Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Tuyển chọn 20 đề văn nghị luận hay lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.37 KB, 53 trang )

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Tuyển chọn 20 đề văn nghị luận hay lớp 9
Đề 1: Trong truyện “Người con gái Nam Xương”, nhân vật Trương Linh vội
tin câu nói ngây thơ của con trẻ đã nghi oan cho Vũ Nương ruồng rẫy và đánh đuỗi
nàng đi. Vũ Nương bị oan ức nên nhảy xuống sông tự vẫn.
Em hãy đọc kĩ lại tác phẩm và tìm xem có những chi tiết nào trong truyện tác
giả muốn hé mở khả năng có thể tránh được thảm kịch đau thương cho Vũ Nương.
Những nguyên nhân nào làm cho thảm kịch đó vẫn diễn ra dẫn đến cái chết đau
thương cũa người phụ nữ đức hạnh?
Em hãy bình luận về nguyên nhân cái chết đó.
HƯỚNG DẪN
1. Đọc kĩ tác phẩm, nắm vững chi tiết, độc lập suy nghĩ để tìm ra những chi tiết
mà đề yêu cầu. Tài thắt nút và mở nút là ở chỗ ấy. Mỗi em tìm tòi theo cách của
mình miễn là hợp lí.
2. Bình luân về nguyên nhân cái chết của Vũ Nương. Có nguyên nhân trực tiếp do
tính nết cá nhân của Trương Linh và nguyên nhân sâu xa của chế độ xã hội từ đó
tìm ra ý nghĩa tố cáo và nhân đạo của tác phẩm.
BÀI VIẾT THAM KHẢO
“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta thế kỉ
XVI, một tập truyện văn thơ đầu tiên bằng chữ Hán ở Việt Nam. Truyện “Người con
gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm.
Truyện kể rằng, Vũ Thị Thiết là một phụ nữ đức hạnh ở Nam Xương, chồng
là Trương Linh, người nhà giàu nhưng không có học, tính lai đa nghi. Triều đình bắt
lính, Trương Linh phải tòng quân trong khi vợ đang mang thai. Chồng đi xa mới
được mười ngày thì nàng sinh con trai đặt tên là Đản. Năm sau, giặc tan, việc quân
kết thúc, Trương Linh trở về thì con đã biết nói, nhưng đứa trẻ nhất định không nhận
Trương Linh làm bố. Nó nói: “Ơ hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết
nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ thin thít. Trước đây thường có một ông
đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ
bế Đản cả.”


nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Tính Trương Linh hay ghen, nghe con nói vậy đinh ninh rằng vợ hư, đã vu
oan cho Vũ Nương, ruồng rẫy và đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức đã nhảy
xuống sông tự vẫn.
Đọc kĩ tác phẩm, em thấy truyện không phải không hé mở khả năng có thể dễ
dàng tránh được thảm kịch đau thương đó. Tài kể chuyện của tác giả là ở chỗ đó, cởi
ra rồi lại thắt vào đẫy câu chuyện đi tới, khiến người đọc hứng thú theo dõi và suy
nghĩ, chủ đề của tác phẩmtừng bước nổi lên theo dòng kể của câu chuyện. Lời con
trẻ nghe như thật mà chứa đựng không ít điều vô lí không thể tin ngay được, nếu
Trương Linh biết suy nghĩ, người cha gì mà lạ vậy: “không biết nói, chỉ nín thin
thít” chẳng bao giờ bế con mình, mà hệt như “cái máy” - “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ
Đản ngồi cũng ngồi”. Câu nói đó của đứa trẻ chẳng phải là một câu đố, giảng giải
được thì cái chết của Vũ Nương sẽ không xảy ra. Nhưng Trương Linh cả ghen, ít
học, thiếu suy nghĩ, đã vô tình bỏ dở khả năng giải quyết tấm thảm kịch, dẫn tới cái
chết oan uổng của người vợ mà chàng không phải không có tình yêu thương. Tất
nhiên sự đời có thế mới thành chuyện, vả lại trên đơì làm gì có sự ghen tuông sáng
suốt.
Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chỉ cần Trương Linh
kể lại lời con nói mọi chuyện sẽ rõ ràng. Vũ Nương sẽ chứng minh cho chồng rõ ở
một mình nàng hay đùa với con trỏ vào bóng mình và nói là cha Đản. Mãi sau này,
một đêm phòng không vắng vẻ, ngồi buồn dưới bóng đèn khuya, chợt người con chỉ
vào bóng mình trên vách mà bảo đó là cha nó, Trương Linh mới tỉnh ngô, thấu hiểu
nỗi oan của vợ thì mọi chuyện đã xong. Vũ Nương không còn nữa trên đời.
Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà, một vụ
ghen tuông. Không ít tác phẩm xưa nay đã viết về cái chuyện thường tình đầy tai
hoạ này. Vũ nương không may lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân trực tiếp
dẫn nàng đến cái chết bi thảm là “máu ghen” của người chồng nông nổi. Nhưng sự
thực vẫn là sự thực!cái chết oan uổng quá và người chồng độc đoán quá!
Một phụ nữ đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng mà bị nghi oan bởi một chuyện
không đâu ở một lời con trẻ, một câu nói đùa của mẹ với con mà phải tìm đến cái

chết bi thảm, ai oán trong lòng sông thăm thẳm. Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài
khuôn khổ cuả một gia đình, nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh
của con người trong một xã hội mà những oan khuất, bất công, tai hoạ có thể xảy ra

