Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

tái cơ cấu hệ thống tài chính việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.7 KB, 16 trang )

1
TỔNG QUAN VỀ TÁI CƠ CẤU HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
TS. Nguyễn Thị Kim Thanh
Theo phân tổ của IFM hệ thống tài chính bao gồm khu vực tài chính ( bao gồm
NHTƯ và các định chế tài chính) và các thị trương tài chính. Trong phạm vi bài
viết này hệ thống tài chính tiền tệ được hiểu là khu vực tài chính (bao gồm Ngân
hàng Nhà nước và các TCTD). Ngoài phần mở đầu và kết luận bài nghiên cứu sẽ
gồm 5 nội dung chính:(i) sự cần thiết phải tái cấu trúc hệ thống tài chính tiền tệ;(ii)
tổng quan hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam;(iii) những vấn đề nổi lên cần xử lý
trong quá trình tái cơ cấu hệ thống tài chính; (iv) nội dung của tài cơ cấu hệ thống
ngân hàng. Bài viết này là quan điểm riêng của người viết, không đại diện cho quan
điểm của bất kỳ cơ quan quản lý tiền tệ nào.

Mở đầu
Trước khi đi vào nội dung chính của chủ đề nghiên cứu, chúng ta cần làm rõ,
tại sao phải tái cơ cấu hệ thống tài chính tiền tệ? và xu hướng chung của quá trình
tái cơ cấu trên thế giới diễn ra như thế nào?
Qua kinh nghiệm phát triển của hệ thống ngân hàng các nước có thể thấy khi
nào và ở đâu nhu cầu phát triển của nền kinh tế cũng là động lực phát triển chính
của hệ thống ngân hàng. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng bất cứ quốc gia nào
cũng không tránh khỏi những giai đoạn khó khăn, khủng hoảng. Đó chính là dấu
hiệu cho thấy sự phát triển của hệ thống ngân hàng và các thể chế chính sách đi
kèm đã không còn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế; và đã đến thời điểm nó
cần phải trải qua những cải tiến đổi mới. Và Cuộc khủng khoảng tài chính toàn cầu
năm 2008 là dấu hiệu cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế - tài
chính trong xu thế toàn cầu hóa đã vượt ra ngoài khuôn khổ của hệ thống tài chính
hiện nay, đòi hỏi phải có sự cải tổ hoạt động ngân hàng trong phạm vi toàn cầu.
Phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và
kinh nghiệm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở các nước trên thế giới cho thấy vấn đề
cải cách hệ thống ngân hàng phải tiến hành một cách nhanh chóng, quyết liệt để
giúp thị trường tài chính phục hồi chức năng trung gian một cách nhanh nhất, nếu


phục hồi chậm hậu quả càng nghiêm trọng; khi giải quyết các ngân hàng yếu kém
2
cần đảm bảo công bằng quyền lợi và trách nhiệm của cổ đông, người lao động và
người quản lý, đặc biệt cần phải giảm thiểu rủi ro đạo đức; trong quá trình tài cấu
trúc vai trò của NHTW tác động vào các định chế tài chính thông qua điều hành
CSTT theo nguyên tắc thị trường, như tạo một môi trường vĩ mô ổn định tạo vật
truyền dẫn cho CSTT, tạo tính thanh khoản cho thị trường, tăng cường hợp tác quốc
tế nhằm cải thiện lòng tin các nhà đầu tư nước ngoài; tái cấu trúc ngân hàng đi đôi
với tái cấu trúc doanh nghiệp; quá trình cải cách hệ thống ngân hàng đòi hỏi phải có
chi phí nhất định; và về nội dung cải cách sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008, các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách trên thế giới về cơ bản
nhất trì rằng, việc cải tổ hệ thống ngân hàng sẽ tiến hành chủ yếu trên các mặt sau:
Sửa đổi, bổ sung các quy định tài chính theo hướng nâng cao vai trò của các cơ
quan giám sát đối với hoạt động ngân hàng và giám sát chặt chẽ các hoạt động phái
sinh; Nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro và hiệu quả hoạt động của hệ
thống ngân hàng; Cơ cấu lại vốn và đòn bẩy tài chính.
Sự cần thiết phải tái cơ cấu hệ thống tài chính Việt Nam
Nhìn lại lịch sử phát triển của nền kinh tế Việt Nam kể từ khi thực hiện chủ
trương chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường cũng đã cho chúng ta thấy rõ là ngành ngân hàng chịu tác động không nhỏ
của quá trình cải cách kinh tế, và sự cải cách kinh tế đặt ra những yêu cầu bắt buộc
hệ thống ngân hàng cũng phải có sự đổi mới tương thích, nếu không hệ thống ngân
hàng sẽ bị đổ vỡ và kéo theo sự đổ vỡ của nền kinh tế. Trong giai đoạn 2001-2010,
sự phát triển của nền kinh tế có tác động sâu, rộng đến sự phát triển của hệ thống tài
chính tiền tệ. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành,
vùng, đặc biệt là việc ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại một cách mạnh mẽ theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy hệ thống tài chính phát triển về
qui mô, chất lượng dịch vụ. Sự phát triển đa dạng hóa các thành phần kinh tế, lấy
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cũng chi phối sự phát triển hệ thống tài chính
phát triển theo hướng đa dạng hóa loại hình sở hữu. Trong thời gian hiện nay, sự bất

