Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Tiểu luận môn Internet và ELearning trình bày chi tiết về các trình duyệt Web phổ biến hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.65 KB, 60 trang )

ĐẠI HỌC TRÀ VINH - CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TVU - TOPICA
Bài tập nhóm ICT101 – Nhập môn Internet và E-Learning
Đề tài:
Anh/Chị và nhóm của mình hãy trình bày chi tiết về các trình duyệt
Web phổ biến hiện nay? Nhận xét, đánh giá về thị phần sử dụng của
các trình duyệt này trên thế giới và tại Việt Nam.
Lớp KKTV1E – Nhóm 1
Tháng 7/2013
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Mục lục:
Các trình duyệt Web phổ biến hiện nay: 4
Internet Explorer 4
Lịch sử phát triển: 4
Tính năng: 10
Ưu điểm và nhược điểm: 12
Firefox 17
a.Lịch sử phát triển: 18
Tính năng: 20
Ưu điểm và nhược điểm: 22
Google Chorme 23
a.Lịch sử phát triển: 23
Tính năng: 25
Ưu điểm và nhược điểm: 30
Opera 30
a.Lịch sử phát triển: 31
Tính năng: 34
Ưu điểm và nhược điểm: 38
Safari 39
a.Lịch sử phát triển 39
Tính năng 43
Ưu điểm và nhược điểm: 44


Netscape Navigator 46
Trang 2
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
a.Lịch sử phát triển: 46
Tính năng: 49
Ưu điểm và nhược điểm: 50
Thị phần sử dụng của các trình duyệt Web trên thế giới và tại Việt Nam 52
1.Thị phần sử dụng của các trình duyệt Web trên thế giới: 52
a.Theo thống kê từ Net Applications: 52
Theo thống kê từ StatCounter: 53
Thị phần sử dụng của các trình duyệt Web tại Việt Nam: 55
a.Theo thống kê từ Net Applications: 55
Theo thống kê từ StatCounter: 57
Theo thống kê từ Place.vn 59
Danh mục hình:
Hình 1 - Biểu tượng trình duyệt web Internet Explorer 4
Hình 2 - Biểu tượng trình duyệt web Firefox 18
Hình 3 - Cặp đôi Dave Hyatt và Blake Ross 18
Hình 4 - Các biểu tượng của Firefox 19
Hình 5 - Panda lông đỏ 20
Hình 6 - Biểu tượng trình duyệt web Google Chrome 23
Hình 7 - Biểu tượng trình duyệt web Opera 31
Hình 8 - Biểu tượng trình duyệt web Safari 39
Hình 9 - Giao diện Safari Top Sites 42
Hình 10 - Biểu tượng trình duyệt web Netscape Navigator 46
Trang 3
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Các trình duyệt Web phổ biến hiện nay:
Internet Explorer
Lịch sử phát triển:

Windows Internet Explorer (trước đây là Microsoft Internet Explorer; viết tắt là IE),
là một dòng trình duyệt web giao diện đồ họa do
Microsoft phát triển và là một thành phần của các hệ điều
hành Microsoft Windows kể từ năm 1995. Đây là trình
duyệt web có nhiều người sử dụng nhất từ năm 1999, đạt
tới đỉnh cao là khoảng 95% thị phần trong năm 2002 và
2003 với IE5 và IE6. Kể từ đó thị phần của trình duyệt
này đã từ từ giảm xuống với sự cạnh tranh đổi mới từ các
trình duyệt web khác, với Mozilla Firefox là đối thủ đáng
kể. Microsoft đã chi hơn 100 triệu đô la Mỹ mỗi năm vào
IE vào cuối thập niên 1990, với hơn 1000 người tham gia phát triển vào năm 1999.
Phiên bản phát hành mới nhất là 10.0, là một phần của hệ điều hành Windows 8 và
Windows Sever 2012. Hiện nay cũng có một phiên bản miễn phí cho hệ điều hành
Windows 7 Service Pack 1.
Internet Explorer được phát hành lần đầu tiên với vai trò là một gói bổ sung Plus! for
Windows 95 vào năm 1995. Các phiên bản sau đó cho phép tải về miễn phí, hoặc nằm
trong các bản service pack và kèm trong các bản phát hành dịch vụ OEM của Windows
95 và các phiên bản Windows sau đó.
Các phiên bản khác có mặt từ cuối thập niên 1990 bao gồm một phiên bản OEM nhúng có
tên gọi Internet Explorer for Windows CE (IE CE) có trong các nền tảng trên WinCE và
hiện dựa trên IE6. Internet Explorer dành cho Pocket PC, sau đó được đổi tên thành
Internet Explorer Mobile dành cho Windows Mobile cũng đã được phát triển, và vẫn tiếp
tục phát triển cùng với các phiên bản dành cho máy tính để bàn với nhiều chức năng hơn.
Trang 4
Hình 1 - Biểu tượng trình duyệt web
Internet Explorer
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Dự án Internet Explorer được bắt đầu vào mùa hè năm 1994 bởi Thomas Reardon và sau
đó do Benjamin Slivka làm trưởng nhóm, lấy ý tưởng mã nguồn từ Spyglass, Inc. Mosaic,
một trình duyệt web thương mại có mặt từ sớm với hình thức gắn liền với trình duyệt tiên

phong Mosaic của NCSA. Vào cuối năm 1994, Microsoft đã xin được phép từ Spyglass
Mosaic với sự hỗ trợ chi phí hàng quý cùng với một số phần trăm trong lợi nhuận thu
được từ các sản phẩm không phải Windows của Microsoft để đổi lấy phần mềm. Mặc dù
có tên tương tự như Mosaic của NCSA, Spyglass Mosaic dùng không nhiều mã nguồn
của NCSA Mosaic.
Internet Explorer 1:
Internet Explorer 1 ra mắt vào tháng 8 năm 1995. Nó là phiên bản chỉnh sửa của Spyglass
Mosaic mà Microsoft đã có phép, giống như nhiều công ty khác bắt đầu việc phát triển
trình duyệt cho riêng mình, từ Spyglass Inc. Nó đi kèm với Microsoft Plus! for Windows
95 và bản phát hành OEM của Windows 95. Phiên bản này được cài đặt thành một phần
của Internet Jumpstart Kit trong Plus!. Nhóm Internet Explorer bắt đầu khoảng sáu người
trong giai đoạn phát triển đầu tiên. Internet Explorer 1.5 được phát hành vài tháng sau đó
dành cho Windows NT và bổ sung tính năng hỗ trợ hiển thị bảng biểu cơ bản. Tuy nhiên,
với việc đưa kèm miễn phí nó vào hệ điều hành, họ không phải trả tiền bản quyền cho
Spyglass Inc., dẫn đến kiện cáo làm tiêu tốn hàng triệu đô la Mỹ.
Internet Explorer 2:
Internet Explorer 2 được phát hành dành cho Windows 95, Windows NT 3.5, và NT 4.0
vào tháng 11 năm 1995 (sau bản 2.0 beta vào tháng 10). Nó hỗ trợ SSL, cookie, VRML,
RSA, và nhóm tin Internet. Phiên bản 2 cũng là bản phát hành đầu tiên dành cho
Windows 3.1 và Macintosh System 7.0.1 (PPC hay 68k), mặc dù phiên bản Mac không
được phát hành cho đến tháng 1 năm 1996 dành cho PPC, và tháng 4 dành cho 68k. Phiên
bản 2.1 dành cho Mac ra mắt vào tháng 8 năm 1996, mặc dù vào thời điểm đó Windows
đã lên đến phiên bản 3.0. Phiên bản 2 được kèm trong Windows 95 OSR 1 và Internet
Starter Kit for Windows 95 của Microsoft vào đầu năm 1996. Phần mềm phát hành với 12
ngôn ngữ trong đó có tiếng Anh nhưng nó mở rộng ra đến 24, 20, và 9 lần lượt cho các
Trang 5
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
phiên bản dành cho Win 95, Win 3.1 và Mac vào tháng 4 năm 1996. Bản 2.0i hỗ trợ bộ ký
tự byte kép.
Internet Explorer 3:

Internet Explorer 3, phát hành vào tháng 8 năm 1996, và tiếp tục nổi tiếng hơn người tiền
nhiệm. Nó được phát triển mà không dùng mã nguồn Spyglass, mặc dù vẫn ghi công cho
"công nghệ" Spyglass trong tài liệu của chương trình. Internet Explorer 3 là trình duyệt
lớn đầu tiên có hỗ trợ CSS, mặc dù còn hạn chế. Được phát hành vào ngày 13 tháng 8
năm 1996, nó cũng cho ra mắt tính năng hỗ trợ ActiveX controls, Java applet, đa phương
tiện nhúng, và hệ thống PICS dành cho nội dung siêu dữ liệu (metadata). Phiên bản 3
cũng được đóng gói chung với Internet Mail and News, NetMeeting, và phiên bản đầu
tiên của Windows Address Book, và nó cũng kèm trong Windows 95 OSR 2. Phiên bản 3
đã chứng tỏ mình là phiên bản nổi tiếng hơn của Internet Explorer, nhờ sự chăm chút kỹ
lưỡng cho nó. Trong nhiều tháng sau khi ra mắt, một số lỗ hổng bảo mật và riêng tư được
các nhà nghiên cứu và hacker tìm thấy. Phiên bản này của Internet Explorer là phiên bản
đầu tiên có logo "chữ e màu xanh". Nhóm Internet Explorer bao gồm 100 người trong
suốt quá trình 3 tháng phát triển. Lỗ hổng bảo mật IE lớn đầu tiên, Princeton Word Macro
Virus Loophole, được khám phá vào ngày 22 tháng 8 năm 1996 trong IE3. Tính năng
tương thích ngược xử lý bằng cách cho phép những người nào nâng cấp lên IE3 vẫn có
thể sử dụng IE trước đó, vì quá trình cài đặt đã chuyển phiên bản trước vào thư mục riêng
rẽ.
Internet Explorer 4:
Internet Explorer 4, phát hành vào tháng 9 năm 1997 đào sâu hơn mức độ tích hợp giữa
trình duyệt web và hệ điều hành phía dưới. Việc cài đặt phiên bản 4 trên máy Windows
95 và Windows NT 4 và chọn Windows Desktop Update có thể dẫn đến việc Windows
Explorer truyền thống bị thay bằng một phiên bản trông giao diện như trình duyệt web,
cũng như màn hình nền Windows cũng trở thành web được thông qua Active Desktop.
Tuy nhiên, sự tích hợp với Windows là chủ đề của rất nhiều những chỉ trích về đóng gói.
Tùy chọn này không còn tồn tại với các bản cài đặt dành cho các phiên bản sau của
Trang 6
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Internet Explorer nhưng vẫn không bỏ ra khỏi hệ thống được nếu đã cài đặt rồi. Internet
Explorer 4 ra mắt sự hỗ trợ Group Policy, cho phép các công ty cấu hình và khóa nhiều
chức năng cấu hình của trình duyệt. Internet Mail and News được thay bằng Outlook

Express, và Microsoft Chat và một phiên bản NetMeeting cải tiến cũng được đính kèm.
Phiên bản này cũng kèm trong Windows 98. Các tính năng mới được thêm vào cho phép
người dùng lưu và truy xuất các nội dung đăng trong các mẫu bình luận mà đến nay vẫn
không được sử dụng. Internet Explorer 4.5 có thêm các tính năng mới như mã hóa 128-bit
dễ dàng hơn. Nó cũng có sự phát triển vượt bậc về độ ổn định so với các phiên bản trước,
đặc biệt là phiên bản 68k hoàn toàn không bị treo.
Internet Explorer 5:
Internet Explorer 5, phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 1999, và sau đó được kèm trong
Windows 98 Second Edition và đóng gói chung với Office 2000, là một phiên bản nổi bật
khác có hỗ trợ văn bản hai hướng, ký tự ruby, XML, XSLT và khả năng lưu trang web
dưới định dạng MHTML. IE5 được đóng gói với Outlook Express 5. Ngoài ra, với việc
phát hành Internet Explorer 5.0, Microsoft cũng phát hành phiên bản XMLHttpRequest
đầu tiên, khai sinh ra Ajax (mặc dù thuật ngữ "Ajax" vẫn không xuất hiện cho đến vài
năm sau). Nó là phiên bản cuối cùng ở dạng 16-bit. Internet Explorer 5.01, một phiên bản
sửa lỗi, được phát hành vào tháng 12 năm 1999. Windows 2000 có phiên bản này.
Internet Explorer 5.5 tiếp nối vào tháng 7 năm 2000, tăng cường khả năng xem thử trước
khi in, hỗ trợ chuẩn CSS và HTML, và API cho lập trình viên; phiên bản này đi cùng với
Windows Me. Phiên bản 5.5 cũng hỗ trợ mã hóa 128-bit. Tuy nhiên, phiên bản 5 là phiên
bản cuối cùng dành cho Mac và UNIX. Phiên bản 5.5 là phiên bản cuối cùng có Chế độ
Tương thích, cho phép Internet Explorer 4 có thể chạy song song với 5.x. Nhóm IE lúc
nào đã lên đến hơn 1000 người vào năm 1999, tiêu tốn 100 triệu USD mỗi năm.
Internet Explorer 6:
Internet Explorer 6 phát hành vào ngày 27 tháng 8 năm 2001, một vài tháng trước khi
Windows XP ra mắt. Phiên bản này bao gồm cải tiến DHTML, các khung chứa nội dung,
và hỗ trợ một phần CSS cấp 1, DOM cấp 1 và SMIL 2.0. Bộ máy MSXML cũng được
Trang 7
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
cập nhật lên phiên bản 3.0. Các tính năng mới khác bao gồm một phiên bản mới của
Internet Explorer Administration Kit (IEAK), thanh Trình diễn, tích hợp Windows
Messenger, thu thập lỗi, tự thay đổi kích thước hình ảnh, P3P, và trải nghiệm giao diện