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
bất cứ lúc nào đối với họ mà những nguyên nhân dẫn đến nhiều khi rất lạ lùng
không thể lường trước được. Đó là xã hội phong kiến ở nước ta, nhất là ở thời nó đã
suy vong. Xã hội đó đã sinh ra những chàng Trương Sinh, những người đàn ông đặc
đầu óc “nam quyền”, chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. Tính ghen tuông
của cá nhân cộng với tư tưởng “nam quyền” trong xã hội đã làm nên một Trương
Sinh độc đoán đến kỳ cục, khư khư theo ý riêng, nhất thiết không nghe ý kiến của
người khác. Đứa trẻ nói thì tin ngay, còn vợ than khóc giãi bày thống thiết thì nhất
định không tin, họ hàng, làng xóm phân giải công minh cũng chẳng ăn thua gì. Hậu
quả là cái chết thảm thương của Vũ nương mà nguyên nhân sâu xa là chế độ phong
kiến bất công cùng chế độ “nam quyền” bất bình đẳng của nó đã gây ra bao nhiêu tai
hoạ cho người phụ nữ nói riêng và con người thời đó nói chung.
Đề 2: Phân tích truyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
BÀI VIẾT THAM KHẢO:
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ
XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “ Chuyện
người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh
Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ,
hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa.
Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên
đánh mắng đuổi đi. Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông
Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu
vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập
đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long

Cung.
Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng
ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện vờ ghen vớ vẩn của người chồng
nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình.

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc
lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư
dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn
phép, không để vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi
chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượi đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động,
nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày
tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm
mong ước được đoàn tụ làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, “cách
biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi
thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể
nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc
khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ
đẻ mình).
Rồi đằng đẳng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị
nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con
kẻ khó mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân
phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách
hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có
bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống
thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”.
Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu
không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá
Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giải bày,

cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời
khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh
bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ.
Nhựợc bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên
xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ ” lời khấn nguyện
đã làm cho người đọc xót xa - con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục
sống để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ
đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng
nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của
nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam
- một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực
hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun
đắp hạnh phúc gia đình, lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một
cách oan uổng, đau đớn.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực
nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ
thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo,
gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng
(thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng
“nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa
quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương
Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua
đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ
kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một người đàn

ông đêm nào cũng đến ”
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy.
Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của
vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen
hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành
động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một
thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt
trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều
khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau
nỗi oan của người thiếu phụ Nam xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “Truyện Kiề”u của Nguyễn Du,
người cung nữ trong “cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ
duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương,
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn
Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những
đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật
bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét
thảm khốc.
“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật
của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu
óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của
một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong
trắng, phải kết thúc bi thảm trêm một dòng sông.
“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của
chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên gây thảm
kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp

xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc hoạ diễn biến
tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải ; lời
lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình - lời
của người phụ nữ hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật
thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh
tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ
Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ
chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những
giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và
hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền
gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những
yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan
Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
sông đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ
thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền
kì không thể cứu được cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương
muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà
không thể trở về được.
Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa
nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong
xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy
rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp
hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng
con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của thời đại mới.
Đề 3: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ.

BÀI THAM KHẢO:
“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước
ta ở thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm truền kì mạn
lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là vũ nương, một phụ
nữ đếp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ
của chồng mình.
Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI.
Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng
người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ “miếu vợ chàng
Trương”:
“Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương “
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ
nương - người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến ta xúc
động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.
Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nươn và dễ
dàng nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với
mẹ chồng và chồng rất phải đạo và là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu
đức khiêm tốn.
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một
người vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và cho dù
Trường Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức.
Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia
đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ ít học như
chồng mình.
Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hạnh động và lời lẽ đưa tiễn

chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng mong
chàng ái gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi” , “thư
tính, nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa ”, “ là chi tiết cho cái “công-dung-ngôn-
hạnh” mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành.
Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến
chúng ta phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của
Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng
của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc
thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời.
Vũ nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa với chồng.
Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất
là trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ
Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được thể
hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: “xanh kia sẽ chẳng
phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ “
Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng
thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ
Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn
bó. Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường
gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là
nguyên nhân gây ra cái tội thậtt vô tình).
Nôi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc
đoán, phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời
đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông
vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà
con, cô bác, trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư” , mối nghi ngờ càng

ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ
rồi “đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh
trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất
vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Không có cách nào để giãi bày, thất
vọng bởi hạnh phúc - niềm vui “nghi gia nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm
đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép
bởi không thể giải bày được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ
phai mờ đi trong tâm trí của chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội
tình gì. Mãi đến sau cái chết đo, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình.
chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi
dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ
nữ “Bảy nổi, ba chìm” đã phải sống trong cảnh đời như vậy:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói nghen tuông
ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông- người chồng vô học, đa nghi như Trương
Sinh- là lời tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công-
“chế độ nam quyền” dưới thời phong kiến ngự trị.
Vũ Nương trong truyện là một nhân vật rất đẹp, theo đúng quan niệm đặc
điểm truyền thống, nhưng phải chịu nổi oan tày trời và phải chứng thực sự vô tội của
mình bằng cái chết. Cái chết đau đớn bất công, chỉ vì sự hiểu nhầm, từ một câu nói

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
thơ ngây của con trẻ mà người chồng Trương Sinh đã nghi oan, đã làm mất đi người
vợ quý trên đời. Nguyên nhân sâu xa của bi kịch nát lòng này chính là do chiến
tranh loạn lạc và lễ giáo phong kiến trọng nam quyền trong xã hội ngày trước.
Đề 4: Phân tích bài thơ “Đồng chí” của chính Hữu ( Ngữ văn 9 - Tập 1).
HƯỚNG DẪN CÁCH VIẾT:

Bài thơ “Đồng chí” ra đời vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc của
quân và dân ta đánh thắng cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp cuối năm
1947 lên khu căn cứ địa Việt Bắc. Nhà thơ Chính Hữu lúc đó là chính trị viên đại
đội thuộc trung đoàn Thủ đô, cùng đơn vị của mình tham gia chiến đấu suốt chiến
dịch. Đầu năm 1948 Chính Hữu viết bài thơ này. Bài thơ là kết quả của những trãi
nghiệm thực va những cảm xúc sâu xa của tác giả với đồng đội trong chiến dịch Việt
Bắc. Bài thơ nói về tình đồng đội, đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người
lính cách mạng mà phần lớn họ xuất thân từ nông dân. Đồng thời bài thơ cũng thể
hện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đầu của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn thiếu thốn.
Bài thơ” Đồng Chí” viết theo thể thơ tự do, với hai mươi dòng thơ, chia làm
ba đoạn. Cả bài thơ đều tập trung vào thể hiện chủ đề về tình”Đồng Chí”.
Cái bắt gặp đầu tiên của những người lính là từ những ngày đầu gặp mặt. Họ
đều có sự tương đồng về cảnh ngộ nghèo khó ”quê hương anh nước mặn đồng
chua, lành tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Những người lính là những người của làng
quê nghèo lam lũ, vất vả với cày cấy, ruộng đồng với những làng quê khác nhau. Họ
từ các phương trời không hề quen nhau ”từ muôn phương về tụ hội trong hàng ngũ
của những người lính cách mạng”. Đó chính là cơ sở của tình đồng chí sự đồng cảm
giai cấp của những người lính cùng chung nhiệm vụ chiến đấu để giải phóng quê
hương, đất nước. Diễn đạt ý nghĩa đó, tác giả đã diễn tả bằng hình ảnh:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”.
“Súng - đầu” sát bên nhau là tượng trung cho ý chí và tình cảm, cùng chung lí
tưởng, nhiệm vụ chiến đấu, sát cánh bên nhau. Tình đồng chí, đồng đội nảy nở và
hình thành bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui.
Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả đã biểu hiện bằng một

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
Sau câu thơ này, nhà thơ hạ một câu, một dòng thơ, hai tiếng “Đồng chí” vang lên
như một “nốt nhấn”, là sự kết tinh của mọi cảm xúc, mọi tình cảm. Câu thơ “Đồng

chí” vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, đồng thời lại như một cái bản
lề gắn kết đoạn đầu với đoạn thứ hai của bài thơ. Dòng thơ hai tiéng “Đồng chí”
như khép lại, như lắng sâu vào lòng người cái tình ý sáu câu thơ đầu của bài thơ,
như một sự lí giải về cơ sở của tình đồng chí. Sáu câu thơ trước hai tiếng “Đồng
chí” ấy là cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí keo sơn giữa những người
đồng đội.
Mạch cảm xúc và suy nghĩ trong bài thơ được triển khai trong đoạn thơ thứ
hai là những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí và sức mạnh của tình đồng chí. Sự
biểu hiện của tình đồng chí và sức mạnh của nó được tác giả gợi bằng hình ảnh ở
những câu thơ tiếp:
“ Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”
“Đồng chí”- đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau. Ba
câu thơ trên đưa người đọc trở lại với hoàn cảnh riêng của những người lính vốn là
những người nông dân đó. Họ ra đi trở thành những người lính nhưng mỗi người có
một tâm tư, một nỗi lòng về hoàn cảnh gia đình, người thân, công việc đồng quê. Họ
gửi lại tất cả cho hậu phương, gửi bạn thân cày cấy ruộng nương của mình. Họ nhớ
lại những gian nhf trống không “mặc kệ gió lung lay”. Nhưng đành để lại, đành gửi
lại, họ phải ra đi vì nghĩa lớn “cứu nước, cứu nhà.”
Giờ ở tiền tuyến, họ nhớ về hậu phương với một tình cảm lưu luyến khó quên.
Hậu phương, tiền tuyến (người ở lại nơi giếng nứơc, gốc đa)không nguôi nhớ
thương người thân của mình là những người lính nơi tiền tuyến. Tuy dứt khoát,
mạnh mẻ ra đi nhưng những người lính không chút vô tình. Trong chiến đấu gian
khổ, hay trên đường hành quân họ đều nhớ đến hậu phương- những người thân yêu
nhất của mình:
“ Ôi! Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồi hồi nhớ mắt người yêu”
(Nguyễn Đình Thi)


nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
“Đồng chí”-đó là cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người
lính với những hình ảnh chân thực, xúc động, gợi tả và gợi hình (từng cơn ốm lạnh
sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi,áo rách vai, quần vài mãnh vá, miệng cười buốt
giá, chân không giày) những ngày tháng ở rừng.
Để diển tả được sự gắn bó, chia sẻ, sự giống nhau vế cảnh ngộ người lính tác
giả đã xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng với nhau trong từng cặp, từng câu:
“ Anh với tôi biết từng cơn ốm lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”

Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Sức mạnh nào đã giúp họ vượt qua tất cả?
Hình ảnh” thương nhau tay nắm lấy bàn tay” biểu hiện thật giản đị và xúc
động của tình cảm đồnh chí, đồng đội thiêng liêng của những người lính. Tình cảm
đó là nguồn sức mạnh và niềm vui để họ vượt qua. Cái “bắt tay”(như bàn tay biết
nói) chính là tình cảm của người lính truyền cho nhau sức mạnh và niềm tin để họ
vượt qua tất cả những gian lao, thiếu thốn, thử thách trong chiến đấu.
Tình đồng chí, đồng đội còn biểu hiện ở sự thử thách. Đoạn thơ cuối thật cô
đọng bằng hình ảnh khi nhà thơ viết:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Đây là một bức tranh đẹp của tình đồng chí, đồng đội- một bức tranh đặc sắc
và có ý nghĩa.
Bức tranh trên là mội cảnh thực trong mội đêm phục kích “chờ giặc tới” tại
một cảnh ”rừng hoang sương muối” hoang vắng lạnh lẻo nổi bập lên ba hình ảnh
gắn kết với nhau ”vầng trăng khẩu súng và người lính” vầng trăng như treo khẩu
súng của người lính. Người lính thì “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.
Câu thơ “đầu súng trăng treo” (chỉ có 4 chữ) gây cho người đọc một sự bất