cập trong mô hình tăng trưởng kinh tế, cũng như những mất cân đối lớn về kinh tế
vĩ mô đã đe dọa sự phát triển bền vững của nền kinh tế , đồng thời cũng gây ra
những rủi ro đối với hệ thống ngân hàng. Vì vậy, Việc tái cấu trúc nền kinh tế, cùng
với những bất cập hiện nay của hệ thống ngân hàng cũng đòi hỏi phải tái cơ cấu lại
hệ thống ngân hàng. Thực tế, Chính phủ đã chỉ đạo việc tái cơ cấu hệ thống tài
3
chính, mà trọng tâm là các ngân hàng thương mại là một trong ba nội dung cơ bản
của tái cấu trúc kinh tế.
Như vậy có thể thấy cơ cấu lại hệ thống tài chính tiền tệ xuất phát từ đòi hỏi
thực tiễn phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn mới và yêu cầu khắc phục những
khó khăn, yếu kém của các định chế tài chính. Theo đánh giá của Nguyên Phó Thủ
tướng Vũ Khoan “trong khi ta đang tìm cách để thoát khỏi tình trạng công nghiệp
gia công là chính để chuyển sang phát triển công nghiệp chế biến và chế tạo là
trọng tâm thì các nước phát triển đã bước vào thời kỳ phát triển các ngành hoàn
toàn mới. Bối cảnh đó làm cho sự tụt hậu về kinh tế của nước ta vốn đã xa sẽ càng
xa. Điều đó yêu cầu quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cần được
đặt trong sự chuyển dịch cơ cấu mới .Đồng hành với quá trình tái cơ cấu công
nghệ là quá trình tái cấu trúc tài chính tiền tệ”
1
.
Tổng quan về hệ thống tài chính Việt Nam
Từ một hệ thống ngân hàng một cấp thực hiện cả chức năng NHTM và
chức năng NHTW, đến cuối những năm 80 của thế kỷ trước hệ thống ngân hàng hai
cấp đã được hình thành với sự tách bạch chức năng ngân hàng trung ương với chức
năng ngân hàng thương mại. Số lượng các TCTD tăng lên nhanh chóng từ chỗ ban
đầu chỉ có 4 ngân hàng thương mại quốc doanh với quy mô tài chính và dịch vụ nhỏ
bé. Đến nay, hệ thống các TCTD đã phát triển rất nhanh về số lượng, bao gồm: 1
ngân hàng phát triển, 1 ngân hàng chính sách xã hổi, 5 NHTM Nhà nước sở hữu
100% vốn hoặc cổ phần chi phối (sau đây gọi là NHTMNN), 37 ngân hàng thương
mại cổ phần (NHTMCP), 54 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng 100%

vốn nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 17 công ty tài chính, 12 công ty cho thuê
tài chính, 1 QTDND Trung ương, hơn 1.085 QTDND cơ sở và 1 tổ chức tài chính
vi mô. Trong đó, các TCTD Việt Nam đóng vai trò chi phối với thị phần tín dụng
90,7% toàn hệ thống
2
và với tài sản có chiếm 88,92% toàn hệ thống
3
. Sự tồn tại của
nhiều loại hình TCTD với các quy mô khác nhau đã tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu
đa dạng của nền kinh tế về dịch vụ ngân hàng. Đặc điểm đa dạng của hệ thống các
TCTD phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế đang chuyển đổi tồn tại nhiều thành
phần kinh tế, đa sở hữu, đa ngành nghề và các nhóm đối tượng phục vụ khác nhau.

1
Tạp chí kinh tế thề giới tháng 9/2011
2
Trong đó: NHTMNN: 50,84%, NHTMCP:35,63%. công ty cho thuê tài chính: 0,62%, công ty tài chính: 2,22% và
các QTDND: 1,39%
3
Trong đó: NHTMNN: 39,23%; NHTMCP: 45,21%, công ty cho thuê tài chính:0,43%; công ty tài chính: 3,07% và
QTDND: 0,97%.
4
Nói cách khác, tính đa dạng của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội quy định tính đa dạng của hệ thống các TCTD Việt Nam.
Một số điểm mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có một giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ với
sự phát triển vượt bậc cả về chất và lượng. Để có thể đạt được những thành công ấy,
có thể thấy một số điểm mạnh nổi bật của hệ thống ngân hàng Việt Nam như:
- Hệ thống ngân hàng Việt Nam có tính năng động cao, tiếp cận nhanh với
tiến bộ khoa học kỹ thuật ngân hàng, kinh nghiệm trong quản lý, điều hành hoạt

động ngân hàng trên thế giới. Điều này giúp cho các ngân hàng trong nước đã
nhanh chóng tận dụng được các hội từ bên ngoài khi nền kinh tế mở cửa và hội
nhập, từ đó gia tăng tốc độ phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước và rút
ngắn khoảng cách giữa hệ thống ngân hàng trong nước với hệ thống ngân hàng thế
giới.
- Hệ thống ngân hàng Việt Nam có tính đồng thuận và tính định hướng cao,
do đó gia tăng hiệu quả hoạt động của hệ thống, đặc biệt là trong việc thực thi
những định hướng chính sách của Chính phủ, nâng cao khả năng hỗ trợ của hệ
thống ngân hàng đối với nền kinh tế.
Những vấn đề nổi lên cần xử lý của hệ thống tài chính hiện nay
1-Khả năng điều tiết và làm chủ thị trường tiền tệ của cơ quan quản lý tiền tệ
còn nhiều bất cập: Những biến động không bình thướng về lãi suất, tỷ giá, giá vàng,
giá chứng khoán, cùng với các giao dịch vốn trên thị trường tài chính kém thông
suốt trong thời gian qua phản ánh rõ nét thực trạng này.
2- Năng lực thanh tra giám sát của cơ quan quản lý vẫn còn nhiều điểm hạn
chế, tác động không nhỏ tới tính lành mạnh của hệ thống tài chính. Nội dung thanh
tra giám sát của NHNN được thể hiện thông qua các quyết định ban hành về hoạt
động thanh tra giám sát vẫn chưa đầy đủ; hoạt động giám sát chưa chú trọng vào
hoạt động cảnh báo sớm cho các NHTM, các định chế tài chính, vẫn chỉ mang tính
theo dõi, giám sát một cách riêng lẻ đối với từng định chế tài chính; hoạt động giám
sát nói chung và giám sát từ xa nói riêng của cơ quan quản lý còn hạn chế về năng
lực cán bộ cũng như phương pháp giám sát; mô hình tổ chức về thanh tra giám sát
hệ thống tài chính còn chưa hoàn thiện.
3- Sự phát triển của hệ thống tài chính kể từ khi đổi mới đến nay, mặc dù có
nhiều thành tựu, nhưng đã có sự phát triẻn sai lệch về mặt cấu trúc.Cơ cấu về quy
5
mô chưa thực sự hợp lý, hình thành quá nhiều các công ty chứng khoán, các qui đầu
tư so với qui mô thị trường chứng khoán, các định chế tài chính là ngân hàng thiếu
những định chế tài chính có quy mô lớn, hoạt động xuyên quốc gia, đồng thời cũng
thiếu các định chế tài chính có quy mô phù hợp để phát triển kinh tế nông nghiệp,