mới giống như phong cách hình ảnh Luna của Windows XP, khi dùng trong Windows
XP. Internet Explorer 6.0 SP1 có thêm những cải tiến bảo mật và phát hành cùng lúc với
phiên bản vá XP SP1. Vào năm 2002, giao thức Gopher đã bị tắt và không còn được hỗ
trợ trong Internet Explorer 7. Internet Explorer 6.0 SV1 phát hành vào ngày 6 tháng 8
năm 2004 dành cho Windows XP SP2 và đưa nhiều cải tiến bảo mật và các nút có màu
mới trên giao diện. IE6 đã cập nhật biểu trưng "chữ e màu xanh" sang màu xanh nhạt hơn
và có hình dáng 3 chiều hơn.
Internet Explorer 7:
Internet Explorer 7 phát hành vào ngày 18 tháng 10 năm 2006. Nó gồm các sửa lỗi, cải
tiến hỗ trợ các tiêu chuẩn web, duyệt theo thẻ với tính năng xem trước và quản lý thẻ, một
hộp tìm kiếm tích hợp nhiều bộ máy, bộ đọc mẩu tin mạng, hỗ trợ Tên miền quốc tế hóa
(IDN), và bộ lọc chống lừa đảo. Với IE7, Internet Explorer đã được tách ra khỏi Windows
Shell - không như các phiên bản khác, Internet Explorer ActiveX control không còn đặt
trên tiến trình của Windows Explorer, mà chạy trên một tính trình Internet Explorer riêng
biệt. Nó được kèm trong Windows Vista và Windows Server 2008, và có thể tải về cho
Windows XP Service Pack 2 trở về sau, và Windows Server 2003 Service Pack 1 trở về
sau. Bản phát hành nguyên thủy của Internet Explorer 7 đòi hỏi máy tính phải vượt qua
quy trình kiểm tra Windows Genuine Advantage trước khi cài đặt, nhưng vào ngày 5
tháng 10 năm 2007, Microsoft đã bỏ yêu cầu này. Theo như một số thống kê cho thấy,
đến giữa năm 2008, Internet Explorer 7 đã vượt qua Internet Explorer 6 về số người sử
dụng.
Internet Explorer 8:
Internet Explorer 8 phát hành vào ngày 19 tháng 3 năm 2009. Nó đã được phát triển trễ
nhất là từ tháng 8 năm 2007. Vào ngày 5 tháng 3 năm 2008, bản beta công cộng đầu tiên
(Beta 1) được phát hành cho công chúng. Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008, bản beta công
Trang 8
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
cộng thứ hai (Beta 2) được phát hành. Nó hỗ trợ Windows XP SP2 và SP3, Windows
Server 2003 SP2, Windows Vista và Windows Server 2008 trên cả kiến trúc 32-bit lẫn
64-bit. Internet Explorer 8 (IE8) RC1 được phát hành vào ngày 26 tháng 1 năm 2009. Bảo

mật, dễ dùng, và những cải tiến về RSS, CSS, và hỗ trợ Ajax là những ưu tiên của
Microsoft dành cho IE8. Nó tương thích chặt hơn với các tiêu chuẩn web, gồm có tương
thích đầy đủ với Cascading Style Sheets 2.1. Tất cả các thay đổi này cho phép Internet
Explorer 8 vượt qua kiểm tra Acid2. Tuy nhiên, để ngăn ngừa các vấn đề về tương thích,
IE8 cũng kèm cả khả năng hiển thị kiểu IE7. Các trang không muốn chuyển đổi giao diện
theo IE8 có thể tắt sự thay đổi này bằng cách thêm một thẻ vào phần HEAD của trang
web. IE8 cũng kèm thêm nhiều cải tiến đối với JavaScript cũng như tăng cường hiệu
năng, mặc dù nó vẫn chưa vượt qua được kiểm tra Acid3, với phiên bản 8.0 RC1 ghi được
20/100 điểm. Nó bao gồm sự hỗ trợ Accelerators - cho phép hỗ trợ ứng dụng web được
kích hoạt mà không cần gọi tường minh - và WebSlices - cho phép các thành phần trang
được đăng ký và theo dõi từ một Favorites Bar có sẵn. Các tính năng khác gồm có tính
năng duyệt riêng tư InPrivate, và bộ lọc lừa đảo SmartScreen.
Internet Explorer 9:
Internet Explorer 9 (viết tắt IE9) là phiên bản hiện tại của trình duyệt web Internet
Explorer của hãng Microsoft. Nó được phát hành chính thức vào ngày 14 tháng 3 năm
2011. Internet Explorer 9 hỗ trợ một vài đặc điểm CSS 3, hỗ trợ nhúng ICC v2 hoặc hỗ
trợ cấu hình màu v4 thông qua Windows Color System, đồng thời đã cải thiện hiệu năng
JavaScript. Nó cũng có tính năng tăng tốc quá trình kết xuất đồ họa bằng cách sử dụng
Direct2D, tăng tốc kết xuất văn bản nhờ sử dụng DirectWrite, tăng tốc kết xuất video
thông qua Media Foundation, hỗ trợ hình ảnh được cung cấp bởi Windows Imaging
Component, và khả năng in ấn độ trung thực cao hỗ trợ bởi định dạng văn bản XPS. IE9
cũng hỗ trợ thành phần HTML5 video, đánh dấu audio và định dạng font cho các trang
web (Web Open Font Format). Microsoft đã phát hành IE9 như là một phiên bản riêng
(out-of-band) mà nó không gắn liền với lịch sử phát hành của các phiên bản hệ điều hành
Windows đặc biệt như trước đây. Hệ điều hành yêu cầu của IE9 là Windows 7, Windows
Trang 9
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Server 2008 R2, Windows Vista Service Pack 2 hay Windows Server 2008 SP2 với phiên
bản update. IE9 không hoạt động trên Windows XP được. IE9 cũng được xây dựng cho
cả hai nền tảng 32-bit và 64-bit.

Tính năng:
Internet Explorer đã được thiết kế để xem được nhiều loại trang web khác nhau và cung
cấp một số tính năng nhất định cùng với hệ điều hành, trong đó có Microsoft Update. Vào
thời hoàng kim của cuộc chiến trình duyệt lúc trước, Internet Explorer đã chiến thắng
Netscape chỉ khi nó bắt kịp với công nghệ để hỗ trợ những tính năng tiên tiến lúc bấy giờ.
Hỗ trợ các tiêu chuẩn:
Internet Explorer, dùng bộ máy trình bày Trident:
• Hỗ trợ đầy đủ HTML 4.01, CSS Cấp 1, XML 1.0 và DOM Cấp 1, với một ít khác
biệt hiện thực.
• Hỗ trợ đầy đủ XSLT 1.0 cũng như một biến thể của XSLT do Microsoft đưa ra
(nay đã không còn tồn tại) có tên WD-xsl, dựa một phần trên Bản nháp XSL của
W3C vào tháng 12 năm 1998. Hỗ trợ XSLT 2.0 tùy vào tương lai.
• Hỗ trợ một phần CSS Cấp 2 và DOM Cấp 2, với khoảng cách hiện thực lớn và các
vấn đề tương thích lớn. Tương thích hoàn toàn với CSS 2.1 đã có trong bản
Internet Explorer 8.
• Không hỗ trợ XHTML
• Không hỗ trợ SVG, cả bản 7.0 lẫn 8.0.
Internet Explorer sử dụng DOCTYPE sniffing để lựa chọn giữa "chế độ thoái thác" (hiển
thị tương tự như các phiên bản MSIE cũ hơn) và chế độ tiêu chuẩn (hiển thị gần với tài
liệu W3C) đối với việc hiển thị HTML và CSS trên màn hình (Internet Explorer luôn
dùng chế độ chuẩn khi in ấn). Nó cũng cung cấp một biến thể của ECMAScript có tên
JScript.
Internet Explorer đã là chủ đề chỉ trích vì sự hỗ trợ hạn chế đối với các tiêu chuẩn web
mở.
Bộ mở rộng cho các tiêu chuẩn:
Trang 10
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Internet Explorer đã giới thiệu một loạt các phần mở rộng thương mại vào nhiều tiêu
chuẩn, trong đó có HTML, CSS và DOM. Điều này dẫn đến một số trang web chỉ có thể
xem đúng nếu đùng Internet Explorer.