ngờ lí thú “ súng và trăng” sao lại hoà quỵên vào nhau đẹp thế! Hình ảnh thơ nói

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
lên ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của anh bộ đội cụ Hồ trong
những năm đầu khánh chiến chống Pháp.
Bài thơ có ba khổ, ba tứ thơ, chủ yếu tạo thành ý chung xuyên suốt toàn bài
thơ “Đồng chí”.“Đồng ch í -thương nhau nắm lấy bàn tay - đầu súng trăng treo”
Bài thư hàm xúc, mộc mạc, chân thực trong sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, giợi
tả, có sức khái quát cao, khắc hoạ được một trong những phẩm chất tốt đẹp của anh
bộ đôi cụ Hồ. Đó là mối tình đồng chí, đồng đội gắn bó, keo sơn, thắm đượm tình
cảm, gian khổ có nhau, sống chết có nhau. Bài thơ có thực, có mơ toạ nên vẻ đẹp
của bài thơ, gây cho người đọc những suy tư sâu sắc những cảm xúc sâu lắng. Bài
thơ “Đồng chí” có những nét thành công trong việc khắc hoạ hình ảnh người lính
cách mạng trong thơ ca kháng chiến.
Đề 5: Phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”của Phạm Tiến
Duật
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ và lớn lên “trong sắc áo của anh bộ đội
Trường Sơn” giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ.
Tiếng thơ Phạm Tiến Duật hình thành và lớn lên với những bài thơ “ Trường
Sơn đông-Trường Sơn tây, lửa đèn, giửi em cô thanh niên xung phong, nhớ ”đã
góp phần trẻ hoá thơ Việt Nam thời chống Mỹ. Bài thơ “bài thơ về tiểu đội xe
không kính” được rút ra trong tập thơ “vầng trăng-quầng lửa” của tác giả. Trong
bài thơ tác giả đã xây dựng một hìng tượng độc đáo những “chiếc xe không kính”
chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận vì chiến trường miền Nam ruột thịt.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã giải thích vì sao tất cả xe trong tiểu đội đều “không
có kính” vì bom đạn giặc Mỹ làm “kính vỡ đi rồi”. Chỉ một chi tiết nhỏ “không có
kính vì xe không có kính-bom giật, bom rung kính vỡ mất rồi” tác giả đã làm cho
người đọc hiểu được sự ác liệt, tàn bạo của cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra.
Những chiếc xe này đã làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến

đường Trường Sơn trong những năm chống Mỹ cứu nước.
Thế mà, những người lính trên những chiếc “xe không kính” vẫn “ung dung
buồng lái ta ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng!”

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Thái dộ ung dung và “cái nhìn” của anh lái xe như bất chấp, coi thường tất cả
nguy hiểm ở phía trước mác dù “bụi phun tóc trắng như người già”, cho dù “mưa
tuôn mưa xối như ngoài trời” các anh vẫn “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hoặc
tếu táo “phì phèo châm điếu thuốc” hay “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Hình ảnh trong các câu thơ trên đã làm nổi rõ cái hiên ngang, dũng cảm, bất
chấp mọi nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe, để lái những chiếc xe không kính ra mặt
trận với một niềm tin niềm vui của tuổi trẻ.
Khung kính đã bị vỡ, không có gì để chắn gió trời ùa vào, đập thẳng vào mắt.
Thế mà, tác giả lại viết: “ nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng”.
“ Xoa” là cử chỉ nhẹ nhàng vuốt ve âu yếm. Qua cách diễn đạt của câu thơ thì
ở đây, gió không làm đau, làm rát mắt của người lái xe mà ngược lại gió còn vỗ về
nhè nhẹ vào đôi mắt “đắng”. Và, con đường trước mặt- con đường ra trận trở nên
gần sát hơn đang chạy ngược lại “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Vì
không có kính chắn, nên người lái xe có cảm giác và ấn tượng “Con đường chạy
thẳng vào tim”. Con đường thực trước mặt đó củng chính là con đường được nhà
thơ nâng lên thành con đường lý tưởng con đường cách mạng , con đường ở trong
trái tim của người chiến sĩ. Chính là con đường đó đã giúp cho cac chiến sĩ lái xe
thêm sức mạnh, niềm tin, bất chấp bom đạn của kẻ thù, tiến lên phía trước: “ Thấy
sao trời và đột ngột cánh chim- như sa như ùa vào buồng lái”. Người lái xe vẫn vui
với “ sao trời” và “Cánh chim”, “ sao trời và cánh chim” ngày đêm như bầu bạn
với người lính lái xe. Ngày cũng nhưu đêm, thiên nhiên, đất trời luôn sát cánh với
người chiến sĩ lái xe trên suốt chặng đường dài ra trận. Với nghệ thuật nhân hoá tài
tình, nhà thơ đã biến những khó khăn trở ngại khio lái những chiếc xe không kính
trở thành gần gủi gắn bó thân thương hơn. Giọng điệu thơ có khi thật ngang, tự
nhiên, bất chấp gian khổ được thể hiện rõ trong cấu trúc đựoc lặp lại “ Ừ thì ”,

“Chưa cần rửa”, “Chưa cần thay” , “Lái trăm cây số nữa ”. Dường như gian
khổ nguy hiểm, ác liệt của chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ,
trái lại, những người lính lái xe xem như là một nhịp để rèn thử thách sức mạnh và ý
chí của mình “ chí làm trai” -tuổi trẻ người lính”.
Những người lái xe còn là những chàng trai trẻ, sôi nổi, vui nhộn, lạc quan.
Họ “nhìn nhau”, “bát tay nhau”, và trên đường ra trận thì “ bếp Hoàng Cầm ta
dựng giữa trời- chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”, và cứ thế “ võng mắc chong

