Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.55 KB, 12 trang )

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
Lời nói đầu
Phần 1 Tổng quan về môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là nơi mà hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp
diễn ra, nó ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp. Những
biến động về kinh tế có thể tạo ra cơ hội và cả những thách thức với doanh
nghiệp. Do vậy, việc nghiên cứu môi trường kinh tế trước khi quyết định
đầu tư là một việc làm rất quan trọng, đặc biệt là đầu tư ra nước ngoài.
Doanh nghiệp cần phải theo dõi, phân tích, dụ báo biến động của từng yếu
tố để đưa ra các giải pháp, các chính sách tương ứng trong từng thời điểm
cụ thể nhằm tận dụng, khai thác những cơ hội, né tránh, giảm thiểu nguy cơ
và đe dọa. Môi trường kinh tế của một quốc gia quyết định sức hấp dẫn của
thị trường xuất nhập khẩu của quốc gia đó. Môi trường kinh tế bao gồm các
yếu tố về mức độ tăng trưởng kinh tế; thu nhập quốc dân, quốc nội, thu
nhập bình quân đầu người; tỷ lệ lạm phát hay suy thoái; thuế suất; lãi suất
ngân hàng; tỷ giá hối đoái;…Môi trường kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp
tới hoạt động marketing quốc tế của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp
muốn tấn công sang một thị trường nước ngoài thì phải có những hiểu biết
cụ thể về nền kinh tế của quốc gia đó, từ đó đưa ra được các chính sách
marketing phù hợp với những điều kiện kinh tế của quốc gia đó. Như vậy
sẽ giúp doanh nghiệp đưa ra được quyết định có nên đầu tư không và đầu
tư như thế nào: với những sản phẩm gì, giá cả như thế nào, chiến lược
truyền thông ra sao,…Sau đây, chúng tôi xin đi sâu nghiên cứu vào sự ảnh
hưởng của từng yếu tố trong môi trường kinh tế đến hoạt động marketing
quốc tế của một doanh nghiệp.
Phần 2 Các ảnh hưởng của các biến động trong môi trường kinh tế lên
hoạt động marketting quốc tế của DN Việt tại Trung quốc
2.1 . Tốc độ phát triển kinh tế và GDP, GNP, thu nhập bình quân đầu
người.
Có thể nói, năm 2010 tiếp tục là năm thành công của đất nước Trung


Quốc với các số liệu kinh tế khả quan. Và năm 2010 đánh dấu một bước
ngoặt quan trọng đó là kinh tế Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản để trở
thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới sau Mỹ. Theo số liệu thống kê được
công bố hôm 20/01/2011, tăng trưởng trong năm qua của Trung Quốc lên
tới 10,3%. Đây là tỷ lệ cao nhất kể từ năm 2007. Tính theo giá trị tuyệt đối,
tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc năm 2010 là 39. 798 tỷ nhân dân
tệ (khoảng 4.489 tỷ euro). Tuy là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới nhưng vì là
quốc gia đông dân nhất thế giới với 1,3 tỷ người, Trung Quốc có thu nhập
bình quân tính theo đầu người thấp hơn gấp 10 lần so với Nhật Bản (GDP
Page 1 of 12

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
bình quân đầu người ở Trung Quốc là khoảng 4.500 USD, nhưng ở Nhật
Bản, con số này vào khoảng 40.000 USD/người).
Nếu phân chia theo GNP thì Trung Quốc được liệt vào nhóm 4, tức
là nhóm các quốc gia có nền kinh tế công nghiệp hóa. Các quốc gia này có
hệ thống cơ sở hạ tầng hết sức phát triển cho phép xuất khẩu cả thành phẩm
và tư bản. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của quốc gia này cũng rất đa dạng.
Nhóm các quốc gia này nhập khẩu cả nguyên nhiên vật liệu, bán thành
phẩm và thành phẩm. Đây là thị trường tiềm năng cho tất cả các loại hàng
hóa.
Nói đến xuất khẩu than đá, chúng ta phải nhắc đến thị trường Trung
Quốc – thị trường tiêu thụ than đá lớn mạnh nhất của Việt Nam, Trung
Quốc là thị trường có nền kinh tế xuất khẩu lớn nhất thế giới, nước này đã
vượt qua Đức để trở thành quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Thị
trường này không những là quốc gia xuất khẩu mạnh nhất thế giới mà
lượng hàng hóa nhập khẩu vào đây cũng đã tăng rất mạnh, trong đó có mặt
hàng than đá của Việt Nam. Citigroup dự đoán, Trung Quốc sẽ nhập
khoảng 233 triệu tấn than đá vào năm 2011, so với mức 143 triệu tấn trong

