trường và do đó nó
góp phần vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
1.1.3 Lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh cũng là một thuật ngữ được nhắc đến khi bàn về cạnh
tranh. Lợi thế cạnh tranh là những gì làm cho doanh nghiệp khác biệt với đối
thủ cạnh tranh. Đó là những thế mạnh mà doanh nghiệp có hoặc doanh
nghiệp khai thác tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh thể hiện khả
năng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Như vậy, muốn nâng cao năng
lực cạnh tranh thì trước hết doanh nghiệp phải xác định lợi thế cạnh tranh của
mình.
Theo M.Porter, doanh nghiệp có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mình
dựa trên các lĩnh vực sau:
- Lợi thế về chi phí: Tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh
tranh. Các yếu tố như đất đai, vốn, lao động thường được xem là nguồn lực
để tạo lợi thế cạnh tranh.

- Lợi thế về sự khác biệt: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng
giá trị cho khách hàng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc nâng cao
tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế về sự khác biệt cho phép
doanh nghiệp định mức giá sản phẩm thậm chí cao hơn đối thủ nhưng vẫn
được thị trường chấp nhận.






10

1.2. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
Về mặt lý thuyết, để xác định khả năng cạnh tranh trên cơ sở các yếu tố
chủ quan, một số nghiên cứu gần đây đã đưa ra hai nhóm chỉ tiêu định tính và
nhóm chỉ tiêu định lượng.
1.2.1 Nhóm chỉ tiêu định tính
Bao gồm các chỉ tiêu liên quan đến chất lượng sản phẩm như kiểu dáng,
mẫu mã…
1.2.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng
Bao gồm ba chỉ tiêu chính là lợi thế so sánh biểu hiện (Revealed
Comparative Advantage-RCA), thị phần, mức giá. Cụ thể:
 Lợi thế so sánh biểu hiện (RCA)
Theo diễn đàn thương mại quốc tế ITC, lợi thế so sánh biểu hiện RCA
được đo bằng:
X
ij
/X
j

RCA

=

W
i
/W



Trong đó: Xij: kim ngạch xuất khẩu sản phẩm i của nước j
Xj : tổng kim ngạch xuất khẩu của nước j
Wi : là tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm i của thế giới
W: tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới
Nếu RCA <1 thì sản phẩm xem xét không có khả năng cạnh tranh trên
góc độ lợi thế so sánh
Nếu 1<RCA<2 sản phẩm có khả năng cạnh tranh thấp
Nếu RCA> 2,5 sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao
Hệ số này có ưu điểm là tính toán tương đối đơn giản, sử dụng ít số liệu
thống kê phức tạp, nhưng hạn chế là nó chỉ xác định được cho những sản
11

phẩm đã được bán ra trên thị trường thế giới, thậm chí muốn xác định chính
xác hơn lại phải có cả hệ thống số liệu cho nhiều năm. Điều đó là không thể
áp dụng đối với một số nước đi sau, nơi sản phẩm mới đưa vào thị trường
hoặc đang chuẩn bị chào hàng lần đầu.
 Thị phần
Thị phần là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà các doanh nghiệp của
quốc gia này đang chiếm lĩnh.
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm của quốc gia

Thị phần

=

Tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm toàn thế giới



Chỉ tiêu này nói lên mức độ lớn của thị trường và vai trò vị trí của quốc
gia. Khi dung lượng của thị trường đang lên mà phần thị trường của quốc gia
không thay đổi tức là thị trường đã nằm ngoài vòng kiểm soát hay một phẩn
của thị trường đã rơi vào đối thủ cạnh tranh cho nên các doanh nghiệp của
quốc gia cần phải xem xét lại chiến lược kinh doanh của mình để mở rộng thị
trường, tăng khối lượng sản phẩm trên thị trường hiện tại, có giải pháp thích
hợp lôi kéo các đối tượng tiêu dùng tương đối và đối tượng tiêu dùng thường
xuyên, lôi kéo khách hàng từ thị trường của đối thủ cạnh tranh với mình….
Giá cả
Giá cả cũng là một trong các chỉ tiêu định lượng để đánh giá năng lực
cạnh tranh. Trong cơ chế cạnh tranh trên thị trường thế giới hiện nay, giá cao
không đồng nghĩa với năng lực cạnh tranh thấp. Giá cao thể hiện sản phẩm
được người tiêu dùng ưa thích và họ sẵn sàng trả giá cao cho sản phẩm đó.
Chỉ số thường được sử dụng để phản ánh giá cả là chỉ số Irving Fisher.
Chỉ số này thường được sử dụng trong thống kê của các nước cộng đồng
Châu Âu. Chỉ số này tính toán khá phức tạp song phản ánh khá chính xác tổng
12