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
chênh đường xe chạy”, trước mắt họ những chiếc xe lại tiến lê phía trước, là ta cứ
đi, lại đi “trời xanh thêm” không có gì ngăn cản đuợc đường ra mặt trận.
Cái gì đẫ làm nên sức mạnh ở họ để coi thường gian khổ bất chấp gian nan
như vậy? Đó chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền nam là tình yêu nước nồng
nhiệt ở tuổi trẻ thời đánh Mỹ cứu nước.
Những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng trơ trụi, trụi trần ”Không
có kính rồi xe không đèn- không có mui xe, thùng xe có xước” Nhưng điều kì lạ là
những chiếc xe trụi trần ấy vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Tác giả lại một làn nữa
lí giải bất ngờ và rất chí lí: “chỉ cần trong xe có một trái tim” Trái tim người lính
cách mạng- trái tim của lòng quả cảm.
Với lời thơ tự nhiên như lời nói bình thường, giọng điệu thơ gần gủi, vui tươi,
dí dỏm, bài thơ đã nêu bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn: dũng
cảm hiên ngang, với niềm vui sôi nổi, lạc quan yêu đời bất chấp mọi khó khăn, nguy
hiểm để ra trận vì Miền Nam ruột thịt thân yêu. Họ luôn đối diện với khó khăn thử
thách, mà vẫn cười đùa, tếu táo, hồn nhiên, tự tin. Đó là nét đặc sắc của bài thơ cũng
như ngôn ngữ, giọng điệu riêng của thơ Phạm Tiến Duật. Hôm nay đất nước dã hoà
bình sau hơn 30 năm giải phóng Miền Nam con đường Trường Sơn đã đi vào lịch
sử, đọc lại bài thơ này, chúng ta càng tự hào và khâm phục biết bao các chiến sĩ lái
xe ở Trường Sơn ngày trước cùng bộ đội Trường Sơn đã góp phần vào chiến thắng
huy hoàng của dân tộc.
Đề 6: Cảm nhận của em về chân dung người lính lái xe trong “ Bài thơ tiểu

đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật
Phạm Tiến Duật là nhà thơ nổi lên từ phong trào chống Mỹ cứu nước. Năm
1964, tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Ông vào bộ đội và
xung phong vào tuyến lửa khu Bốn.
Từng là lính lái xe nên ông có những bài thơ viết rất hay về binh chủng này. “
Tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu.
Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã vượt lên hiện thực
dữ dội, ác liệt của khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ để hoàn thành nhiệm vụ.

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những chiếc xe, nói cho
đúng là cả một tiểu đội xe không có kính chắn gió, chắn bụi băng băng ra trận. Mà
độc đáo thật, vì chỉ gặp ở Việt Nam, ở những chiến sĩ lái xe quân sự thời chống Mỹ.
Có thể nói “chất” độc đáo này được lên men từ chiến trường ác liệt:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Nguyên nhân xe không kính là vậy. Đấy là mội hiện thực trần trụi mà tác giả
không thể hư cấu.
Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy là hình ảnh người lính lái xe hiện lên rất đẹp.
Cứ tưởng với hiện thực dữ dội, ác liệt, trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó tay, thế
nhưng vẫn nổi lên với tư thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Nghĩa là xe cứ đi. Không những ung dung mà người lính lái xe còn tỏ ra rất
chủ động, hiên ngang vượt lên tất cả.
Nói đến người lái xe là nói đến con mắt, nói đến cái nhìn. Tô đậm cái nhìn
của người lái xe, chỉ trong một dòng thơ, tác giả đã sử dụng 3 lần từ “nhìn” (điệp
từ). Nhìn trời là để phát hiện máy bay hay pháo sáng về ban đêm. Nhìn thẳng là cái
nhìn nghề nghiệp, hiên ngang. Và cũng từ ca - bin không kính, qua cái nhìn đã tạo
nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động, cụ thể đối với người lái xe:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay tượng trưng, đều thể hiện
cái thế ung dung tinh thần vượt lên của người lái xe.
Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được tô đậm. Cái tài của Phạm Tiến Duật
trong khổ thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì
hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn cảnh của người
lái xe trong thời gian chiến tranh ác liệt.
Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe
không có kính nên “ướt áo, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên.

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Những cụm từ “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo” chứng tỏ họ không những đã ý
thức được mà còn rất quen với những gian khổ đó.
Chính vì thế:
“Chưa cần lửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Và cao hơn:
”Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.”
Đây là những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh thần và cuộc
sống của người lính Các động tác “phì phèo châm điếu thuốc” tuy có vụng về nhưng
sao đáng yêu thế?. Cái cười “ha ha” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của mọi người
sao mà rạng ngời đến thế? Bởi vậy, đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần
nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là
cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, yêu đời
và tinh thần hoàn thành nhiệm vụ cao.
Hai khổ thơ tiếp nói về cảnh sinh hoạt và sự họp mặt sau những chuyến vận

tải trên những chặng “đường đi tới”. Vẫn những câu thơ có giọng điệu riêng, đậm
chất văn xuôi rất riêng của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tình đồng chí, đồng đội
trong kháng chiến. Ở hai khổ thơ này, tác giả vẫn tô đậm cái hình tượng thơ “xe
không kính”, nhưng lại có cách nói khác rất lính:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với chúng ta một điều
như một điều dự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe không kính mà tương lai còn là tiểu đội
xe không đèn, không mui xe, Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra còn hết sức
ác liệt, người lính lái xe còn phải đối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã, thử thách: “
Không có kính rồi xe không đèn, không có mui, thùng xe có xước” nhưng nhất định
họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ, sẽ chiến thắng bởi vì phía trước họ là miến Nam thân
yêu và vì họ sẵn có một nhiệt tình cách mạng, một trái tim quả cảm - trái tim người
lính Bác Hồ.
“ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Bài thơ là bức tượng đài nghệ thuật về người lính lái xe trong cuọoc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta.
Đề 7: Phân tích cảnh ra khơi của” Đoàn thuyền đánh cá” được miêu tả trong
bốn câu đầu trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận:
”Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào
năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng
Ninh. Bài thơ đã dụng được một không khí khẩn trương, hăng say của những người
lao động đánh cá trong một đêm trên biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả.