nông thôn. Số lượng các định chế tài chính Việt Nam hiện nay là nhiều, phân bố
không đều, mạng lưới các định chế tài chính tập trung chủ yếu ở khu vực đô thị,
hạn chế khả năng thu hút và phân bổ nguồn lực tài chính tới các vùng miền khác
của cả nước. Xét về cầu trúc thị trường tài chính, thì thị trường chứng khoán, thị
trường trái phiếu phát triển chưa tương thích với thị trường tiền tệ, qua đó mà gây
sức ép tăng trưởng nguồn vốn để đầu tư tín dụng của các định chế tài chính là Ngân
hàng;thị trường tài chính nông thôn phát triển chậm so với yêu cầu; thị trường thứ
cấp còn rất manh nha.
4- Những yếu kém nội tại của các định chế tài chính
(i)- Trình độ quản trị doanh nghiệp của các định chế tài chính còn nhiều bất
cập xuất phát từ vấn đề cơ cấu sở hữu, nhất là sở hữu chéo ngày càng phức tạp tại
nhiều định chế tài chính là ngân hàng thương mại, với sự tham gia của các tập đoàn
kinh tế, tạo ra nguy cơ xung đột lợi ích trong công tác điều hành của các ngân hàng
này, nguồn lực của các định chế tài chính không được đánh giá đúng làm yếu năng
lực quản trị ngân hàng và quản trị rủi ro. Chiến lược kinh doanh của không ít các
định chế tài chính kém bền vững, chủ yếu tăng trưởng về quy mô và tập trung vào
các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao để tạo lợi nhuận lớn hơn; hệ thống quản trị, nhất
là hệ thống quản trị rủi ro, hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ chưa
có hiệu quả và chưa phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; Chính sách, quy
trình kinh doanh nhìn chung còn hạn chế dẫn đến chưa kiểm soát có hiệu quả những
rủi ro trọng yếu trong hoạt động. Ý thức chấp hành pháp luật, kỳ cương thị trường
chưa cao.
(ii)-Năng lực tài chính, hiệu quả kinh doanh, cạnh tranh của các định chế tài
chính còn thấp, tính minh bạch trong hoạt động ngân hàng chưa cao. Tính đến cuối
năm 2011 định chế tài chính là NHTM có mức vốn điều lệ lớn nhất là Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cũng chỉ 21 ngàn tỷ đồng tương
đương khoảng 1 tỷ USD. Khả năng sinh lời của các hệ thống TCTD ở mức khá thấp
so với mức độ rủi ro thực tế và so với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
6
Năm 2010, chênh lệch thu nhập, chi phí so với vốn chủ sở hữu (ROE) là 13,44%

4
,
năm 2011 là 14, 2% và chênh lệch thu nhập, chi phí so với tài sản có (ROA) chỉ ở
mức 0.9%
5
, năm 2011 khoảng 1% . Nếu thực hiện phân loại nợ và trích lập dự
phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế và hạch toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế thì
hiệu quả kinh doanh của các định chế tài chính Việt Nam còn thấp hơn nữa; cơ chế
công bố thông tin và hệ thống kế toán còn nhiều bất cập so với thực tế và các thông
lệ, chuẩn mực về quốc tế. Nhà đầu tư và người gửi tiền thiếu thông tin cho việc
đánh giá, phân biệt về mức độ an toàn, hiệu quả giữa các định chế tài chính Hiện
nay, tính đại chúng của các định chế tài chính còn hạn chế, số lượng cổ đông ít và
nhiều NHTMCP chưa niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán;
(iii)- Cạnh tranh giữa các định chế tài chính chưa lành mạnh, thiếu sự hợp
tác dẫn đến kỷ cương, kỷ luật, chính sách, pháp luật trong hoạt động ngân hàng
không được tôn trọng nghiêm. Mục tiêu chạy theo lợi nhuận đã lấn át yêu cầu bảo
đảm an toàn kinh doanh và vi phạm quy định pháp luật về hoạt động tièn tệ, tín
dụng ngân hàng là không ít. Phương thức cạnh tranh chủ yếu là bằng giá/lãi suất,
thiếu lành mạnh chưa coi trọng chất lượng dịch vụ. Cùng với năng lực quản trị yếu
kém, đạo đức kinh doanh ngân hàng chưa cao làm gia tăng mức độ rủi ro hoạt động
và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chinh ngân hàng;
5- Mức độ an toàn của hệ thống tài chính chưa cao, trong đó một bộ phận
các định chế tài chính hoạt động kém hiệu quả, mức độ an toàn thấp, Do các định
chế tài chính mở rộng phạm vi hoạt động vượt khả năng tài chính và quản lý của
mình( hình thành các công ty con, các qũy đầu tư ) ; các định chế tài chính là ngân
hàng mở rộng tín dụng nhanh, quá mức so với khả năng huy động vốn trên thị
trường 1, phải sử dụng nguồn vốn của thị trường 2, của công ty mẹ : Cơ cấu
nguồn vốn không ổn định; Mất cân đối nghiêm trọng về kỳ hạn giữa nguồn vốn và
sử dụng vốn do lấy vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn, đặc biệt là một số TCTD
đã đầu tư lớn vào bất động sản dẫn đến mất khả năng thanh khoản, buộc phải tăng

huy động vốn bằng mọi giá. Tài sản có tính thanh khoản cao để sẵn sang đáp ứng
các nghĩa vụ nợ đến hạn thấp làm hạn chế khả năng ứng phó của TCTD đối với các
đợt rút tiền hàng loạt.