quan về giá, lượng của các mặt hàng. Hiệu quả xuất khẩu là cao hay thấp dưới
ảnh hưởng biến động của cả hai yếu tố giá xuất khẩu và lượng xuất khẩu.















n
i
ii
t
n
i
i
t
i
t
n
i
ii
n
i
i
t
i

Fisher
pq
pq
pq
pq
P
1
0
1
1
00
1
0

Trong đó: qo: lượng kì gốc; po: giá kì gốc; qt: lượng kì cuối; pt: giá kì
cuối
Chỉ số P càng lớn thì càng được lợi nhiều, chỉ số P càng nhỏ thì càng bị
thiệt từ xuất khẩu.
P>1- xuất khẩu mặt hàng này được lợi (có thể do giá tăng, lượng tăng )
P<1 – xuất khẩu mặt hàng này bị thiệt
P=1 – xuất khẩu mặt hàng này ổn định
Chỉ số giá tổng hợp này có thể cho thấy rõ có trường hợp lượng xuất
khẩu tăng mạnh, trị giá xuất khẩu tăng mạnh nhưng do giá giảm nên hiệu quả
xuất khẩu sẽ không cao. Ngược lại, có trường hợp lượng xuất khẩu giảm
nhưng giá trị xuất khẩu tăng do giá tăng mạnh nên vẫn có thể có hiệu quả
xuất khẩu.
1.3 MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH
1.3.1 Các lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế
Từ trước đến nay, đã có nhiều nỗ lực để giải thích cho sự thành công
trong cạnh tranh quốc tế của các ngành dưới cái nhìn của thương mại quốc tế.

Tuy các lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế không đề cập đến khái niệm
cạnh tranh và năng lực cạnh tranh nhưng khi sản phẩm đó được xuất khẩu ra
thị trường thế giới, thị phần của sản phẩm tăng lên chính là một bằng chứng
chứng tỏ sản phẩm đó có năng lực cạnh tranh cao hơn. Thông qua các nghiên
cứu của mình, các nhà kinh tế học cổ điển đã đưa ra một số lý thuyết về năng
lực cạnh tranh như sau:
13

1.3.1.1 Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Nhà kinh tế học Adam Smith đã đưa ra lý thuyết lợi thế tuyệt đối, theo
đó ở mỗi quốc gia đều có những nguồn lực sẵn có riêng của mình như: tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, con người, đất đai, công nghệ, vốn, truyền
thống trong kinh doanh …để tiến hành sản xuất những loại sản phẩm mà họ
có lợi thế tuyệt đối về một hoặc nhiều nguồn lực nào đó với chất lượng cao
và chi phí sản xuất thấp hơn, sau đó tiến hành trao đổi thì cả hai bên đều có
lợi. Thông qua quá trình này các nguồn lực sẽ được sử dụng có hiệu quả hơn
và tổng sản phẩm chung sẽ gia tăng. Nhưng lý thuyết này không lý giải được
hết quan hệ thương mại quốc tế vì giả sử trong điều kiện nhất định của một
quốc gia không có tài nguyên và các nguồn lực dồi dào như các nước khác,
nhưng vẫn có thương mại quốc tế. Chính sự phát triển nhanh chóng của
thương mại quốc tế và những hạn chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối đã ra đời
lý thuyết lợi thế so sánh (tương đối) để lý giải thực tế này.
1.3.1.2 Lý thuyết lợi thế tương đối của David Ricardo
Lý thuyết về lợi thế tương đối được nhà kinh tế học người Anh David
Ricardo đưa ra vào thế kỉ XVIII, trong đó ông khẳng định nếu giá trị sản xuất
của hai thứ hàng hóa ở hai nước tỏ ra khác nhau thì có khả năng hai nước đó
sẽ có lợi hơn nếu mỗi nước đi vào chuyên môn hóa sản xuất thứ hàng hóa mà
mình chiếm lợi thế về giá cả tương đối để sau đó nhập khẩu thứ hàng hóa kia.
Vì thế theo ông, trong quá trình tham gia thương mại quốc tế, các nước sẽ lựa
chọn để sản xuất những loại hàng hóa và dịch vụ có lợi nhất cho xuất khẩu và