năm 2010. Cùng với tăng trưởng mạnh về kinh tế, Trung Quốc đang là 1
trong số các nước có lượng tiêu thụ than đá lớn nhất thế giới. Và theo dự
báo của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Trung Quốc sẽ tăng trưởng 9,6% vào
năm 2011. Đồng thời, Phó Chủ tịch Viện Nghiên cứu năng lượng Trung
Quốc cho biết, Trung Quốc cần hơn 2 triệu tấn than đá trong vòng 10 năm
tới để phục vụ công nghiệp.
Như vậy, với dự báo nhập khẩu than đá năm 2011 tăng gần gấp đôi
so với năm 2010 của đất nước đông dân nhất thế giới này thì đây chính là
cơ hội lớn giành cho doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời cũng sẽ đặt ra cho
doanh nghiệp Việt Nam nhiều thách thức mới. Với việc nhu cầu từ phía
Trung Quốc tăng cao, Doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị cho mình
nguồn lực, những phương tiện cần thiết để có thể đáp ứng được nhu cầu
ngày càng tăng cao của Trung Quốc để tránh rơi vào thế bị động.
Với việc tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc luôn ở mức cao
dẫn đến nhu cầu nội địa của Trung Quốc cũng sẽ tăng cao nên sẽ rất thuận
lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các nước trên thế giới xuất
khẩu hàng hóa sang Trung Quốc nói chung và xuất khẩu than đá nói riêng.
Tuy nhiên, nền kinh tế tăng trưởng quá nóng cũng xuất hiện những hạn chế
xuất phát từ nội tại của Trung Quốc. Các nhà phân tích cho rằng chính phủ
Trung Quốc đang phải đối mặt với một vấn đề khó khăn, đáng lo ngại là
lạm phát, mặc dù trong tháng 12/2010, giá cả chỉ tăng có 4,6%, thay vì
5,1% trong tháng 11. Chính vì vậy, vào lúc Mỹ và châu Âu đang cố gắng
thúc đẩy tăng trưởng, Trung Quốc lại tìm cách “ hạ nhiệt” nền kinh tế như:
Page 2 of 12

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
sử dụng các chính sách thắt chặt tiền tệ, những cam kết chống tệ nạn đầu
cơ… Điều này sẽ dẫn đến việc chính phủ Trung Quốc rút bớt tiền khỏi lưu
thông, làm cho người dân thắt chặt chi tiêu hơn, dẫn đến các doanh nghiệp

bắt đầu cắt giảm năng lực sản xuất, nhu cầu các yếu tố đầu vào giảm bớt…
Và làm cho tình hình xuất nhập khẩu sẽ bị ảnh hưởng. Các doanh nghiệp
xuất khẩu than đá của Việt Nam cần nhận thức được những thuận lợi cũng
như khó khăn này để có thể điều chỉnh hợp lý, hạn chế rủi ro hơn. Tránh
rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, trì trệ.
Tóm lại, tốc độ tăng trưởng kinh tế là một trong những nhân tố quan
trọng để doanh nghiệp có thể đưa ra các chiến lược marketing quốc tế phù
hợp và giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh.
2.2.Lạm phát và tình hình kinh tế tại Trung Quốc
A.Tình hình kinh tế Trung Quốc
Trong những năm vừa qua tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới ảnh
hưởng rất to lớn đến tình hình kinh tế Trung Quốc, tuy nhiên trong hai năm
qua, kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng mạnh nhờ gói kích thích khổng lồ
của chính phủ và sự cho vay hào phóng của các ngân hàng quốc doanh.
Nhưng hiện nay, ngày càng có nhiều kinh tế gia lo ngại rằng nền kinh tế
này có thể tăng trưởng chậm lại trong những năm tới do lạm phát cao, nợ
chính phủ và bong bóng tài sản.
Hai tổ chức xếp hạng tín dụng hàng đầu Moody’s và Fitch Ratings nói rằng
Trung Quốc vẫn tiếp tục đà tăng trưởng cao nhưng gần đây họ đã cảnh báo
những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống ngân hàng nước này. Fitch còn nói
bóng gió tới khả năng xảy ra một làn sóng nợ xấu gắn chặt với thị trường
bất động sản Trung Quốc.
Vào cuối thập niên 1990 và đầu thập niên này, Chính phủ Trung Quốc bị
buộc phải cứu nguy và tái cấp vốn cho hàng loạt ngân hàng quốc doanh sau
khi nợ xấu tăng vọt khiến cho chúng suýt bị tê liệt. Các ngân hàng ấy giờ
đây đã mạnh hơn rất nhiều sau hàng loạt các cuộc phát hành cổ phiếu thu
về hàng trăm tỉ đô la Mỹ từ các nhà đầu tư quốc tế những năm gần đây.
Nhưng tuần trước, một nhà phân tích của Ngân hàng Hoàng gia Scotland
(RBS) khuyến cáo khách hàng nên cẩn trọng trước nguy cơ dòng tiền đổ
vào Trung Quốc, cộng với lạm phát phi mã, có thể dẫn tới “ngày phán xử