4
Indonesia:25,9%; Malaysia: 18,9%: Pakistan: 22,4%; Trung Quốc: 17,5%; Achentina: 23,3%; Braxin: 29,6%; Chi
lê: 24,6%; Peru: 24,3%; Venezuela: 33,9%
5
Indonesia: 2,9%; Malaysia: 1,8%; Nga: 2,3%; Armenia: 2,6%; Achentina: 2,5%; Braxin: 3,3%; Chile: 1,9%; Peru:
2,3%; Venezuela: 2,9%
Trong 9 tháng đầu năm 2011, chỉ số khả năng sinh lời của các TCTD giảm so với cùng ky năm 2010: ROE là 13,4%
và ROA 1,17% (cùng kỳ năm 2010, ROE là 14,65% và ROA 9,88%)
7
6 - Cơ sở hạ tầng tài chính chưa hỗ trợ hiệu quả cho sự an toàn và lành mạnh
của các định chế tài chính: môi trường pháp lý cho họat động của các định chế tài
chính còn quá nhiều bất cập, thiếu đồng bộ; mức độ áp dụng công nghệ thông tin
của hệ thống tài chính còn thấp và có khoảng cách khá nhiều so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới và chưa theo kịp với những đòi hỏi của thực tế ứng
dụng và phát triển công nghệ thông tin; thị trường tièn tệ liên ngân hàng chưa phát
triển, hệ thống thông tin tín dụng và bảo hiểm tiền gửi còn nhiều bất cập.
Nội dung của quá trình tái cơ cầu
Mục tiêu đặt ra trong quá trình tài cơ cấu là gì?
Có 2 yếu tố quyết định mục tiêu tài cơ cấu, đó là:
- Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đặt ra Mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội của Việt Nam đến năm 2020, là năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, đồng thời theo cam kết với Tổ chức Thương mại Quốc
tế (WTO) đến năm 2018 Việt Nam phải trở thành nền kinh tế thị trường. Do vậy,
đòi hỏi hệ thống ngân hàng Việt Nam phải được phát triển tương xứng, đáp ứng
được những yêu cầu trên.
- Vấn đề tự do hóa tài chính, hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu, do vậy,

quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng chịu tác động đa chiều của kinh tế thề
giới. Thực tế cho thấy, kinh tế thế giới và hệ thống tài chính quốc tế hiện đang tiềm
ẩn nhiều yếu tố bất định, vì vậy, hệ thống tài chính Việt Nam, mà trọng tâm là các
NHTM cần phải được không ngừng nâng cao khả năng ứng phó với những tác
động bất lợi của kinh tế, tài chính khu vực và toàn cầu.
Do vậy, mục tiêu đặt ra đối với tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, mà trọng tâm
là ngân hàng thương mại là phải củng cố, chấn chỉnh, thúc đẩy hoạt động của hệ
thống ngân hàng với quy mô lớn hơn, an toàn và có hiệu quả hơn nhằm huy động,
đầu tư có hiệu quả vốn cho nền kinh tế, đồng thời đáp ứng tốt hơn như cầu dịch vụ
ngân hàng ngày càng tăng của xã hội và có khả năng ứng phó với những tác động
bất lợi của kinh tế, tài chính khu vực và toàn cầu.
Xuất phát từ thực trạng của hệ thống ngân hàng hiện nay và mục tiêu phát
triển hệ thống ngân hàng như đề cập trên, thì quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng có 3 vấn đề lớn cần phải được tập trung xử lý đồng thời, đó là:
1- Nâng cao vai trò điều tiết thị trường tiền tệ của NHNN, chuyển từ thế bị
động sang thế chủ động, để NHNN thực sự trở thành người điều phối thị trường,
8
trên cơ sở hình thành luật chơi bình đẳng và phù hợp với xu thế phát triển. Điều này
có ý nghĩa rất quan trọng để đạt được mục tiêu tài cơ cấu lần này, bởi :(i)sự ổn định
kinh tế vĩ mô, ổn định lạm phát, lãi suất và tỷ giá có ý nghĩa quan trọng đối với phát
sự phát triển của các định chế Việt Nam- thực tế vừa qua là một minh chứng rõ nét
cho nhận định này; (ii) sự sai lệch về cấu trúc hệ thống tài chính như nêu trên, có
thể thấy về căn nguyên của nó là do thiều chính sách điều chỉnh hợp lý.
2- Củng cố và nâng cao hiệu lực và hiệu quả của thanh tra giám sát của cơ
quan quản lý. Đây là công cụ rất quan trọng của cơ quan quản lý tiền tệ, cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu vừa qua, khẳng định sự yếu kém của cơ quan quản
lý tiền tệ trong quản lý hoạt động của các định chế tài chính. Chính vì vậy, một
trong những điểm cải tổ hệ thống ngân hàng của các quốc gia trên thế giới là nâng
cao vai trò giám sát của cơ quan quản lý tiền tệ của các quốc gia, sửa đỏi các qui
định về an toàn hoạt động của các định chế tài chính Đối với Việt Nam vấn đề