cho nhập khẩu những loại hàng hóa và dịch vụ mà sản xuất trong nước bất lợi
hơn. Chính vì thế mà các nước sẽ đi vào chuyên môn hóa sản xuất và xuất
khẩu các loại hàng hóa và dịch vụ có lợi thế tương đối và nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ sản xuất ít lợi nhất.
14

Trong lý thuyết của Ricardo, thương mại giữa các nước được tiến hành
dựa trên sự khác biệt về năng suất giữa các nước. Ông cho rằng, sự khác biệt
này xuất phát từ sự khác biệt mà người ta chưa giải thích được về môi trường
hay là “khí hậu” của các nước, chúng tạo điều kiện thuận lợi cho một số
ngành sản xuất. Tuy vậy, cho dù David Ricardo đang đi đúng hướng nhưng
các lý thuyết tiếp theo lại thu hút sự quan tâm theo con đường khác.Và đã có
một cách giải thích khác thuyết phục hơn về lợi thế so sánh đó là lý thuyết tỷ
lệ các yếu tố của Hecksher-Ohlin.
1.3.1.3 Lý thuyết tỷ lệ các yếu tố của Hecksher-Ohlin
Mô hình Heckscher-Ohlin được xây dựng thay thế cho mô hình cơ bản
về lợi thế so sánh của Ricardo. Mặc dù nó phức tạp hơn và có khả năng dự
đoán chính xác hơn, nó vẫn có sự lý tưởng hóa. Đó là việc bỏ qua lý thuyết
giá trị lao động và việc gắn cơ chế giá tân cổ điển vào lý thuyết thương mại
quốc tế. Mô hình Hechscher-Ohlin lập luận rằng cơ cấu thương mại quốc tế
được quyết định bởi sự khác biệt giữa các yếu tố nguồn lực. Nó dự đoán rằng
một nước sẽ xuất khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều yếu tố nguồn lực mà
nước đó có thế mạnh, và nhập khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều yếu tố
nguồn lực mà nước đó khan hiếm.
1.3.2 Mô hình kim cương của Michael Porter
Trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”, Micheal Porter,
trường đại học Havard (Mỹ) đã đưa ra một mô hình có thể sử dụng để phân
tích xem tại sao một số quốc gia lại có khả năng cạnh tranh tốt hơn các quốc
gia khác và tại sao một số sản phẩm của một số nước lại có khả năng cạnh
tranh thành công hơn sản phẩm đó ở nước khác. Mô hình các nhân tố ảnh

hưởng đến lợi thế cạnh tranh được gọi là mô hình “Kim Cương” (Diamond)
được trình bày theo hình sau:

15


Hình 1.1: Hệ thống các yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh
1.3.2.1 Điều kiện các yếu tố đầu vào
Theo lý thuyết thương mại căn bản dựa trên các yếu tố đầu vào của sản
xuất. Theo lý thuyết này, các quốc gia sẽ có các nguồn lực về yếu tố đầu vào
khác nhau. Một quốc gia sẽ xuất khẩu những hàng hóa sử dụng nhiều các yếu
tố đầu vào mà quốc gia đó có sẵn.