cuối cùng”.
Nhận thức rõ điều này, Bắc Kinh gần đây đã ra sức kiểm soát đà tăng
trưởng kinh tế nội địa, kiềm chế giá lương thực và bất động sản bằng cách
tăng lãi suất cơ bản, thắt chặt các quy định về mua bán nhà đất và hạn chế
đà tăng trưởng tín dụng.
Page 3 of 12

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
Kết thúc hội nghị công tác kinh tế trung ương mới đây - hội nghị thường
niên cấp cao về chính sách kinh tế của Trung Quốc, quy tụ các quan chức
hàng đầu ở trung ương và địa phương thảo luận các ưu tiên kinh tế cho năm
tới - Bắc Kinh cam kết sẽ ngăn chặn lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Cam kết này được đưa ra chỉ vài ngày sau khi Ngân hàng Trung ương
Trung Quốc buộc các ngân hàng thương mại phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
- lần tăng thứ sáu trong năm nay và lần tăng thứ ba trong vòng một tháng -
như một biện pháp làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; và cơ quan thống kê
nước này cho biết, chỉ số giá tiêu dùng tháng 11-2010 tăng 5,1% so với
cùng kỳ năm trước - mức tăng cao nhất trong ba năm trở lại đây. Những
động thái ấy làm phát sinh lời đồn đoán rằng, qua năm mới, Trung Quốc sẽ
tiếp tục tăng lãi suất cơ bản sau khi đã tăng một lần hồi tháng 10-2010, lần
tăng lãi suất đầu tiên trong vòng ba năm qua.
B.Tình hình lạm phát
Giá thực phẩm tăng cao, đặc biệt là thịt, được xem như nguyên nhân chính
đẩy tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc từ mức 6,5% của tháng 12/2007 lên
7,1% trong tháng đầu tiên của năm 2008.
Giá dịch vụ tại Trung Quốc cũng đã tăng 2,6%, phản ánh chi phí nhân công
ở nước này đang có xu hướng tăng.
Tỷ lệ lạm phát 7,1% của Trung Quốc trong tháng 1/2008 là mức cao nhất
kể từ tháng 9/1996, khi lạm phát lập ngưỡng 7,4%.

Trong 2 năm trở lại đây là năm 2009 và 2010 tình hình lạm phát đã dần
được cải tổ hơn do những lỗ lực của chính phủ Trung quốc, tháng 9 năm
2009 chỉ số lạm phát chỉ còn 3,6 %, thấp hơn nhiều so với năm 2008. Tuy
nhiên, năm 2010 chỉ số lạm phát của Trung Quốc lại tăng lên do bất ổn về
tỷ giá đồng nhân dân tệ và biến động giá vàng thế giới, chỉ số lạm phát
tháng 9 năm 2010 tại Trung Quốc đã tăng lên con số 4.4% so với cùng kì
năm 2009. Trong khi đó, tăng trưởng sản phẩm công nghiệp của nước này
lại có dấu hiệu tăng chậm lại trong tháng 10 (tăng 13,1% so với 13,3% của
tháng 9).
Tuy nhiên bất chấp những bất ổn đó, nền kinh tế Trung Quốc vẫn đạt được
những bước đại nhảy vọt và vươn lên trở thành quốc gia có nền kinh tế
đứng thứ 2 thế giới.
Page 4 of 12

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
2.3 .Giá nhập khẩu mặt hàng than của Việt Nam vào Trung Quốc
Những bất ổn về nền kinh tế dường như cũng không tác động quá nhiều
đến xuất nhập khẩu các mặt hàng khoáng sản của Trung Quốc. Cụ thể là :
Xuất nhập khẩu khoáng sản của Trung Quốc trong ba quý đầu năm 2010
tăng mạnh. Thứ trưởng Bộ Đất đai và Tài nguyên Trung Quốc Uông Dân
cho biết kim ngạch xuất nhập khẩu khoáng sản trong 9 tháng đầu năm tăng
49% so với cùng kỳ năm trước, đạt 524 tỷ USD.
Phát biểu tại Hội nghị và Triển lãm khai thác khoáng sản Trung Quốc lần
thứ 12 tổ chức ở Thiên Tân ngày 16/11, ông Uông Dân cho biết kim ngạch
xuất khập khẩu khoáng sản hiện chiếm 1/4 tổng kim ngạch thương mại của
nước này, trong đó nhập khẩu tăng 49,5% và xuất khẩu tăng 47,7%.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, tổng kim ngạch thương
mại của nước này đạt 2.149 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm, trong đó nhập
khẩu tăng 42% và xuất khẩu tăng 34%. Nhập khẩu dầu thô tăng 24% so với