Internet Explorer cũng giới thiệu một số phần mở rộng cho JScript và đã được các trình
duyệt khác đưa vào. Trong số các phần mở rộng có thuộc tính innerHTML, sẽ trả về
chuỗi HTML trong một thành tố (element); đối tượng XMLHttpRequest, cho phép gửi
yêu cầu HTTP và nhận về hồi đáp HTTP; và thuộc tính designMode của đối tượng
contentDocument, cho phép soạn thảo nhiều chức năng đối với văn bản HTML. Một số
các chức năng này không thể hoạt động được cho đến khi các phương thức W3C DOM ra
mắt. Bộ mở rộng ký tự Ruby của nó vào HTML cũng được chấp nhận làm một module
trong W3C XHTML 1.1, mặc dù không tìm thấy nó trong tất cả các phiên bản của W3C
HTML.
Microsoft đã đề cử một số tính năng khác của IE để W3C xem xét chuẩn hóa. Trong số
này có thuộc tính CSS 'hành vi', kết nối các thành tố HTML với các hành vi JScript (có
tên HTML Components, HTC); hồ sơ HTML+TIME, thêm hỗ trợ đồng bộ hóa thời gian
và phương tiện vào văn bản HTML (tương tự như W3C XHTML+SMIL); và định dạng
tập tin đồ họa vector VML. Tuy nhiên, tất cả chúng đều bị từ chối, ít nhất là ở dạng
nguyên bản. Tuy nhiên, VML sau đó đã được phối hợp với PGML (do Adobe và Sun đề
xuất), để có được định dạng SVG mà W3C đã chứng nhận, hiện là một số số ít các định
dạng hình ảnh vector đang được sử dụng trên web, còn IE lại rất độc đáo khi vẫn không
hỗ trợ định dạng này.
Các tiêu chuẩn thương mại khác bao gồm, hỗ trợ văn bản dọc, nhưng trong một cú pháp
khác với lời khuyên ứng viên W3C CSS3. Hỗ trợ các hiệu ứng hình ảnh khác nhau và
chuyển trang, không có trong W3C CSS. Hỗ trợ mã kịch bản hoang mang (obfuscated),
mà cụ thể là JScript.Encode(). Hỗ trợ các phông chữ EOT nhúng trong trang web.
Favicon:
Favicon (viết tắt cho "favorites icon", biểu tượng ưa thích) được Internet Explorer giới
thiệu, hiện nay cũng đã được hỗ trợ và mở rộng trong các trình duyệt khác. Nó cho phép
Trang 11
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
các trang web chỉ định một hình ảnh rộng 16x16 pixel trong mục đánh dấu trang. Nguyên
thủy, nó chỉ hỗ trợ cho định dạng ICO gốc của Windows, tuy nhiên nó đã được mở rộng
cho các loại hình ảnh khác như PNG và GIF.

Ưu điểm và nhược điểm:
Ưu điểm:
Tính dễ dùng và dễ tiếp cận
Internet Explorer tận dụng nền tảng dễ tiếp cận (accessibility) trong Windows. Internet
Explorer cũng là một giao diện người dùng cho FTP, với các tác vụ tương tự như
Windows Explorer (mặc dù tính năng này cần phải dùng cửa sổ dòng lệnh để kích hoạt
trong các phiên bản gần đây, chứ không nằm hẳn trong trình duyệt). Visual Basic for
Applications (VBA) không được hỗ trợ, nhưng vẫn dùng được thông qua bộ mở rộng
(iMacros). Các phiên bản gần đây có tính năng chặn pop-up và duyệt theo thẻ. Duyệt theo
thẻ cũng có thể thêm vào các phiên bản cũ nếu cài MSN Search Toolbar của Microsoft
hay Yahoo Toolbar của Yahoo.
Bộ đệm
Internet Explorer lưu vào bộ đệm các nội dung đã viếng thăm trong thư mục Temporary
Internet Files để cho phép truy cập nhanh hơn (hoặc truy cập ngoại tuyến) vào các trang
đã xem trước đó. Nội dung được đánh chỉ mục trong một tập tin cơ sở dữ liệu, có tên
Index.dat. Nhiều tập tin Index.dat khác nhau tồn tại để đánh chỉ các nội dung khác nhau -
nội dung đã xem, bản tin web, mục tự điền, URL đã xem, cookie, v.v.
Trước IE7, xóa bộ đệm sẽ xóa chỉ mục nhưng bản thân tập tin không bị xóa. Tính năng
này có thể là nguy cơ bảo mạt cho cả cá nhân lẫn công ty. Từ IE7 trở đi, cả chỉ mục lẫn
tập tin đều bị xóa khi tẩy bộ đệm.
Group Policy
Internet Explorer hoàn toàn có thể cấu hình được bằng cách dùng Group Policy (chính
sách nhóm). Những người quản trị miền Windows Server có thể áp dụng và bắt buộc một
Trang 12
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
số các thiết lập có ảnh hưởng đến giao diện người dùng (như tắt các mục trên trình đơn và
các tùy chọn cấu hình chho từng cá nhân), cũng như các tính năng bảo mật phía dưới như
tải tập tin, cấu hình vùng (zone), thiết lập theo từng trang, hành vi ActiveX control, và
nhiều thứ khác. Các thiết lập chính sách có thể được cấu hình cho mỗi người dùng và do
mỗi máy tính. Internet Explorer cũng hỗ trợ Integrated Windows Authentication (Chứng