Chiến lược
doanh nghiệp,
cơ cấu và môi
trường cạnh
tranh




Các ngành
h


tr

có liên


quan





Chính phủ






Các điều
kiện về cầu







hội




Điều kiện
các yếu tố
đầu vào



16

Tính sẵn có của những yếu tố đầu vào rõ ràng đóng vai trò quan trọng
trong lợi thế cạnh tranh của một nước, như trường hợp của một số nước có
chi phí nhân công thấp như Hồng Kông, Đài Loan, và Thái Lan gần đây đã có
tốc độ tăng trưởng sản xuất cao. Tuy nhiên, những yếu tố đầu vào có tác động
quan trọng nhất tới lợi thế cạnh tranh ở trong hầu hết các ngành, đặc biệt là
những ngành quan trọng với sự phát triển của nền kinh tế, không phải là
những yếu tố đầu vào tự nhiên mà là những yếu tố do mỗi quốc gia tạo ra
trong quá trình phát triển kinh tế của mình. Do đó, các yếu tố đầu vào không
quan trọng bằng tốc độ hình thành, phát triển và chuyên biệt hóa các yếu tố
đầu vào đó cho từng ngành cụ thể.
Để hiểu được vai trò khác nhau của các yếu tố đầu vào trong lợi thế
cạnh tranh, rất cần phải phân loại yếu tố đầu vào. Có hai phương thức phân
loại: một là phân loại giữa các yếu tố cơ bản và các yếu tố cao cấp. Các yếu
tố đầu vào cơ bản bao gồm tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý, nhân
công không có kỹ năng, hoặc kỹ năng trung bình hoặc vốn vay nợ. Các yếu tố
đầu vào cao cấp bao gồm cơ sở hạ tầng viễn thông kỹ thuật số hiện đại, lực
lượng lao động có trình độ cao như các kỹ sư cơ khí, kỹ sư tin học và các học
viện nghiên cứu, các trường đại học trong các lĩnh vực phát triển trình độ cao.
Hầu hết các yếu tố đều phải được phát triển qua thời gian, được đầu tư và
mức độ, phạm vi đầu tư cũng rất khác nhau. Sự phân biệt giữa yếu tố đầu vào
cơ bản và yếu tố đầu vào cao cấp rõ ràng không chỉ thể hiện mức độ khác
nhau mà còn để phân biệt. Các yếu tố đầu vào cơ bản có sẵn một cách bị
động, hoặc quá trình tạo ra các yếu tố đầu vào cơ bản cũng không đòi hỏi đầu
tư lớn, Theo đó, các yếu tố này hoặc không có ý nghĩa quan trọng đối với lợi
thế cạnh tranh quốc gia, hoặc những lợi thế do các yếu tố này đem lại không
bền vững.