cùng kỳ năm trước lên 191 triệu tấn, nhập khẩu than tăng 42,2% lên 122
triệu tấn. Nhưng nhập khẩu quặng sắt giảm 2,5% xuống 458 triệu tấn.
Riếng đối với mặt hàng than
Theo số liệu chính thức của Hải quan Trung Quốc, lượng nhập khẩu than
của Trung Quốc trong tháng 1 đã giảm 2% so với tháng trước, xuống còn
16,07 triệu tấn nhưng vẫn gấp 5 lần cùng kỳ năm ngoái.
Việt Nam hiện nay đang là nhà cung cấp than đứng thứ 3 cho thị trường
Trung Quốc sau Indonesia và Australia. Giá than nhập từ Indonesia vào
Trung Quốc đạt trung bình 74 USD/tấn, giá than nhập từ Colombia giá 112
USD/tấn. Giá than Australia, bao gồm cả than nhiệt và than mỡ, giá trung
bình 164 USD/tấn. Giá than nhập từ Nga là 138 USD/tấn, còn giá nhập từ
Việt Nam là 72 USD/tấn.
Mức thuế nhập khẩu mà chính phủ Trung quốc áp dụng với các mặt hàng
than nhập vào từ Việt Nam là:
Đối vời than đá là 17%, than cốc là , than nhiệt là 15%, than mỡ là 12%,
than gỗ là 16%, than huyền là 15%, than quả bàng là 16%, than bùn là 10%
Ngoài ra tất cả các loại than trên đều phải chịu thuế xuất khẩu tại Việt Nam
là 20%.
2.4Lãi suất ngân hàng ơ TQ
Lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ, do vậy nó ảnh hưởng trực
tiếp tới nền kinh tế của một quốc gia. Sự tăng giảm của lãi suất lại ảnh
hưởng trực tiếp tới tỷ giá, do vậy ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu
của một quốc gia. Hiện tại, nền kinh tế Trung Quốc đang trong giai đoạn
tăng trưởng nóng, sau 3 năm cố gắng phục hồi nền kinh tế do khủng hoảng
Page 5 of 12

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
kinh tế thế giới thì cho đến giai đoạn này, các nhà kinh tế lại đang phải đối
mặt với tình hình lạm phát tăng cao. Lãi suất là công cụ đầu tiên mà chính

phủ sử dụng để điều tiết nền kinh tế. Từ tháng 10/2010 cho đến nay, Trung
Quốc đã 3 lần tăng lãi suất tiền vay và tiền gửi. Cụ thể như sau:
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tối 19/10 tuyên bố, kể từ ngày 20/10 sẽ
tăng lãi suất cơ bản huy động và cho vay đồng Nhân dân tệ của các cơ quan
tài chính-ngân hàng. Lãi suất huy động kỳ hạn một năm tăng 0,25%, từ
2,25% hiện nay nâng lên tới 2,5%. Lãi suất cho vay kỳ hạn một năm tăng
0,25%, từ 5,31% hiện nay nâng lên tới 5,56%; lãi suất huy động và cho vay
các loại kỳ hạn khác sẽ được điều chỉnh tương ứng. Chuyên gia kinh tế cho
rằng, khả năng nền kinh tế trượt dốc đã cơ bản loại trừ, nhưng áp lực tăng
giá và lạm plhát không ngừng gia tăng, tăng lãi suất là quyết định đúng đắn
của Ngân hàng Trung ương nhằm giữ gìn nền kinh tế phát triển ổn định,
khá nhanh và quản lý tốt lạm phát theo dự kiến.
Được biết, đây là lần tiên Ngân hàng Trung ương Trung Quốc tăng lãi suất
sau gần 3 năm. Lần tăng lãi suất gần đây nhất là tháng 12/2007. Để ứng
phó tính thanh khoản dồi dào và áp lực lạm phát, năm 2007 Ngân hàng
Trung ương Trung Quốc đã 6 lần tăng lãi suất huy động và cho vay. Từ
tháng 9/2009, để ứng phó khủng hoảng tài chính quốc tế, Ngân hàng Trung
ương Trung Quốc lại 5 lần giảm lãi suất cho vay và 4 lần giảm lãi suất huy
động.
Tháng 12/2010, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) thông báo từ
ngày 26/12 sẽ tăng lãi suất cơ bản thêm 0,25% đối với tất cả các khoản tiền
vay và tiền gửi có kỳ hạn một năm. Đây là lần thứ hai trong vòng hơn hai
tháng qua PBOC quyết định tăng lãi suất trong bối cảnh Bắc Kinh đang đẩy
mạnh các nỗ lực nhằm hạn chế hoạt động cho vay và kiềm chế tỷ lệ lạm
phát - vốn đã lên mức kỷ lục hồi tháng 11. Theo thông cáo được đăng tải
trên website của PBOC ngày 25/12, lãi suất huy động và lãi suất cho vay sẽ
được nâng lên lần lượt là 2,75% và 5,81%.
Ngay sau tuần nghỉ Tết Nguyên đán, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc
chiều 8/2 tuyên bố tăng lãi suất 0,25% và quyết định này có hiệu lực từ
ngày 9/2. Đây là lần tăng lãi suất lần thứ 3 kể từ năm 2010 đến nay. Theo