nhận Windows Tích hợp).
Khả năng mở rộng
Internet Explorer đưa ra một tập các interface Mô hình Đối tượng Thành phần
(Component Object Model - COM) cho phép các thành phần khác mở rộng chức năng của
trình duyệt. Khả năng mở rộng này được chia làm hai loại: Mở rộng trình duyệt và Mở
rộng nội dung. Các interface mở rộng trình duyệt có thể dùng để nhúng các thành phần
dùng để thêm các mục trình đơn, thanh công cụ, mục trong một trình đơn hay Đối tượng
Trợ giúp Trình duyệt (Browser Helper Objects - BHO). Các BHO được dùng để mở rộng
bộ tính năng của trình duyệt, trong khi các tùy chọn mở rộng khác dùng để đưa tính năng
đó ra giao diện. Các interface mở rộng nội dung được các bộ xử lý kiểu nội dung khác
nhau sử dụng để thêm hỗ trợ cho các định dạng nội dung không có sẵn. Các BHO không
chỉ được truy cập không giới hạn vào DOM và mô hình sự kiện của Internet Explorer, mà
chúng còn có thể truy cập hệ thống tập tin, registry và các thành phần hệ điều hành khác.
Khả năng mở rộng nội dung có thể được gọi là Active Documents (Doc Objects) (ví dụ,
SVG hay MathML) hoặc ActiveX controls. Các ActiveX control được dành cho các bộ
xử lý nội dung trình bày nội dung được nhúng trong trang HTML (như Adobe Flash hay
Microsoft Silverlight). Các đối tượng Doc được dùng khi kiểu nội dung không được
nhúng trong HTML (như Microsoft Word, PDF hay XPS). Trên thực tế, bản thân bộ máy
biểu diễn Trident cũng là một đối tượng Doc, do đó HTML tự nó cũng được xem là một
Active Document.
Các thành phần bổ trợ (add-on) Interner Explorer chạy với cùng mức ưu tiên với trình
duyệt, không giống như các đoạn mã kịch bản phía máy khách có ít quyền ưu tiên hơn.
Thành phần bổ trợ có thể được cài đặt từ máy, hoặc trực tiếp từ website. Vì các thành
Trang 13
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
phần bổ trợ có mức truy cập đến hệ thống cao hơn, các trình bổ trợ ác ý có thể và đã được
dùng để xâm nhập vào sự bảo mật của hệ thống. Internet Explorer 6 Service Pack 2 trở về
sau đã cung cấp các công cụ bảo vệ khỏi những thứ này, bao gồm một Trình quản lý Add-
on Manager dùng để quản lý các ActiveX control và Đối tượng Trợ giúp Trình duyệt và
một chế độ vận hành "Không có trình bổ sung" cũng như hạn chế hơn đối với việc cài đặt

add-on từ website.
Bản thân Internet Explorer có thể được các trình ứng dụng khác lưu trữ thông qua một tập
các interface COM. Nó có thể dùng để nhúng các chức năng trình duyệt vào bên trong
một ứng dụng. Tương tự, ứng dụng lưu trữ có thể chọn chỉ chứa bộ máy biểu diễn
MSHTML.dll chứ không cần phải chứa toàn bộ trình duyệt.
Sử dụng trong công nghiệp
Cơ chế mở rộng ActiveX được nhiều website và ứng dụng web công cộng sử dụng, trong
đó có eBay. Tương tự, Đối tượng Trợ giúp Trình duyệt cũng được nhiều công ty cung cấp
bộ máy tìm kiếm và các bên thứ 3 sử dụng để tạo ra các trình bổ sung để truy cập vào
dịch vụ của họ, như thanh công cụ bộ máy tìm kiếm. Do việc sử dụng COM, hoàn toàn có
thể nhúng chức năng duyệt web vào các ứng dụng của bên thứ ba. Do đó, hiện có một số
Internet Explorer shell, và một số ứng dụng hướng nội dung như RealPlayer cũng sử dụng
module duyệt web của Internet Explorer để xem trang web bên trong ứng dụng.
Tương thích với hệ điều hành
Các phiên bản IE qua thời gian có nhiều độ tương thích hệ điều hành khác nhau, từ việc
có mặt ở nhiều nền tảng hệ điều hành và vài phiên bản Windows cho đến chỉ một số ít
phiên bản Windows. Nhiều phiên bản IE có hỗ trợ cho hệ điều hành cũ hơn nhưng dừng
cập nhật. Lượng người dùng Internet tăng vọt vào thập niên 1990 và 2000 có nghĩa là các
trình duyệt hiện nay có thị phần nhỏ vẫn có số lượng người dùng lớn hơn toàn bộ thị phần
khi xưa. Ví dụ, 90% thị phần vào năm 1997 là khoảng 60 triệu người dùng, nhưng vào
đầu năm 2007 90% thị phần tương đương với 900 triệu người dùng. Kết quả là các phiên
bản sau của IE6 có tổng cộng nhiều người dùng hơn tất cả các phiên bản trước đó gộp lại.
Trang 14
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Việc phát hành IE7 vào cuối năm 2006 đã dẫn đến sự sụp đổ về thị phần của IE6; đến
tháng 2 năm 2007 các con số thống kê thị phần phiên bản cho thấy IE6 đạt khoảng 50%
và IE7 khoảng 29%. Bất kể thị phần thực sự thế nào, phiên bản tương thích tốt nhất (qua
nhiều hệ điều hành) của IE là 5.x, có mặt cho Mac OS 9 và Mac OS X, Unix, và hầu hết
các hệ điều hành Windows và được hỗ trợ một thời gian ngắn vào cuối thập niên 1990
(mặc dù phiên bản 4.x có nền tảng mã nguồn thống nhất hơn qua các phiên bản). Đến

năm 2007, IE có mức hỗ trợ hệ điều hành hẹp hơn, với phiên bản mới nhất chỉ hỗ trợ
Windows XP Service Pack 2 trở lên. Internet Explorer 5.0, 5.5, 6.0, và 7.0 (thử nghiệm)
cũng được chuyển không chính thức sang hệ điều hành Linux từ dự án "ies4linux".
Nhược điểm:
Những vấn đề về bảo mật
Internet Explorer sử dụng nền tảng bảo mật dựa theo khu vực, nó sẽ nhóm các site lại dựa
trên một số điều kiện cụ thể, như nó có phải là site trên Internet hay Intranet hoặc có nằm
trong danh sách trắng do người dùng ghi nhận hay không. Các ạn chế bảo mật được áp
dụng theo khu vực; tất cả các site trong một khu vực sẽ tuân theo cùng một hạn chế.
Internet Explorer 6 SP2 trở về sau sử dụng Dịch vụ Thực thi Đính kèm (Attachment
Execution Service) của Microsoft Windows để đánh các tập tin thực thi được tải về từ
Internet có thể không an toàn. Khi truy cập các tập tin được đánh dấu như vậy, trình duyệt
sẽ nhắc người dùng phải có quyết định tin tưởng trước khi thực thi, vì các tập tin thực thi
xuất phát từ Internet có thể có nhiều nguy cơ không an toàn. Cách làm này giúp ngăn
ngừa việc cài đặt phần mềm độc hại một cách vô ý.
Internet Explorer 7 giới thiệu bộ lọc chống lừa đảo (phishing), hạn chế truy cập đến các
site phishing trừ khi người dùng quyết định tiếp tục xem. Với phiên bản 8, trình duyệt còn
khóa truy cập vào trang site được biết là đang lưu trữ phần mềm độc hại (malware). Việc
tải về cũng được kiểm tra để xem chúng có từng được báo là nhiễm phần mềm độc hại
hay không.
Trang 15
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Trong Windows Vista, Internet Explorer mặc định chạy trong chế độ có tên là Chế độ
Bảo vệ (Protected Mode), trong đó đặc quyền của chính trình duyệt bị hạn chế đáng kể -
nó không thể thực hiện thay đổi hệ thống. Người dùng có thể tắt chế độ này nhưng không
được khuyến khích. Nó cũng hạn chế hiệu quả đặc quyền của các trình bổ sung (add-on).
Kết quả là thậm chí nếu trình duyệt hoặc trình bổ sung nào bị khống chế, những thiệt hại
bảo mật vẫn rất hạn chế.
Các bản vá và bản cập nhật trình duyệt được phát hành định kỳ và có thể tải về thông qua
dịch vụ Microsoft Update, cũng như thông qua Automatic Updates. Mặc dù các bản vá