17

Tầm quan trọng của các yếu tố đầu vào cơ bản bị giảm nhẹ do sự cần thiết
của các yếu tố này bị suy giảm, hoặc do khả năng có sẵn các yếu tố này tăng
lên, hoặc các hãng nước ngoài cũng có thể tiếp cận các yếu tố đầu vào cơ bản
này thông qua các hoạt động đầu tư ở nước ngoài hoặc gia công trên thị trường
quốc tế. Cũng chính những lý do này khiến cho lợi nhuận thu về từ các yếu tố
đầu vào cơ bản rất thấp, cho dù vị trí địa lý của các yếu tố này ở đâu. Một công
nhân không có tay nghề sẽ rất dễ phải chịu nhiều áp lực về lương, cho dù công
nhân đó là người Mỹ hay Đức. Yếu tố đầu vào cơ bản có thể giải thích một
phần hoạt động thương mại bên trong các doanh nghiệp, thể hiện địa điểm
triển khai các hoạt động nhất định ở các quốc gia khác nhau nhằm giành được
chi phí yếu tố đầu vào thấp. Tuy nhiên, không thể sử dụng yếu tố đầu vào cơ
bản để giải thích vị trí của nước sở tại trong hầu hết các ngành.
Các yếu tố đầu vào cơ bản vẫn đóng vai trò quan trọng trong các ngành
khai khoáng hoặc nông nghiệp (như ngành khai thác gỗ và đậu tương), cũng
như trong những ngành mà yêu cầu về kỹ năng, về công nghệ không cao,
công nghệ được áp dụng phổ biến.
Các yếu tố đầu vào cao cấp hiện đang là những yếu tố quan trọng nhất
cho lợi thế cạnh tranh. Cần phải có các yếu tố đầu vào cao cấp để đạt được lợi
thế cạnh tranh ở cấp độ cao hơn, ví dụ như sản phẩm chuyên biệt hoặc các
công nghệ sản xuất độc quyền. Các yếu tố này càng ngày càng trở nên khan
hiếm hơn vì nếu muốn phát triển các yếu tố này, cần phải có các khoản đầu tư
lớn và bền vững về con người cũng như vốn vật chất. Những cơ sở nghiên
cứu có thể tạo ra yếu tố đầu vào cao cấp (ví dụ như các chương trình đào tạo)
thì chính bản thân những cơ sở này cũng đòi hỏi phải có các nguồn lực trình
độ cao. Cũng rất khó có thể giành được các yếu tố đầu vào cao cấp trên thị
trường thế giới hay qua các công ty con ở nước ngoài. Các yếu tố đầu vào cao
cấp gắn liền với thiết kế và phát triển sản phẩm, qui trình của hãng cũng như
18


năng lực đổi mới của hãng – một yếu tố tốt nhất nên được thực hiện ở nước
sở tại và phải gắn chặt với chiến lược chung của toàn doanh nghiệp.
Phương thức phân biệt thức hai là dựa trên tính chất chuyên biệt của các
yếu tố này. Những yếu tố đầu vào phổ biến bao gồm hệ thống đường cao tốc,
hệ thống cung cấp, vốn vay nợ, hoặc lực lượng nhân công được đào tạo ở trình
độ cao có động cơ làm việc tốt. Các yếu tố này có thể được sử dụng, khai thác
trong rất nhiều ngành khác nhau. Các yếu tố đầu vào chuyên môn hóa bao gồm
lực lượng lao động có trình độ, cơ sở hạ tầng có đặc tính chuyên biệt, các cơ sở
tri thức trong các ngành nhất định và các yếu tố khác chỉ có thể sử dụng trong
một số ít hoặc chỉ trong một ngành mà thôi. Các yếu tố đầu vào càng phát triển
thì càng có tính chuyên môn hoá cao, mặc dù không phải lúc nào cũng vậy. Ví
dụ, các nhà máy lập trình máy tính trình độ cao là một yếu tố đầu vào phát
triển song lại có thể được khai thác ở rất nhiều ngành.
Các yếu tố đầu vào chuyên môn hóa đem lại cơ sở quyết định và bền
vững cho lợi thế cạnh tranh hơn là các yếu tố đầu vào phổ biến. Các yếu tố
đầu vào phổ biến chỉ phục vụ cho các loại lợi thế ban đầu. Những yếu tố này
thường có ở rất nhiều nước và có xu hướng dễ dàng bị vô hiệu quá, bị hóa
giải hoặc có thể có được thông qua hệ thống doanh nghiệp toàn cầu. Các hoạt
động phụ thuộc vào các yếu tố yếu đầu vào phổ biến (như các hoạt động lắp
ráp cần nhiều nhân công) có thể được thực hiện ở một nơi cách xa nước sở
tại.
Lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất và bền vững nhất có được khi một
nước sở hữu được các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình cạnh tranh trong
một ngành vừa phát triển vừa chuyên môn hóa. Khả năng sẵn có cũng như
chất lượng của các yếu tố đầu vào cao cấp và chuyên môn hóa sẽ quyết định
mức độ tinh vi của lợi thế cạnh tranh có thể có được cũng như tốc độ nâng
cấp lợi thế cạnh tranh này. Để duy trì được lợi thế cạnh tranh quốc tế, các

×