đó, lãi suất vay sẽ tăng từ 5,81%/ năm lên 6,06%/ năm; lãi suất tiền gửi
cũng tăng từ 2,75%/năm lên 3%/năm.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tối 19/10 tuyên bố, kể từ ngày 20/10 sẽ
tăng lãi suất cơ bản huy động và cho vay đồng Nhân dân tệ của các cơ quan
tài chính-ngân hàng. Lãi suất huy động kỳ hạn một năm tăng 0,25%, từ
2,25% hiện nay nâng lên tới 2,5%. Lãi suất cho vay kỳ hạn một năm tăng
0,25%, từ 5,31% hiện nay nâng lên tới 5,56%; lãi suất huy động và cho vay
Page 6 of 12

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
các loại kỳ hạn khác sẽ được điều chỉnh tương ứng. Chuyên gia kinh tế cho
rằng, hiện nay khả năng nền kinh tế trượt dốc đã cơ bản loại trừ, nhưng áp
lực tăng giá và lạm phát không ngừng gia tăng, tăng lãi suất là quyết định
đúng đắn của Ngân hàng Trung ương nhằm giữ gìn nền kinh tế phát triển
ổn định, khá nhanh và quản lý tốt lạm phát theo dự kiến.
Được biết, đây là lần tiên Ngân hàng Trung ương Trung Quốc tăng lãi suất
sau gần 3 năm. Lần tăng lãi suất gần đây nhất là tháng 12/2007. Để ứng
phó tính thanh khoản dồi dào và áp lực lạm phát, năm 2007 Ngân hàng
Trung ương Trung Quốc đã 6 lần tăng lãi suất huy động và cho vay. Từ
tháng 9/2009, để ứng phó khủng hoảng tài chính quốc tế, Ngân hàng Trung
ương Trung Quốc lại 5 lần giảm lãi suất cho vay và 4 lần giảm lãi suất huy
động.
Lãi suất tăng sẽ làm cho tiết kiệm tăng và đầu tư giảm, nó sẽ làm giảm
nhiệt của nền kinh tế và có tác dụng làm cho giá cả bớt leo thang. Lãi suất
tăng làm cho tiêu dung trong nước giảm do vậy mà nhập khẩu cũng sẽ
giảm. Đó chính là vấn đề đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của nước ta,
ngành than cũng vậy. Và việc mà một doanh nghiệp xuất khẩu phải làm đó
là phải theo dõi tình hình tăng trưởng kinh tế của đất nước mà chúng ta
đang làm ăn hoặc sẽ làm ăn, từ đó dự đoán chính sách tăng giảm lãi suất để

có được những bước đi đúng đắn và phù hợp trong thời gian hiện tại và
tương lai. Việc dự đoán được những biến động của lãi suất giúp cho các
nhà xuất khẩu của nước ta có thể dự đoán được xu hướng phát triển và đầu
tư của nền kinh tế, từ đó khám phá và phát hiện nhu cầu, mong muốn của
khách hàng toàn cầu, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, thức hiện hoạt
động bán hàng tốt hơn các đối thủ của mình, phối hợp tốt các hoạt đông
Marketing và nhận thức rõ những trở ngại đối với môi trường tòan cầu.
2.5 Tỷ giá hối đoái TQ với các đồng khác đặc biệt là đồng Việt và đồng
Usd
Năm 2010 được xem là một năm nổi bật về những thay đổi trong tỷ
giá hối đoái của Trung Quốc.
Những thay đổi trong chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc được thể
hiện qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1949 đến năm 1979. Trong giai đoạn này
Trung quốc thực hiện quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
chính phủ thống nhất và tập trung quản lý các hoạt động ngoại hối. Trung
quốc thực hiện chế độ tỷ giá cố định, ngân hàng nhân dân Trung quốc là
cơ quan duy nhất công bố tỷ giá mua bán ngoại tệ của cả nền kinh tế. Giai
Page 7 of 12