này càng cần thiết hơn bởi những yếu kém nội tại của nó.
3- Lành mạnh hóa Ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác.
Đây có thể coi là trọng tâm của quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, bởi các
định chế tài chính có vai trò quan trọng đối với sự ổn định của hệ thống tài chính
tiền tệ và đối với nền kinh tế. Những yếu kém hiện tại của các NHTM và định chế
tài chính khác đòi hỏi phải tiến hành tái cơ cấu toàn diện các mặt hoạt động của các
định chế tài chính.
Ba vấn đề trên được giải quyết đồng thời sẽ có tác động hỗ trợ lẫn nhau để
đạt được mục tiêu chung của quá trình tái cơ cấu hệ thống tài chín tiền tệ.
Vậy việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng nên thực hiện như thế nào?
Bài học kinh nghiệm của quốc tế cũng như Việt Nam qua 2 lần tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng - một lĩnh vực có ảnh hưởng sâu, rộng đến đời sống kinh tế xã hội
cho thấy, việc tái cơ cấu ngân hàng phải được tiến hành một cách căn bản, triệt
để ,toàn diện và quyết liệt, nhưng cũng phải thận trọng với những lộ trình thích hợp
để đảm bảo qúa trình tái cơ cấu không ảnh hưởng đến lợi ích của người gửi tiền,
không gây ra những sự đổ vỡ của hệ thống, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội với chi phí thấp nhất. Đây là quan điểm cần được quán triệt
trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng lần này.
Trên quan điểm đó, quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng không thể diễn ra
ngày một ngày hai, mà nó phải là một quá trình, nhưng phải tiến hành khẩn trương
9
giải quyết những bất cập hiện nay của hệ thống ngân hàng, tạo dựng nền móng
vững chắc cho sự phát triển hệ thống ngân hàng trong tương lai, theo đó, qúa trình
cải cách cần chia thành hai giai đoạn lớn: Giai đoạn 1 từ năm 2011-2015; Giai đoạn
tiếp theo từ năm 2016-2020.
* Giai đoạn 1 từ năm 2011-2015: Mục tiêu chung của giai đoạn này là xử lý
những yếu kém hiện tại của hệ thống tài chính tiền tệ và củng cố thêm một bước sức
khỏe của hệ thống, cụ thể:
(i) Đối với vấn đề 1- Về nâng cao vai trò điều tiết của NHNN
- Tập trung các giải pháp để ổn định lãi suất, tỷ giá, đảm bảo các giao dịch

trên thị trường liên ngân hàng được thông suốt. Trên thực tế trong năm 2011
NHNN đã thực hiện quyết liệt các giải pháp nhắm thực hiện mục tiêu ổn định trên,
như hạ lãi suất tiền gửi ngoại tệ, thực hiện kiên quyết trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ
và hạn mức tín dụng, thực hiện quyết liệt kỷ luật thị trường ( Chính phủ ban hành
nghị định mức xử phạt rất cao đối với các hành vi vi phạm pháp lệnh ngoại hối)
Các giải pháp trên đến nay bước đầu đã tạo sự ổn định về lãi suất, tỷ giá. Trong năm
2012 NHNN đã áp dụng trần tín dụng khác nhau đối với các TCTD, hạn mức này
được phân bổ căn cứ vào qui mô tín dụng và năng lực quản trị của các TCTD. Giải
pháp này nhằm mục đích nâng cao chất lượng tín dụng, định hướng đầu tư, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời cũng khuyến khích các định chế tài
chính đa dạng hóa các hoạt động dịch vụ và nâng cao năng lực quản trị ngân hàng
- Tập trung, củng cố phát triển tiền tệ, nhất là thị trường liên ngân hàng, đây
là cửa sổ quan trọng để NHNN năm bắt kịp thời diễn biến cung , cầu trên thị trường
tiền tệ nhằm can thiệp, điều tiết diễn biến thị trường theo mục tiêu. Yếu kém hiện
nay là NHNN chưa năm bắt được chính xác, kịp thời các giao dich giữa các định
chế tài chính trên thị trường ( khối lượng và lãi suất ). Vì vậy, trong năm 2011-2012
NHNN đã và đang tập trung xây dựng sàn giao dịch điện tử liên ngân hàng, qua sàn
này NHNN có thể nắm bắt được kịp thời các giao dịch của thị trường.
- Thiết lập việc quản lý ngoại hối một cách chặt chẽ, đảm bảo không để xẩy
ra có các cú sốc về lãi suất, tỷ giá và giá vàng; hoàn thành cơ chế kiểm soát dòng
chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế.
- Tập trung các giải pháp hạn chế, tiến tới xóa bỏ căn bản tình trạng đôla hóa.
Thực trạng đô la hóa của Việt Nam thời gian qua cho thấy, đã có những tác động rất
bất lợi đến hiệu quả điều hành CSTT, đến ổn định tiền tệ. Vì vậy để nâng cao khả
10
năng điều tiết tiền tệ của NHNN cần tập trung giải quyết vấn đề đola hóa. Thực tế
hiện nay, NHNN đã và đang xây dựng đề án chống đôla hóa, đồng thời đã thực hiện
một số các giải pháp hạn chế tình trạng này, như giảm cho vay bằng ngoại tệ, thông
qua giải pháp hạ lãi suất trần huy động ngoại tệ. Giải pháp này đã có tác động tích
cực trong việc điều chỉnh hành vi giảm cho vay bằng ngoại tệ của các NHTM