Bốn câu thơ đầu diển tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”, mở đầu cho một
đêm đánh cá trên biển.
Hai câu thơ đầu diển tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời
gian ở đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu
giá trị gợi cảm: ”Mặt trời xuống biển như hòn lửa-sóng đã cài then đêm sập cửa”.
Ơ câu thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Màu đỏ của “mặt trời” được so
sánh với “hòn lửa”. Viết về cảnh biển đêm, ngày tàn, nhưng cảnh vẫn không hoang
vắng nhờ hình ảnh rực sáng này. Trong cản quan của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi
nhà khổng lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn đêm buông xuống
“Đêm sập cửa” thì sóng biển như “then cài” đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Những
hình ảnh ẩn dụ này chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú.
Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đoàn thuyền đánh cá
thì đây lại là thời điểm bắt đầu cho công việc đánh cá trên biển trong đêm.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi trời yên biển lặng,
đoàn thuyền ra khơi đã thành một cảnh quen thuộc.

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồn cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây
dựng nhờ một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng
hát của những người lao động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng
hát khoẻ khoắn đến mức tạo nên một sức mạnh (cùng với gió khơi) làm căng những
cánh buồm. Họ ra khơi với một niềm phấn khởi, niềm tin vào thành quả lao động.
Bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Cảnh ngày
tàn mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động. Không
khí chung của bốn câu thơ mở đầu này chi phối không khí chung của cả bài thơ.
Đề 8: Phân tích bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá”của Huy Cận:
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm
1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng Ninh.

Thông qua một đêm đánh cá của một đoàn thyền trên biển, nhà thơ ca ngợi không
khí lao động mới, tràn đầy niềm lạc quan, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la.
Bài thơ đã dựng được không khí lao động khẩn trương, hăng say, nhộn nhịp
của miền Bắc những năm đầu bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bài thơ mở đầu bằng cảnh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” và kết thúc
bằng hình ảnh “Mặt trời đội biển như màu nước-mắt cá huy hoàng muôn dặm
khơi”. Như vậy là cảnh lao động của đoàn thuyền đánh cá diển ra trong một đêm
ròng. Thế nhưng, bài thơ là một bức tranh với những đường nét khoẻ khoắn, màu
sắc tươi sáng lạ thường. Đánh cá trên biển mênh mông thực chất là một công việc
lao động nặng nhọc, đầy nguy hiểm. Vậy mà cả bài thơ là một khúc ca sảng khoái,
tràn đầy niềm vui, phối hợp nhạc điệu với những động tác khoẻ mạnh, dồn dập. Bài
thơ lặp lại nhiều lần chữ “hát”, và tiếng hát đã thực sự trở thành âm thanh chủ đạo
của bài thơ.
Cùng với tiếng hát được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, trong bài thơ
này, tác giả còn tập trung miêu tả hình ảnh những con cá, những đàn cá gợi lên một
bức tranh sinh động về cảnh biển giàu, đẹp. Hình ảnh đàn cá liên tiếp suất hiện, lấp
lánh ánh sáng màu sắc như một bức sơn mài:
“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Đêm ngày đệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Cá nục cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em vẩy trắng vàng choé
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông”
Giữa khung cảnh biển đêm mênh mông, hình ảnh con người lao động xuất
hiện với tư thế làm chủ biển khơi, làm chủ công việc của mình. Hình ảnh họ
xuất hiện thật gân guốc, khoẻ khoắn: “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng - Ta kéo xoăn

tay chùm cá nặng”. Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã dựng lên hình ảnh
những người con lao động mới với tầm vóc ngang tầm vũ tru và hoà hợp với
khung cảnh trời nước bao la:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Trên cái không gian bát ngát, con thuyền có buồn là trăng, được lái bằng gió
lướt sóng đi phơi phới, gợi lên niềm vui niềm tự hoà chân chính của con người mới,
làm chủ thiên nhiên, hăng say lao động làm giàu cho Tổ quốc. Huy Cận đã nhìn
cảnh đánh cá trên biển khơi bằng con mắt lạc quan phơi phới của mình.
Sau một đêm đánh cá trên biển, bình minh lên, đoàn thuyền đánh cá lại trở về
bến bãi. Vẫn là câu hát nhưng đây là câu hát tràn ngập niềm vui của con người sau
một đêm lao động khẩn trương và đạt sản lượng mong muốn. Thiên nhiên như chia
sẻ niềm vui đó: ”Câu hát căng buốm cùng gió khơi” và cảnh trở nên vô cung sinh
động. Trên mặt biển mênh mông, đoàn thuyền lao vùn vụt: ”Đoàn thuyền chạy đua
cùng mặt trời”. Đoàn thuyền như chạy đua cùng với thời gian với niềm vui háo hức
để trở về với bến bờ đang nhộn nhịp đón chờ
Bài thơ là khúc ca sảng khoái của người lao động đánh cá, thể hiện niềm phấn
khởi trước những thành quả lao động của mình. Hình ảnh con người hiện lên trong