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
đoạn này nền kinh tế Trung quốc gặp nhiều khó khăn nếu như không muốn
nói là trì trệ.
Giai đoạn thứ hai: Từ năm 1979 đến năm 1993. Năm 1979, Trung quốc
tiến hành cải cách kinh tế. Nhiều chính sách kinh tế mới được ban hành
nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Chính phủ Trung
quốc bảo lãnh việc cân đối ngoại tệ cho các dự án xuất khẩu thu ngoại tệ.
Để phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế, chế độ tỷ giá cũng có thay
đổi, bên cạnh tỷ giá chính thức do ngân hàng nhân dân Trung quốc công

bố, sử dụng để hạch toán, tính thuế xuất nhập khẩu, Trung quốc cho phép
một loại tỷ giá thứ hai được tồn tại, sử dụng để mua bán, giao dịch trên thị
trường ngoại tệ. Năm 1991, Trung quốc chuyển từ tỷ giá cố định sang chế
độ tỷ giá thả nổi có quản lý, duy trì hai loại tỷ giá. Do tỷ giá thị trường biến
động mạnh đã tạo ra khoảng cách giữa hai loại tỷ giá. Đến năm 1993, thị
trường giao dịch hối đoái giữa các doanh nghiệp phát triển, làm cho chênh
lệch giữa hai loại tỷ giá càng gia tăng. Trong thời gian này các doanh
nghiệp được phép giữ lại một phần ngoại tệ để sử dụng. Kết quả là ngoại tệ
tập trung vào nhà nước ít hơn so với khu vực dân cư nắm giữ, Trung quốc
gặp khó khăn trong việc cân đối ngoại tệ.
Giai đoạn thứ ba: Từ năm 1994 lại đây. Để khắc phục các khó khăn do thị
trường tự phát gây nên, để thực hiện kế hoạch mở cửa kinh tế đối ngoại,
đồng thời tạo điều kiện cải thiện cán cân thương mại, Trung quốc đã đưa tỷ
giá chính thức lên ngang bằng với tỷ giá thị trường. Việc điều chỉnh thống
nhất hai loại tỷ giá được thực hiện từ ngày 01/01/1994. Trung quốc đã cho
đồng nhân dân tệ phá giá tới 35%, tỷ giá chính thức được điều chỉnh từ
mức 5,7 NDT/USD lên 8,7 NDT/USD. Kèm theo đó là các quy định xóa bỏ
chế độ tự giữ ngoại hối, các doanh nghiệp thực hiện chế độ kết hối ngoại tệ
100%, các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ thanh toán hàng nhập khẩu
được mua ngoại tệ tại các ngân hàng được phép. Riêng các giao dịch phi
thương mại không được phép mua ngoại tệ của các ngân hàng. Trung quốc
cho phép thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với trung tâm chính
tại Thượng Hải và một số chi nhánh tại các thành phố lớn để thực hiện các
giao dịch giao ngay trên thị trường. Từ năm 1994 đến nay Trung quốc đã
thực hiện chuyển đổi tỷ giá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, tuy nhiên trên thực tế Trung quốc vẫn thực hiện cơ chế tỷ giá cố định
gắn với đồng USD.
Những thay đổi của chính sách tỷ giá bắt đầu từ năm 1994 lại đây đã
góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Trung quốc. Trước
năm 1994, Trung quốc luôn bị thâm hụt thương mại, cán cân vãng lai thiếu

ổn định. Từ năm 2003 lại đây, cán cân thương mại Trung quốc luôn duy trì
mức tăng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu, đến năm 2008, tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu vượt lên đứng thứ ba thế giới, chỉ sau Mỹ và Đức. Đến cuối
Page 8 of 12