bảo mật tiếp tục được phát hành cho nhiều hệ điều hành, đa số các bổ sung tính năng hay
cải tiến nền tảng bảo mật chỉ có mặt cho các hệ điều hành đang trong giai đoạn hỗ trợ chủ
yếu của Microsoft.
Internet Explorer luôn là chủ đề của nhiều lỗ hổng và lo ngại về bảo mật: Nhiều phần
mềm gián điệp, phần mềm quảng cáo, và virus máy tính trên Internet đã khai thác các lỗi
và lỗ hổng trong kiến trúc bảo mật của Internet Explorer, đôi khi không phá hoại trực tiếp
ngoài việc khiến người dùng xem một trang web độc hại nào đó để tự cài chúng vào máy.
Kiểu phá hoại này có tên "drive-by install". Cũng có loại phần mềm lừa người dùng cài
đặt phần mềm độc hại bằng cách giới thiệu một cách giả mạo mục đích tốt đẹp của phần
mềm trong phần miêu tả của một cảnh báo bảo mật ActiveX.
Một số lỗ hổng bảo mật ảnh hưởng đến IE không phải xuất phát từ trình duyệt, mà từ các
trình bổ sung ActiveX mà IE sử dụng. Vì những trình bổ sung này có cùng đặc quyền với
IE, những lỗ hổng này cũng nguy hiểm như lỗ hổng từ trình duyệt. Do đó kiến trúc dựa
trên ActiveX này đã bị chỉ trích rất nhiều. Gần đây, nhiều chuyên gia khác vẫn bảo lưu
quan điểm rằng các nguy hiểm từ ActiveX đã bị phóng đại và vẫn có những cách bảo vệ
đúng nơi đúng lúc. Các trình duyệt khác sử dụng NPAPI làm cơ chế mở rộng cũng đang
gặp vấn đề y hệt. Trong cột ý kiến trong tờ tháng 4 năm 2005 của eWeek, Larry Seltzer
cho rằng: “Trong khi đã có những lời cáo buộc thiếu chứng cứ rằng ActiveX thiếu an
toàn, tiếp tục vẫn không ít lời xác nhận thiếu chứng cứ và tấn công rẻ tiền. Điều tôi ưa
thích là vụ việc "Internet Explorer" trong đó Sun thực sự trả tiền cho người khác để viết
Trang 16
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
một ActiveX control độc hại. Hệ thống kiểm thử đưa ra tất cả các hộp thoại cảnh báo về
chương trình mà bạn vẫn thường hay thấy còn các nhân viên Sun thì thấy khó chịu khi cứ
phải nhấn phím enter thật nhanh để họ có thể đóng hộp thoại đó càng nhanh càng tốt mà
không đề cập đến các cảnh báo. Trong khi đó, họ cũng không đề cập đến việc một Java
applet đã ký cũng có thể thực hiện các hành vi đặc quyền nguy hiểm và cũng đưa ra cùng
kiểu cảnh báo như vậy. Đa số những người chỉ trích ActiveX đơn giản là do không hiểu
rõ, nhưng ví dụ này thật là đạo đức giả và thiếu chân thật.”
Tuy Internet Explorer vào năm 2008 có số lỗ hổng bảo mật tương tự với Safari và Opera,

và ít hơn đáng kể cho với đối thủ cạnh tranh chính, Mozilla Firefox, sự phổ biến của nó
đã dẫn đến có nhiều người bị ảnh hưởng hơn khi có một lỗ hổng bị phát hiện. Theo
nghiên cứu của công ty nghiên cứu bảo mật Secunia, Microsoft đã không hồi đáp nhanh
bằng các đối thủ cạnh tranh trong việc sửa các lỗ hổng bảo mật và đưa ra các bản vá.
Công ty này cũng báo cáo rằng có 366 lỗ hổng tìm thấy trong các ActiveX control, tăng
hơn so với năm trước.
Tóm lại, IE có những ưu và nhược điểm chính như sau:
Ưu điểm:
• Tương thích hầu hết với mọi trang web.
• Được sự bảo trợ vá lỗi liên tục từ Microsoft.
• Được đính kèm trong mọi phiên bản Windows – hệ điều hành thông dụng nhất
hiện nay.
Khuyết điểm:
• Là “miếng mồi ngon” của hacker.
• Rất chậm. Tốc độ IE là chậm nhất trong các trình duyệt.
• Quá ít Addons, một số lại phải trả phí.
• Khả năng chặn popup khá kém.
• Không an toàn cho việc lưu mật mã (remember password).
• Hay bị treo khi vào những trang flash hay những trang nhiều hiệu ứng.
Firefox
Trang 17
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
a. Lịch sử phát triển:
Firefox là một trong những trình duyệt web phổ biến và
được yêu thích nhất hiện nay, nổi bật với tốc độ xử lý
mạnh mẽ và khả năng mở rộng các tính năng thông qua
các add-on cài đặt thêm bên ngoài.
Một trong những điểm giúp cho Firefox trở nên được
yêu thích và sử dụng rộng rãi đó là vì đây là trình duyệt
web mã nguồn mở hoàn toàn. Mã nguồn của Firefox

được công bố rộng rãi ra cộng đồng và được cộng đồng lập trình viên cùng tham gia phát
triển cũng như xây dựng các add-on để tăng thêm các tính năng cho trình duyệt web.
Nói cách khác, chính sự tùy biến dễ dàng là điểm khiến cho Firefox trở nên phổ biến và
rất được yêu thích.
Ngày 31/8/1998, các lập trình viên tại hãng phần mềm Netscape, dẫn đầu bởi Dave Hyatt
và Blake Ross đã cùng nhau bắt đầu một dự án mã nguồn mở mới. Họ gọi dự án này là
Mozilla, là tên mã trước đây được đặt cho trình duyệt web Netscape Navigator, là trình
duyệt vốn rất phổ biến vào những năm 90 của thế kỷ trước.
Hình 3 - Cặp đôi Dave Hyatt và Blake Ross
Cặp đôi Dave Hyatt và Blake Ross, những người đặt nền móng đầu tiên cho Firefox
Mozilla là cách chơi chữ, kết hợp giữa Mosaic (một trình duyệt web phổ biến khác vào
những năm 90) và “Killer” (sát thủ).
Trang 18
Hình 2 - Biểu tượng trình duyệt web Firefox
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Một vài thông tin thú vị liên quan đến Firefox:
• Firefox là trình duyệt mã nguồn mở. Do vậy, hiện nay 40% mã nguồn của Firefox
được viết bởi bởi các lập trình viên tình nguyện.
• Hiện nay trên toàn thế giới có hơn 1000 lập trình viên tình nguyện tham gia phát
triển Firefox, và có hơn 20 ngàn người thử nghiệm các bản cập nhật mới của
Firefox hàng ngày.
• Phần lớn các phiên bản ngôn ngữ của Firefox (không phải là tiếng Anh) đều được
biên dịch bởi sự cộng tác của các tình nguyện viên.