(T10/2011 tốc độ tăng dư nợ cho vay bằng ngoại tệ so với 31/12/2010 là 22%,
tháng 11 còn 19,09% , tháng 12 giảm còn 17,9% và tháng 1/2012 dư nợ tín dụng
ngoại tệ giảm -0,4% so với số dư 31/12/2011) và hành vi của người gửi tiền vừa
góp phần giảm tình trạng đô la hóa, vừa tăng dự trữ ngoại tệ và ổn định tỷ giá. Tuy
nhiên, để đảm bảo thực hiện mục tiêu này một cách bền vững, cần củng cố hơn nữa
niềm tin của công chúng vào VNĐ, bằng các giải pháp kiểm chế lạm phát ở mức
hợp lý, ổn định kinh tế vĩ mô.
- Tập trung thực hiện việc đổi mới, nâng cấp hạ tâng công nghệ ngân hàng,
xây dựng hệ thống corbanking trong quản trị của NHNN. Hiện nay NHNN đang
được sự hỗ trợ của WB thực hiện vấn đề này, dự kiến dự án sẽ kết thúc vào năm
2014. Đi cùng với nó là nâng cao năng lực sử dụng công nghệ, năng lực phân tích,
dự báo.
- Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, hoàn thành tái cấu trúc hệ
thống chuyển mạch tài chính quốc gia thành trung tâm chuyểm mạch thể thống nhất
và trung tâm thanh toán bù trừ tự động.
- Đến năm 2015, NHNN cần có sự đổi mới căn bản phương thức điều hành
CSTT, chuyển cơ bản sang việc sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp, chuyển từ
điều tiết khối lượng sang điều tiết lãi suất; chủ động kiếm soát được thị trường tiền
tệ liên ngân hàng, kiểm soát lạm phát.
(ii)- Đối với vấn đề 2- Củng cố và nâng cao hiệu lực và hiệu quả của thanh
tra giám sát của cơ quan quản lý.
- Tập trung hoàn thành sửa đổi, bổ sung các quy định an toàn hoạt động ngân
hàng phù hợp với thực tế Việt Nam và chuẩn mức quốc tế. Trên thực tế những năm
qua, NHNN cũng đã từng bước đưa ra những chuẩn mực sát với chuẩn mực quốc tế
về an toàn hệ thống, song thực tế chưa đi vào cuộc sống, bởi các chuẩn mực này
chưa gắn được với hệ thống giám sát tương thích về mặt công nghệ. Chính vì vậy
mà đã không phát huy được hiệu quả , hiệu lực trong thanh tra giám sát; hoàn thành
các văn bản hướng dẫn Luật ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng; Xây
dựng cơ chế hoạt động và qui tắc ứng xử trên thị trường liên ngân hàng; xây dựng
11

cơ chế giám sát hoạt động của thị trương fliên ngân hàng; Hoàn thành các văn bản
qui định về quản lý ngoại hối; hoàn thành khung pháp lý cho việc thành lập tổ chức
xếp hạng tín nhiệm đối với các TCTD; hoàn thành các văn bản điều chỉnh các loại
hình dịch vụ mới của ngân hàng ( Internetbanking, mobilephonebanking ); hoàn
thành các văn bản qui định về việc thành lập và vận hành trung tâm thanh toán bù
trừ .
- Phát triển vai trò giám sát của NHNN đối với các hệ thống thanh toán. Thiết
lập các nguyên tắc và chuẩn mực giám sát dựa trên các nguyên tắc cốt lõi theo
thông lệ quốc tế đối với các hệ thống thanh toán có tầm quan trọng hệ thống.
- Tập trung đào tạo đội ngũ thanh tra viên về kiến thức giám sát trên cơ sở rủi
ro, sự hiểu biết hơn nữa của đội ngũ này về các mặt hoạt động của các định chế tài
chính, khả năng phân tích báo cáo tài chính, khả năng cảnh báo, phát hiện sớm
những rủi ro có thể xẩy ra.
- Tập trung củng cố bộ máy tổ chức về thanh tra giám sát đối với NHNN nói
riêng và cả hệ thống tài chính nói chung; hình thành hệ thống cảnh báo sớm theo
thông lệ quốc tế; ban hành các chuẩn mực về an toàn hoạt động ngân hàng theo
Basel II; thiết lập các nguyên tắc và chuẩn mực giám sát hệ thốgn thanh toán trên
các nguyên tắc cơ bản của thông lệ quốc tế.
-Tăng cường hợp tác quốc tế song phương, đa phương về thanh tra ngân hàng,
tài chính. Tận dụng hỗ trợ kỹ thuật của cộng đồng quốc tế nhằm đạt các chuẩn mực
quốc tế về thanh tra giám sát ngân hàng.
Đến năm 2015, năng lực và hiệu lực thanh tra giám sát được nâng lên một
bước: Hoàn thiện đầy đủ các qui định an toàn hoạt động của các định chế tài chính
sát với chuẩn mực quốc tế (tuân thủ theo Basel II )và phù hợp với thực tế Việt nam;
chuyển cơ bản sang giám sát rủi ro.
(iii) Đối với vấn đề 3- Lành mạnh các định chế tài chính.
Hiện nay, NHNN đã được Chính phủ phê duyệt đề án Cơ cấu lại hệ thống các
tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015
6
. Theo đề án này, mục tiêu cơ cấu lại hệ

thống các tổ chức tín dụng là cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các tổ
chức tín dụng để đến năm 2020 phát triển được hệ thống các tổ chức tín dụng đa
năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa
dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền

6
Đề án không bao gồm Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
12
tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế
về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân
hàng của nền kinh tế; trong giai đoạn 2011-2015, tập trung lành mạnh hóa tình trạng
tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng; cải thiện mức độ
an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương
và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng. Phấn đấu đến cuối năm 2015
hình thành được ít nhất 1-2 ngân hàng thương mại có quy mô và trình độ tương
đương với các ngân hàng trong khu vực. Giải pháp thực hiện trong giai đoạn này,
trước hết là xử lý tốt vấn đề thanh khoản của hệ thống và của một số TCTD; đánh
giá phân loại sức khỏe của các TCTD theo từng nhóm để áp dụng những biện pháp
tái cơ cấu thích hợp;. Có thể tiến hành hợp nhất, sáp nhập, mua lại những ngân hàng
yếu kém để tái cơ cấu vốn, cơ cấu lại nợ xấu làm trong sách bảng cân đối, qua đó
mà tạo dựng những nên những ngân hàng mạnh hơn về qui mô cũng như chất lượng
tài sản. Đồng thời, từng bước thực hiện xử lý dứt điểm vấn đề sở hữu chéo, cấu trúc
lại những sai lệch trong cấu trúc hệ thống.
Về lộ trình thực hiện, đề án cũng nêu rõ: (i) Năm 2011 -2012 sẽ tiến hành
đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ
chức tín dụng;tiến hành đánh giá và phân loại tổ chức tín dụng; xây dựng và triển
khai phương án cơ cấu lại tổ chức tín dụng yếu kém và tổ chức tín dụng khác; tập
trung hỗ trợ thanh khoản để bảo đảm khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng;
Hoàn thành căn bản phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng của các ngân hàng
thương mại nhà nước (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt

Nam); triển khai sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng; tăng vốn điều lệ và
xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng; Cơ cấu lại hoạt động và hệ thống quản trị.
Sau 2 năm dự kiến khả năng chi trả của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng về cơ
bản được bảo đảm, đồng thời xác định, kiểm soát được tình hình của tổ chức tín dụng
yếu kém để làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp cơ cấu lại ở giai đoạn sau.
(ii) Năm 2013, sẽ hoàn thành sửa đổi, bổ sung các quy định an toàn hoạt
động ngân hàng; tiếp tục triển khai lành mạnh hóa tài chính của các tổ chức tín
dụng, bao gồm xử lý nợ xấu và tăng vốn điều lệ;triển khai cơ cấu lại hoạt động và
quản trị; hoàn thành căn bản cơ cấu lại sở hữu, pháp nhân của ngân hàng thương
mại cổ phần yếu kém;hoàn thành cơ cấu lại các công ty tài chính và công ty cho
thuê tài chính.
13
Sau 2013, nguy cơ đổ vỡ hệ thống các tổ chức tín dụng được loại bỏ, các tổ
chức tín dụng yếu kém được xử lý về cơ bản. Kỷ cương, kỷ luật trong lĩnh vực ngân
hàng được lập lại và củng cố.
(iii)Năm 2014 sẽ hoàn thành căn bản cơ cấu lại tài chính của tổ chức tín
dụng; Các tổ chức tín dụng đáp ứng đầy đủ mức vốn điều lệ thực và các chuẩn mực,
giới hạn an toàn hoạt động ngân hàng theo quy định pháp luật;tếp tục triển khai cơ
cấu lại hoạt động và quản trị; tiếp tục sáp nhập, hợp nhất, mua lại theo nguyên tắc
tự nguyện.
Đến hết năm 2015, sẽ hoàn thành cơ cấu lại hoạt động và quản trị; tài chính
và hoạt động kinh doanh được củng cố, chấn chỉnh và lành mạnh hóa; Hệ thống
quản trị được cải thiện một bước quan trọng. Các tổ chức tín dụng đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu về vốn và tiêu chuẩn an toàn hoạt động ngân hàng.
Đề án cũng khẳng định, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng sẽ được triển khai quyết
liệt, đồng bộ các giải pháp củng cố, chấn chỉnh và cơ cấu lại các định chế tài chính,
đến năm 2015 hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam được lành mạnh hóa một
bước quan trọng về tài chính và hoạt động, giảm bớt số lượng tổ chức tín dụng nhỏ,
yếu kém và hình thành một số ngân hàng thương mại có quy mô lớn hơn, có khả
năng cạnh tranh mạnh hơn, đặc biệt tăng cường được quy mô và vị trí chi phối của

các ngân hàng thương mại nhà nước trong hệ thống ngân hàng. Quá trình củng cố,
chấn chỉnh, cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng được tiến hành với chi phí thấp
nhất, loại trừ nguy cơ đổ vỡ ngân hàng ngoài tầm kiểm soát, bảo đảm giữ vững sự an
toàn, ổn định của hệ thống, đồng thời không gây tác động tiêu cực đến sự ổn định
kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Có thể nói các giải pháp và lộ trình thực hiện tái cơ cấu hệ thống NH được đề
cập trong đề án là rất khả thi, vấn đề quyết định sự thành công của đề án là quyết tâm
chính trị cao và các hành động triển khai quyết liệt của NHNN, đồng bộ cùng với quá
trình tái cơ cấu doanh nghiệp và đầu tư công.
* Giai đoạn 2016 -2020 : Mục tiêu của giai đoạn này là thực hiện bước chuyển biến
mạnh mẽ trong hoạch định và thực thi CSTT, quản lý ngoại hối, năng lực và hiệu
quả hoạt động thanh tra giám sát, đổi mới công tác điều hòa lưu thông tiền mặt .
Các TCTD tiếp tục đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế, tiếp tục mở
rộng phạm vi hoạt động và qui mô về vốn, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong chất
lượng dịch vụ, sản phẩm dịch vụ và năng lực cạnh tranhvà cấu trúc hệ thống các
TCTD.
14
Trước khi áp dụng những giải pháp để đạt được mục tiêu trên, cần đánh giá
kết quả của giai đoạn 1. Nếu giai đoạn 1 đạt được mục tiêu đề ra, sẽ tiếp tục thực
hiện một cách triệt để các giải pháp các giải pháp sau:
- Điều chỉnh cơ cấu, tổ chức, bộ máy của các đơn vị thuộc NHNN theo
hướng tinh gọn tiến tới hình thành chi nhánh NHNN khu vực; Tiếp tục nâng cấp
hơn nữa nền tảng cơ sở hạ tầng công hệ của NHNN. Xây dựng và triển khai một số
dự án để bổ trợ, nâng cấp hệ thống thông tin FSMIMS
-Thực hiện điều tiết thị thường tiền tệ, kiểm soát lạm phát một cách chủ động
trên cơ sở sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp, lấy lãi suất làm công cụ chủ đạo
trong điều hành: Hình thành được khung lãi suất và lãi suất định hướng trên thị
trường liên ngân hàng; hình thành cơ chế phối hợp giữa các công cụ CSTT trong
điều hành; hoạch định và thực thi CSTT dựa trên cơ sở chương trình tiền tệ được
thiết lập hàng năm và 5 năm; chất lượng phân tích dự báo lạm phát, tiền tệ đảm bảo