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
năm 2009, Trung quốc đã thay thế Đức trở thành nền kinh tế xuất khẩu
hàng đầu thế giới sau Mỹ. Trung quốc vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng
GDP cao trong nhiều năm liên tục, tính đến cuối năm 2008 đã vươn lên vị
trí thứ ba thế giới sau Mỹ và Nhật, năm 2009 vẫn đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP
trên 8%. Dự trữ ngoại hối của Trung quốc đứng đầu thế giới…
Các nước châu Âu, Mỹ và Nhật bản cho rằng Trung quốc đang sử
dụng chính sách tỷ giá thấp nhân tạo để đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm với
giá rẻ hơn sang các nước, làm mất cân đối nghiêm trọng thị trường vốn, tài
chính quốc tế, đây là nguyên nhân chính gây nên khủng hoảng. Ngày càng
nhiều nước phản đối chính sách tỷ giá của Trung quốc
Kể từ ngày 19/6/2010, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã áp
dụng tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn, theo đó, đồng Nhân dân tệ đã tăng 3,7%
so với đồng USD. Bộ Tài chính Mỹ cho biết do tỷ lệ lạm phát của Trung
Quốc cao hơn của Mỹ nên đà tăng giá của đồng Nhân dân tệ so với đồng
USD thực tế diễn ra nhanh hơn, khoảng 10%/năm.
Trung Quốc hiện là một nền kinh tế phát triển nhanh, là một thị
trường tiêu thụ khổng lồ nên những thay đổi trong tỷ giá hối đoái của TQ
có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế của các nước khu vực và trên thế giới.
Đặc biệt là các quốc gia có nhiều hàng nhập khẩu hay cạnh tranh trực tiếp
với trung quốc.
Tác động của tỷ giá hối đoái Trung Quốc đến Việt Nam (Chủ
yếu là qua hoạt động xuất nhập khẩu)
1. Đối với Việt Nam, nhân dân tệ tăng giá sẽ giúp cho các sản phẩm cùng

loại của Việt Nam không phải cạnh tranh quá quyết liệt về giá với
hàng hóa của Trung Quốc. Việt Nam cũng có thêm lợi thế trong việc
thu hút đầu tư nước ngoài do chi phí sản xuất tại Trung Quốc tăng.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam thì
quyết định tăng giá nhân dân tệ chưa làm thay đổi cán cân thương mại giữa
hai nước trong ngắn hạn, do nhiều mặt hàng của Trung Quốc vẫn quá rẻ so
với hàng hóa sản xuất trong nước. Nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu bao
gồm hàng tiêu dùng thiết yếu, nguyên phụ liệu và một số máy móc, trong
khi xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu thô, nông sản thực
phẩm tiểu ngạch giá trị rất thấp và không ổn định, nhập siêu từ Trung Quốc
luôn ở mức cao và thường chiếm khoảng 70-80% tổng lượng nhập siêu
hàng năm của Việt Nam.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, giá trị nhập khẩu hàng hóa từ Trung
Quốc vào Việt Nam trong năm tháng đầu năm 2010 đạt 7,37 tỉ đô la Mỹ,
chiếm 23,32% tổng giá trị nhập khẩu. Riêng nhập siêu từ Trung Quốc đã
Page 9 of 12

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
lên tới gần 5,05 tỉ đô la Mỹ, xấp xỉ 90% tổng mức thâm hụt thương mại
trong năm tháng qua.
2. Hàng hóa của Trung Quốc đắt lên sẽ hạn chế nhập khẩu, nhất
là đối với các nguyên phụ liệu sản xuất, máy móc trang thiết bị nhập khẩu
chính ngạch, giá nhập khẩu đầu vào cao thì sản phẩm làm ra cũng sẽ bị đắt
lên và các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đánh giá tác động của sự kiện
này tới chi phí sản xuất, nhất là đối với ngành dệt may và chế biến gỗ mỹ
nghệ, là hai ngành phụ thuộc nặng nề vào nguồn nguyên liệu nhập từ Trung
Quốc.
3. Trong dài hạn, nhân dân tệ tăng giá sẽ buộc các doanh nghiệp
Việt Nam phải điều chỉnh và tìm kiếm thị trường mới, nhất là khi đồng