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
bài thơ là hình ảnh conngười mới làm chủ thiên nhiên, nhiệt tình lao động sản xuất
để làm giàu cho tổ quốc, gắn với biển cả quê hương.
Đề 9: Phân tích hình ảnh người mẹ Tà -ôi trong bài thơ “Khúc hát ru
những em bé trên lưng mẹ” (của Nguyễn Khoa Điềm)
Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm đời giữa những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước trên cả hai miền Bắc-Nam. Thời kì này, cuộc sống của cán bộ, nhân dân ta
trên các chiến khu (phần lớn là những vùng miền núi) rất gian nan, thiếu thốn. Cán

bộ, nhân dân ta phải bám rẫy, bám đất để tăng gia sản xuất, vừa sẳn sàng chiến đấu
bảo vệ căn cứ. Bài thơ là lời hát ru những em bé dân tộc Tà-ôi lớn trên lưng mẹ ở
vùng chiến khu Trị-Thiên trong thời kì chiến tranh chống Mỹ.
Hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ, qua từng đoạn thơ với từng khúc hát
ru được gắn với hoàn cảnh, công việc cụ thể.
Ơ khúc thứ nhất, người mẹ hiện lên với dáng tần tảo, lam lũ, vất vả với công
việc giả gạo nuôi bộ đội. Mẹ giã gao, con vẫn trên lưng mẹ. Câu thơ: “Vai mẹ gầy
nhấp nhô làm gối” thật cảm động. Mẹ gầy vì công việc giúp nuôi bộ đội đánh giặc.
Mẹ gầy vì nuôi cho con nhanh lớn. Nhưng trái tim của mẹ vẫn hát về ước mơ:
“Mai sau con lớn vung chày lún sân”
Trong khúc ru thứ hai, diễn tả công việc mẹ lên núi trỉa bắp. Câu thơ: “Lưng
núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” hình thành theo kết cấu đối lập làm nổi bật hình ảnh me
với công việc vất vả. Núi thì to, nương bắp thì rộng, mà sức mẹ có hạn. Trên lưng
mẹ, em vẫn ngủ say:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
Hình ảnh “Mặt trời” trong câu thơ sau được chuyển nghĩa (ẩn dụ): Cu Tai là
mặt trời của mẹ. Em còn là tất cả của mẹ, là lí tưởng, là hi vọng của mẹ. Mẹ mơ ước
về con:
“Mai sau lớn lên phát mười Ka-lưi”
Đến khổ thứ ba, lời ru đồn đập, mạnh mẻ, gấp rút, bởi “giặc Mỹ đến đánh”,
đuổi ta phải rời suối rời nương “Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối”. Mẹ phải

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
chuyển lán, đạp rừng , cùng tham gia đánh giặc. Mẹ đến chiến trường, em vẩn trên
lưng:
“Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trương Sơn”
Trong khói lửa của chiến tranh mẹ mong ước: “Mai sau con lớn làm người tự
do”.

Ba khúc hát ru cũng là ba đoạn thơ điển tả công việc cùng tấm lòng của mẹ ở
trong chiến khu gian khổ, người mẹ Tà-ôi trong bài thơ còn thắm thiết yêu con và
cũng nặng tình thương buôn làng, quê hương, bộ đội và khao khát mong cho đất
nước độc lập, tự do.
Lời ru gắn với tình yêu con tha thiết của người mẹ dân tộc Tà-ôi.
Lời ru thủ thỉ những điều đang diển tả trong thực tại mà người con chưa thể
biết:
“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”
Lời ru theo nhịp giã gạo, mỗi câu bị ngắt nhịp làm hai như theo nhịp chày,
nhịp thở. Hai mẹ con cùng chung một nhịp, mẹ làm việc, con ngủ ngon “Nhịp chày
nghiêng giấc ngủ em nghiêng”. Hai từ “Nghiêng” đứng trong một câu thơ thể hiện
niềm say mê của mẹ hoà cùng giấc ngủ của bé. Mẹ làm việc khổ cực trong hiện tại,
nhưng lời ru của mẹ cao vút đến ngày mai. “Mai sau con lớn vung chày lún sân!!
Lời ru trên nương khi trỉa bắp ở trên núi Ka-lưi, vẫn theo nhịp “chọc lỗ” trỉa
bắp nhưng hình ảnh lúc này thiên về đối lập “Lưng núi to- lưng mẹ nhỏ” và đối
xứng “Mặt trời của bắp- mặt trời của mẹ”, tất cả toát lên tình thương vô hạn của
người mẹ nghèo vẫn thương con, thương cách mạng, “mặt trời của mẹ em nằm trên
lưng”- người mẹ vừa chịu đựng cái nóng vừa tha thiết yêu thương.
Lời ru của mẹ không chỉ hướng vào thực tại mà còn hướng về tương lai:
“Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi
Mẹ thương A-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
Mai sau con lớn phát mười Ka-Lưi”
Khi chuyển lán, trong lời ru thứ ba, nhịp thơ vẫn ngắt đôi, mỗi dòng theo

bước chân đi nhưng lời thơ xếp theo lối hùn điệp, đuổi nhau giục giã, khẩn trương:
“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối

Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”.
Cũng như đoạn thơ trên, lời ru của mẹ hướng vào đất nước, hướng vào tương
lai chiến thắng”
“ Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi
Mẹ thương A-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người tự do”.
Tình yêu thương con của người mẹ gắn liền với tình cảm đối với cán bộ, xóm
làng, đất nước. Tình yêu của người mẹ Tà- ôi gắn liền với tình cảm cao đẹp khác.
Đó là lòng thương yêu bộ đội, yêu thương dân làng, yêu thương đất nước. Những lời
ru của người mẹ còn thể hiện ước mơ và ý chí của nhân dân ta. Người mẹ mong con
lớn lên giúp mẹ giã gạo “vung chày lún sân”, giúp mẹ trỉa ngô, làm rẫy “phát mười
Ka-lưi”. Đó là niềm mong ước mọi người được sống ấm no “hạt gạo trắng ngần,
hạt bắp lên đều”. Lời hát ru còn thể hiện ý chí chiến đấu, khát vọng tự do và niềm
tin vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người tự do ”
Bài thơ xây dựng hình ảnh người mẹ Tà-ôi, nuôi con thơ mà làm đủ mọi việc
cho công cuộc chống Mỹ, góp phần vào thắng lợi chung cho đất nước. Một người
mẹ tuy lao động nhọc nhằn mà ước mơ bay bổng, toát lên một niềm tin vững chắc
cho tương lai. Đây là một hình tượng hiếm có trong thơ ca cách mạng hiện đại, sánh
cùng với những hình tượng khác hình ảnh người mẹ khác trong hai cuộc chiến của
dân tộc ta đó là: mẹ Tơm, mẹ Suốt, người mẹ-người cầm súng Út Tịch đã góp nên
một bài ca của những người mẹ Việt Nam anh hùng: “Anh hùng, bất khuất, trung
hậu, đảm đang” với tám chữ vàng mà Bác Hồ trao tặng.


nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN
TRUYỆN KIỀU - NGUYỄN DU
Đề 10: Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong SGK ngữ văn 9,
tập I, em hãy phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của
Truyện Kiều.
Kiệt tác truyền Kiều của đại thi hào Ng.Du có 2 giá trị lớn là giá trị hiện thực
và giá trị nhân đạo. Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn
bạo (nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX - cuối Lê đầu Nguyễn), là tiếng nói của
thương cảm trước số phận (thời đại) bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo
những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những
khát vọng chân chính của con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do,
công lý, khát vọng tình yêu hạnh phúc
Tiếng nói nhân đạo ấy toát lên từ hình tượng nhân vật Thuý Kiều trong truyện
Thuý Kiều. Thuý Kiều là hiện thân của nổi đau và bất hạnh. Nàng là một người con
gái tài sắc, giàu tình cảm nhưng bị xã hội phong kiến vùi dập, đoạ đày.
Nhân vật Thuý Kiều là hiện thân những bi kịch của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến trước đây. Đời Kiều là một tấm gương oan khổ. Số phận Kiều hội đủ
những bi kịch của người phụ nữ. Tuy nhiên hai bi kịch lớn nhất ở Kiều là bi kịch
tình yêu tan vỡ và bi kịch bị chà đạp nhân phẩm.
Tình yêu Kim Trọng- Thuý Kiều là một tình yêu lí tưởng với “Người quốc
sắc,kẻ thiên tài”, nhưng cuối cùng “giữa đường đứt gánh tương tư”, “nước chảy
hoa trôi lỡ làng”. Tình yêu tan vỡ và không bao giờ hàn gắn được-tuy “màn đoàn
viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung gió thảm mưa sầu”.Hạnh phúc nàng
toan được nắm trong tay thì cuộc đời cướp mất.
Kiều là người luôn có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng lại bị chà đạp về
nhân phẩm. Nàng trở thành “món hàng” để kẻ buôn người họ Mã “cò kè bớt một
thêm hai”. Rồi nàng phải thất thân với những kẻ như Mã Giám Sinh, phải “Thanh
lâu hai lượt thanh y hai lần”- Nổi đau nhất của cuộc đời Kiều chính là: “Thân lươn

nvhaidh SƯU TẦM VÀ TUYỂN CHỌN

bao quản lần đầu- chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Có nổi đau nào lớn hơn
khi con người trọng nhân phẩm, luôn có ý thức về nhân phẩm mà cuối cùng phải
tuyên bố từ bỏ nhân phẩm?
Đời Kiều không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những chuổi dài những bi
kịch nối tiếp nhau, mỗi lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần bị dúi xuống,
bị đạp xuống sâu thêm một tầng nữa.
Thuý Kiều là hiện thân của một vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa. Sắc và tài của Kiều
đã đạt tới mức lí tưởng. Thể hiện vẻ đẹp, tài năng của Kiều Ng.Du đã sử dụng bút
pháp ước lệ của văn học cổ có phần lí tưởng hoá để trân trọng một vẽ đẹp. “ Một hai
nghiêng nước nghiêng thành-sắc đành đồi một tài đành hoạ hai”.
Tâm hồn đẹp đẽ của người con gái họ Vương thể hiện ở tấm lòng vị tha, nhân
hậu. Nàng hi sinh tình yêu để cứu gia đình, cha mẹ. Khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ
tới cha mẹ với những tình cảm chân thực. Nàng tưởng tượng bóng dáng tội nghiệp
“Tựa cửa hôm mai” của người sinh dưỡng Nàng. Kiều day dứt không nguôi vì một
nổi là không được chăm sóc cha mẹ già: “Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ”.
Thuý Kiều là người chí tình chí nghĩa “Ơn ai một chút chẳng quên”. Khi có điều
kiện, nàng đã trả ơn, hậu tạ những người cưu mang mình, nhưng nàng vẫn thấy công
ơn đó không gì có thể đền đáp nổi “Nghìn vàng gọi chút lễ thường-mà lòng phiếu
mẫu mấy vàng cho cân”.
Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc
và khát vọng về quyền sống.
Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối quan
hệ Thuý Kiều- Kim Trọng. Mới gặp chàng Kim lần đầu, hai bên chưa tiện nói với
nhau một lời, mà mối tình không lời ấy đã như một chén rượu nồng, khiến người ta
choáng váng đê mê:
“Tình trong như đã mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê ”
Yêu nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót chân nàng
thoăn thoắt đi sang nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm xăm băng nẻo vườn
khuya một mình” Thật là nhiệt thành cho một mối tình đầu trong trắng. Ng.Du đã

dành tất cả tài năng và tâm huyết để viết lên một bản tình ca say đắm có một khong
hai trong lịch sử văn học Việt Nam.

×