mức độ sai số không làm ảnh hưởng đến mục tiêu điều hành; mô hình hoá được tác
động của CSTT qua các kênh dến lạm phát và tăng trưởng kinh tế ( độ trễ thời gian,
mức độ tác động).
- Xử lý căn bản tình trạng đô la hóa vào năm 2020; hạn chế và tiến tới chấm
dứt cho vay bằng ngoại tệ đến năm 2020, các nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu và
các nhu cầu ngoại tệ khác thực hiện theo cơ chế mua bán; tin học hóa việc kiểm
soát dòng di chuyển vốn ngoại tệ trong nền kinh tế; tự hoa hóa giao dịch vốn ở mức
cao, tăng mức đầu tư gián tiếp đổi với các nhà đàu tư nước ngoài hơn mức hiện tại;
thực hiên chính sách tỷ giá linh hoạt với biên độ giao động rộng hơn.
-Triển khai giám sát đồng bộ và thống nhất toàn bộ khối ngân hàng (bao
gồm các ngân hàng thương mại, các công ty trực thuộc, các công ty con tài chính và
phi tài chính); Thực hiện thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro là chủ yếu; tiến hành
đánh giá , xếp hạng các TCTD theo chuẩn mực quốc tế; Về cơ bản áp dụng đầy đủ
25 nguyên tắc của Basel, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về an toàn
hoạt động ngân hàng theo Basel II trước năm 2018 và thực hiện Basel III vào năm
2020 Các chuẩn mực an toàn được áp dụng phù hợp với qui mô và phạm vi hoạt
động của các định chế tài chính.
- Hoàn thành cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin đối thoại chính sách giữa
NHNN và các cơ quan thanh tra thuộc khu vực tài chính trong nước, cơ quan giám
sát tài chính, ngân hàng nước ngoài, bảo đảm giám sát toàn diện, nhất quán các hoạt
động ngân hàng tại Việt Nam.
15
- Hoạt động phòng, chống rửa tiền từng bước tiến tới đáp ứng đầy đủ các
chuẩn mực quốc tế được nêu trong 40+9 khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài
chính về chống rửa tiền.
- Thúc đẩy mạnh mẽ việc mở rộng các dịch vụ ngân hàng cho các các thành
phần trong nền kinh tế và mở rộng các dịch vụ ngân hàng ra ngoài khu vực truyền
thống, tăng cường cạnh tranh quốc tế và mở rộng mạng lưới ra ngoài phạm vi quốc
gia; Xây dựng cơ chế bảo vệ người tiêu dùng trong quan hệ giữa khách hàng với
ngân hàng trong khuôn khổ pháp luật

- Điều chỉnh mạnh mẽ cấu trúc hệ thống các TCTD theo hướng giảm dần số
lượng, tăng qui mô về vốn tương ứng với năng lực quản trị điều hành và phạm vi
hoạt động, đáp ứng đầy đủ các qui định về an toàn hoạt động do NHNN qui định;
khẳng định vai trò chi phối thị trường của các NHTM NN và NHTM có cổ phần
nhà nước chi phối; phát triển mạnh mẽ thị trường tài chính nông thôn, xây dựng cơ
chế chính sách khuyến khích các định chế tài chính mở rộng phạm vi hoạt động ở
các vùng xâu, vùng xa và khuyến khích phát triển các tổ chính tài chính vi mô và
hoạt động tài chính vi mô; hạn chế và tiến tới chấp dứt tình trạng sở hữu chéo
không hiệu quả.
Có thể nói, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng lúc này là một tất yếu, một cơ hội
để phát triển hệ thống ngân hàng, sao cho đến năm 2020 Việt Nam có được hệ
thống các TCTD hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên
tiến phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, hoạt động an toàn , hiệu quả, vững
chắc, có năng lực cạnh tranh với cấu trúc đa dạng về hình thức sở hữu, đa dạng về
dịch vụ tài chính ngân hàng. qui mô ngang tầm với mức trung bình của khu vực và
phạm vi hoạt động xuyên quốc gia. Hệ thống các TCTD sẽ bao gồm các NH lớn
đóng vai trò trụ cột trong hệ thống, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và có
những ngân hàng vừa và nhỏ, tỏ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi
mô đáp ứng tốt nhu cầu dich vụ ngân hàng với mọi tầng lớp xã hội .
Tuy nhiên, tái cơ cấu ngân hàng chỉ có thể thành công, khi quá trình tái cơ
cấu này phải gắn liền với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế đế đảm bảo có một môi
trường vĩ mô ổn định, như lạm phát ổn định ở mức hợp lý, cán cân thanh toán thặng
dư để giảm áp lực lên tỷ giá, giảm thâm hụt ngân sách để giảm mất cân đối giữa tiết
kiệm và đầu tư , và quan trọng hơn là phải cải cách doanh nghiệp để giảm tiềm ẩn
nợ xấu trong ngân hàng, tạo môi trường kinh doanh tốt cho các NHTM. Điều kiện
nay đã được thực tế chứng minh qua tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của nhiều quốc
16
gia trên thề giới, đặc biệt là ở Malaysia- một nước đã rất thành công trong quá trình
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng sau khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997 –
1998.




Tài Liệu tham khảo
- Tài liệu toạ đàm khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học “ những vấn đề cơ
bản về phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Mã số
KNHTD 2010-2011.
- Đề án Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 ban hành
kèm theo Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 của Thủ Tướng chính phủ phê
duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015.
- Trang thông tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước .




×