euro và nhiều đồng tiền khác mất giá mạnh so với đô la Mỹ, trong khi hàng
hóa nhập khẩu từ khu vực này thường có chất lượng cao hơn với thủ tục
minh bạch và rõ ràng hơn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam
thích ứng với cơ chế hoạt động bài bản trong nền kinh tế thị trường đích
thực, hàng xuất khẩu sang những thị trường này cũng cho doanh thu cao
hơn.
Có thể nói, nhân dân tệ tăng giá chỉ có tác dụng giảm nhẹ căng thẳng
giữa các đối tác thương mại và thể hiện cam kết của Trung Quốc trong việc
tái cân bằng kinh tế toàn cầu, nhưng tác dụng này chưa đủ lớn để có thể
gây xáo trộn trên thị trường tài chính thương mại toàn cầu, ngoại trừ tác
động tâm lý. Đối với Việt Nam, nhân dân tệ tăng giá buộc các doanh
nghiệp phải điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu và chuyển hướng sang
những thị trường khác, các doanh nghiệp cần theo dõi diễn biến tỷ giá và
thị trường quốc tế để xây dựng chiến lược phát triển dài hạn.
Trung quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt nam với tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng cao trong nhiều năm qua. Tổng kim
ngạch mậu dịch hai chiều tăng nhanh, bình quân khoảng 40%/năm. Năm
2008 con số này đạt 21,659 tỷ USD, năm 2009 đạt 20,751 tỷ USD, hết quý
I năm 2010 là 5,37 tỷ USD, tăng 37,8% so với cùng kỳ năm trước. Tuy
nhiên nhập siêu của Việt nam từ thị trường Trung quốc ngày càng lớn về
giá trị, năm 2005 nhập siêu là 2,82 tỷ USD, năm 2007 là 9,15 tỷ USD, năm
2008 là 11,12 tỷ USD, năm 2009 11,53 tỷ USD, và quý I năm 2010 là 2,55
tỷ USD. (Nguồn: Tổng cục thống kê). Mặt khác nhập siêu từ Trung quốc
chiếm phần lớn tổng nhập siêu của Việt nam, theo số liệu của bộ công
thương công bố và báo cáo tổng hợp của tác giả Nguyễn Duy Nghĩa,
nguyên Phó Văn phòng bộ Thương mại cho thấy tỷ lệ nhập siêu từ Trung
quốc so với nhập siêu của cả nước đã và đang duy trì ở mức rất cao, năm
2001 là 18,7 %, năm 2007 là 73,7%, năm 2008 là 69,8%, năm 2009 là
Page 10 of 12


Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
97,1% và dự đoán năm 2010 là 94,4%. Đây thực sự là những khó khăn của
ngoại thương nước ta, trong khi ta luôn xuất siêu với các thị trường như
Mỹ, Anh, Đức, Úc, song nhập siêu từ thị trường Trung quốc ngày một tăng
và duy trì ở mức cao chưa từng có. Do đó, muốn hạn chế nhập siêu của
Việt nam thì phải có những biện pháp thực sự hiệu quả để giảm thâm hụt
thương mại với Trung quốc.
Các biện pháp cần thiết để giảm nhập siêu với Trung quốc:
Thứ nhất: Việt nam cần tăng cường quản lý và phân công các cửa khẩu
chuyên nhập hàng Trung quốc, như cách làm mà Trung quốc đã thực hiện
với hàng xuất khẩu của Việt nam.
Thứ hai: Cần Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa, an toàn thực
phẩm đối với hàng nhập từ Trung quốc, bằng cách bố trí đủ lực lượng cán
bộ kiểm tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu từ Trung quốc, đồng thời đưa
ra các tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa theo tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ ba: Cần tăng cường công tác quản lý chống nhập lậu, buôn lậu tại các
vùng biên giới giáp với Trung quốc.
Thứ tư: Cần thực hiện chính sách tỷ giá, tiền tệ phù hợp với tình hình thực
tế của Việt nam. Cơ chế điều hành tỷ giá của chúng ta không theo tỷ giá thả
nổi, không theo tỷ giá cố định, chúng ta phải điều hành tỷ giá linh hoạt, dựa
trên quan hệ cung cầu và có sự điều chỉnh của nhà nước.
Thứ năm: Về trung, dài hạn cần thực hiện các biện pháp điều chỉnh cung,
để giảm hệ số sử dụng hàng nhập khẩu. Cụ thể là cần có biện pháp để dịch
chuyển từ công nghiệp gia công, lắp ráp, sang công nghệ cao phục vụ xuất
khẩu. Cần có chính sách ưu tiên khuyến khích đầu tư vào các ngành sản
xuất máy móc thiết bị thay thế hàng nhập khẩu để hạn chế nhu cầu nhập
khẩu lớn cho mặt hàng này.
Việc giảm thâm hụt thương mại nói chung và giảm thâm hụt thương mại
với Trung quốc nói riêng là vấn đề cấp bách đối với Việt nam, nhất là trong

bối cảnh cạnh tranh tranh thương mại quốc tế ngày càng gia tăng. Chỉ khi
nào chúng ta cải thiện được cán cân thương mại, khắc phục được những
điểm yếu về cơ cấu thương mại, cơ cấu mặt hàng, cơ cấu sản xuất sản phẩm
thay thế…thì các chính sách về tỷ giá, tiền tệ mới có thể phát huy đầy đủ
được tác dụng.
Kết luận( Hoài chưa nộp nhé)
Page 11 of 12

Phân tích những ảnh hưởng của môi trường kinh tế lên hoạt động
marketting quốc tế của doanh nghiệp Việt
Tài liệu tham khảo
Page 12 of 12

×