Hình 4 - Các biểu tượng của Firefox
Sự phát triển các biểu tượng của Firefox:
• Sự xuất hiện của Firefox đã bắt đầu đánh dấu sự chấm dứt của “đế chế” Internet
Explorer. Vào năm 2004 khi Firefox 1.0 được trình làng, Internet Explorer (khi đó
đang ở phiên bản 6.0) chiếm đến hơn 90% thị phần trình duyệt web.
• Biểu tượng ban đầu của Firefox là hình một chú phượng hoàng, tương ứng với tên

gọi sơ khai của Firefox là Phoenix (Phượng Hoàng). Sau đó, Phoenix được đổi tên
thành Firebird, và cuối cùng là Firefox như ngày nay.
• Một điều khá thú vị, tên gọi Firefox (cáo lửa) trên thực tế không phải là tên của
một loài cáo, mà Firefox là tên thường gọi của loài gấu trúc Panda lông đỏ (Red
Panda), sống ở khu vực phía đông dãy Himalaya và phía tây nam Trung Quốc.

Trang 19
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Hình 5 - Panda lông đỏ
Firefox thực chất là panda lông đỏ, chứ không phải là cáo như mọi người vẫn tưởng
Tính năng:
Sự tùy biến:
Thiết kế của Firefox chú trọng rất nhiều vào tính mở rộng. Với công cụ mở rộng (cài đặt
thông qua mô dun XPInstall), người dùng có thể nhận được rất nhiều tính năng, như
mouse gesture — kết hợp các thao tác của chuột làm phím tắt, chặn quảng cáo, chuyển
proxy server, và công cụ dò lỗi. Rất nhiều tính năng của công cụ mở rộng đều dựa trên
tính năng cu3a Mozilla Suite, ví dụ như ChatZilla IRC client và lịch.
Hỗ trợ các tiêu chuẩn phần mềm:
Mozilla Foundation rất tự hào về việc Firefox hỗ trợ hầu hết các chuẩn phần mềm đang
tồn tại, đặc biệt là chuẩn W3C. Firefox cũng mở rộng hỗ trợ hầu hết các chuẩn cơ bản bao
gồm HTML, XML, XHTML, CSS, ECMAScript (JavaScript), DOM, MathML, DTD,
XSL and XPath. Tuy nhiên vào tháng 3 năm 2006 không có một phiên bản nào của
Firefox hỗ trợ đầy đủ chuẩn Acid2, các trình duyệt Safari, Konqueror, Opera (9.0), iCab,
và chương trình Prince đều vượt qua chuẩn này.
Hỗ trợ đa hệ:
Trang 20
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Mozilla Firefox có thể chạy trên rất nhiều hệ điều hành khác nhau. Các phiên bản được
cung cấp chính thức trên trang web của Mozilla có thể chạy trên nhiều hệ điều hành.
Công cụ phát triển web:

Giống như Mozilla Suite, Firefox đi cùng hai công cụ phát triển web: DOM Inspector và
JavaScript Console. Trong chế độ cài đặt mặc định DOM Inspector không được cài đặt,
nó chỉ được cài đặt qua chế độ tùy chọn.
Firefox hỗ trợ rất nhiều công cụ mở rộng trợ giúp trong công việc phát triển web, bao
gồm một công cụ rất mạnh mẽ như Venkman JavaScript debugger và công cụ phát triển
web tích hợp sẵn tên là "Web Developer".
Chống theo dõi:
Firefox được trang bị tính năng chống theo dõi (Do Not Track) giúp cho người dùng tránh
được sự theo dõi của các trang web, nó bao gồm ba tùy chọn khác nhau. Để sử dụng tính
năng này, bạn mở menu Tools rồi vào Options và mở thẻ Privacy trong hộp thoại xuất
hiện. Trong khung Tracking, bạn có thể chọn: Tell sites that I do not want to be tracked
(không cho phép các website theo dõi bạn), Tell sites that I want to be tracked (cho phép
các website theo dõi bạn), Do not tell sites anything about my tracking preferences
(không cho các website biết những gì liên quan đến sở thích của bạn nhưng vẫn cho phép
theo dõi).
Theo dõi tình trạng bộ nhớ:
Ở những phiên bản trước, bạn cần phải cài đặt tiện ích about:addons-memory thì mới có
thể xem được tình trạng sử dụng bộ nhớ của Firefox và các tiện ích (add-ons) đã cài đặt.
Nhưng ở phiên bản này, Firefox đã được thêm vào tính năng Firefox Health Report, giúp
người dùng theo dõi được “sức khỏe” của Firefox cũng như xác định được nguyên nhân
tại sao trình duyệt chạy chậm. Để kích hoạt tính năng này, bạn bấm vào thẻ Andvanced
trong hộp thoại Options, rồi bấm vào thẻ Data Choices, đánh dấu chọn vào ô Enable
Firefox Health Report, bấm OK. Bạn có thể xem báo cáo về tình trạng dữ liệu và bộ nhớ
Trang 21
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
đang được sử dụng bằng cách nhập lệnh about:healthreport vào thanh địa chỉ của trình
duyệt rồi bấm Enter.
Kết nối, điều khiển từ xa(Remote Profiling):
Có lẽ đây là một tính năng được nhiều nhà phát triển mong chờ, và nó đã xuất hiện trên
Firefox 21. Với tính năng Remote Profiling, nhà phát triển sẽ dễ dàng hơn trong việc kết

nối và điều khiển từ xa với các thiết bị Mobile Firefox hoặc Firefox OS. Để kích hoạt tính
năng này, bạn nhập vào thanh địa chỉ của trình duyệt dòng lệnh about:config rồi nhập vào
thanh tìm kiếm dòng devtools.debugger. remote-enabled, sau đó bấm đôi vào kết quả để
chuyển sang thiết lập true.
Tính năng khác:
Live bookmarking cho phép người dùng giám sát sự thay đổi đối với nguồn cung cấp bản
tin. Việc này được thực hiện thông qua RSS hoặc Atom. Khi tính năng này được giới
thiệu trong phiên bản 1.0 PR, một vài người lo lắng rằng Firefox sẽ bắt đầu chứa các tính
năng không cần thiết và sẽ phình to chiếm nhiều tài nguyên hệ thống như Mozilla Suite,
phiên bản nó sinh ra từ đó. Tuy nhiên, sử dụng web feeds đã trở thành một xu hướng phát
triển rất mạnh trong thời gian gần đây khiến cho hỗ trợ RSS là một tính năng cần thiết cho
trình duyệt và hữu ích đối với rất nhiều người.
Firefox cũng bao gồm khả năng tùy biến quản lý tải về. Người dùng có thể cấu hình trình
duyệt để tự động mở tệp tải về hoặc lưu nó vào đâu đó trên ổ cứng. Mặc định Firefox lưu
trữ tất cả các tệp người dùng yêu cầu tải về vào màn hình Windows và Mac OS X hoặc
thư mục nhà của GNU/Linux.
Ưu điểm và nhược điểm:
Ưu điểm:
Firefox vẫn luôn là trình duyệt đứng đầu về khả năng hỗ trợ Add-ons và Extesion, bạn có
thể tìm kiếm bất cứ tính năng mở rộng nào mà các trình duyệt khác đang có từ bộ cài đặt
Extension của trình duyệt này. Bên cạnh đó, là sự tương thích với các trình tăng tốc
Download cho phép bạn bắt link để tải nhạc và video một cách dễ dàng. Một trong những
Trang 22
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
thay đổi nhanh và đáng kể hiện nay nhằm điều chỉnh bản thân trình duyệt với yêu cầu
công nghệ mới nhất đó chính là HTML5, một nâng cấp sửa đổi tiếp theo của ngôn ngữ
HTML đang hiện có. Phiên bản Firefox cũng đã làm cho nó trở lên dễ dàng đồng bộ hóa
mật khẩu, Bookmark, các tùy chọn mở rộng khác.
Nhược điểm:
Người dùng có thể cài đặt các Extension để tăng thêm sức mạnh cho trình duyệt, nhưng

sau đó thì đã khiến cho Firefox hoạt động chậm chạp hơn đặc biệt là quá trình khởi động,
hơn nữa giao diện cũng sẽ mất đi cái vẻ gọn gàng theo mặc định. Khả năng tương thích là
không thường xuyên ngay cả với phiên bản Firefox 4 được cho là ổn định nhất. Trước hết,
HTML5 đưa ra kết quả không được khả thi khi tải 1 trang web như Windows Live Mail
chẳng hạn. Sau đó là vấn đề bộ nhớ, Firefox tiêu thụ một lượng bộ nhớ không hề nhỏ trên
hệ thống của bạn để chạy nó sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động của các ứng dụng khác.
Trên một số trang web không thể hiện thị ảnh và video khi duyệt bằng Firefox trong khi
các trình duyệt khác thì vẫn hiển thị một cách bình thường.
Google Chorme
a. Lịch sử phát triển:
Google Chrome là một trình duyệt web miễn phí, được
phát triển bởi Google, sử dụng nền tảng V8 engine. Dự
án mã nguồn mở đứng sau Google Chrome được biết
với tên gọi Chromium.
Phiên bản beta chạy trên Microsoft Windows được phát
hành ngày 2 tháng 9 năm 2008 với 43 ngôn ngữ. Với sự
ra đời của phiên bản ổn định chính thức 1.0.154.36 vào
ngày 11 tháng 12, đã kết thúc giai đoạn thử nghiệm này. Đến tháng 6 năm 2011, trình
duyệt này đã trở thành trình duyệt thông dụng thứ ba trên toàn cầu. Chỉ sau Firefox và
Internet Explorer và chiếm khoảng 16,5% thị phần trình duyệt web thế giới.
Trang 23
Hình 6 - Biểu tượng trình duyệt web
Google Chrome
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Phiên bản Chrome cho hệ điều hành Mac OS X và Linux được phát hành vào tháng
6 năm 2009.
Ngày 21 tháng 5 năm 2012, Google Chrome chính thức vượt qua Internet Explorer và trở
thành trình duyệt phổ biến nhất trên thế giới. Theo thống kê của StatCounter, Chrome đã
có một thị phần khoảng 32,8%, trong khi Internet Explorer chỉ có 31,7% (tính theo số lượt
truy cập trong tuần từ 14 tháng 5 đến 20 tháng 5).

Phiên bản đầu tiên:
Một phiên bản thử nghiệm beta dành cho hệ điều hành Microsoft Windows đã được phát
hành vào ngày 2 tháng 9 năm 2008 với 43 ngôn ngữ. Ngay sau khi ra mắt, Google
Chrome đã nhanh chóng chiếm lĩnh được gần 1% thị trường trình duyệt. Google cho biết
những phiên bản chạy trên các nền tảng khác và các ngôn ngữ khác sẽ sớm được ra mắt.
Ngày 3 tháng 9, một bài tin tức trên trang Slashdot hướng sự quan tâm đến một đoạn
trong các điều khoản dịch vụ của phiên bản beta đầu tiên này, dường như thừa nhận
Google có bản quyền với mọi nội dung được truyền tải thông qua trình duyệt
Chrome. Đoạn câu hỏi được thừa kế từ những điều khoản dịch vụ chung của
Google. Trang tin The Register thì khái quát hóa đoạn nội dung đó với câu "Tác quyền
của bạn tan thành mây khói" (Your copyright goes up in smoke). Vào cùng ngày, để đáp
lại sự chỉ trích này, Google cho biết những ngôn từ được sử dụng trong đó là do mượn từ
các sản phẩm khác, và tuyên bố loại bỏ đoạn câu hỏi đó khỏi các điều khoản dịch
vụ. Google cũng lưu ý thay đổi này sẽ được "áp dụng với cả những đối tượng người dùng
đã tải Google Chrome từ đó trở về trước".
Phiên bản đầu tiên của Google Chrome đã vượt qua được 2 bài kiểm tra Acid1 và Acid2,
nhưng không qua được bài kiểm tra Acid3; tuy nhiên, nó lại đạt điểm 78/100, tức là cao
hơn cả 2 trình duyệt Internet Explorer 7 (14/100) và Firefox 3 (71/100) và chỉ thấp
hơn Opera (85/100). Còn khi so sánh với các phiên bản thử nghiệm hoặc beta tương
đương của các trình duyệt khác, Chrome có điểm số thấp hơn Firefox (85/100), Opera
(91/100), và Safari (100/100), nhưng vẫn cao hơn Internet Explorer (21/100).
Trang 24
Bài tập nhóm Nhập môn Internet và E-Learning
Tính năng:
Bảo mật
Google Chrome tải về theo định kỳ các bản cập nhật của danh sách đen (một cho lừa đảo
trực tuyến Phishing và một cho Malware) và cảnh báo người dùng khi họ thăm một trang
web độc hại. Dịch vụ này cũng được cung cấp đến người dùng qua một API miễn phí
công khai được gọi là "Google Safe Browsing API". Trong tiến trình bảo trì blacklist,
Google cũng gửi lưu ý đến chủ nhân của những trang web độc lưu ý đến những phần

mềm độc hại trên trang của họ.
Plugin
Các plugin thường cần được chạy với mức độ bảo mật bằng hoặc cao hơn mức bảo mật
của trình duyệt. Để giảm khả năng tấn công, plugin được chạy trong các tiến trình riêng
biệt được giao tiếp với bộ render, bản thân nó phải chạy với rất ít quyền trong một tiến
trình chạy theo tab. Plugin cần phải được điều chỉnh để chạy được với cấu trúc phần mềm
trong khi vẫn tuân theo khái niệm quyền ít nhất.
Chrome hỗ trợ Netscape Plugin Application Programming Interface (NPAPI), nhưng
không hỗ trợ việc nhúng các Active X. Bên cạnh, Chrome cũng không có một hệ thống
phần mở rộng như các file *.xpi không phụ thuộc hệ điều hành nền của Mozilla và do đó
các phần mở rộng dựa vào XPI như AdBlock (cũ) và GreaseMonkey không thể chạy được
với Chrome
Lướt web kín đáo
Có một tính năng duyệt web kín đáo gọi là chế độ Incognito được cung cấp trong trình
duyệt này. Nó ngăn trình duyệt không lưu trữ lại thông tin trong History cũng
như cookies từ các trang web đã ghé thăm. Tính năng này tương tự như tính năng lướt
web riêng tư đã có trong Internet Explorer 8.
Tốc độ
Chrome sử dụng Máy ảo Javascript, engine V8 JavaScript, có các tính năng như thế hệ
mã năng động, một bộ chạy nền ẩn, và bộ thu dọn dữ liệu dư thừaMáy ảo Javascript và
Trang 25

×