Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

chế độ tiền tệ và những liên hệ đến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.19 KB, 20 trang )

Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Tiền tệ là phương tiện thanh toán pháp quy nghĩa là luật pháp quy định người
ta bắt buộc phải chấp nhận nó khi được dùng để thanh toán cho một khoản nợ
được xác lập bằng đơn vị tiền tệ ấy. Một tờ séc có thể bị từ chối khi được dùng
để thanh toán nợ nhưng tiền giấy và tiền kim loại thì không. Tuy nhiên tiền kim
loại có thể là phương tiện thanh toán pháp quy bị luật pháp của một quốc gia
giới hạn không vượt quá một số lượng đơn vị tiền tệ nào đó tuỳ theo mệnh giá
của những đồng tiền kim loại ấy. Theo luật pháp của Việt nam, tiền giấy và tiền
kim loại là phương tiện thanh toán pháp quy không giới hạn.Vậy Tiền xuất hiện
bao giờ, và nó đã trải qua quá trinh phát triển đến ngày nay như thế nào? Cũng
để trả lời câu hỏi trên, nên em đã chọn đề tài " Lịch sử tiền tệ Việt Nam và thế
giới", làm đề tài phân tích của mình, trong quá trinh làm bài, do nhiều yếu tố
khách quan cũng như kiến thức còn hạn hẹp, có gì sai sót mong cô góp í để em
có thể hoàn thiện hơn vốn kiến thức của mình.
2.Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về những khái niệm về tiền tệ
- Tìm hiểu về các chế độ của tiền tệ
- Lịch sử tiền Việt Nam và Thế giới
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
PHOTO QUANG TUẤN
ĐT: 0972.246.583 & 0166.922.4176
Gmail: ; Fabook: vttuan85
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA TIỀN TỆ
1.1.Giá trị và giá cả của tiền tệ
Tiền tệ có giá trị không phải vì nó có giá trị tự thân mà vì những gì tiền tệ có
thể trao đổi được. Giá trị của tiền tệ là số lượng hàng hóa và dịch vụ mua được
bằng một đơn vị của tiền tệ, ví dụ số lượng hàng hóa và dịch vụ mua được bằng


một Dollar. Nói cách khác giá trị của tiền tệ là nghịch đảo của giá cả hàng hóa.
Giá cả của tiền tệ chính là lãi suất, nói một cách khác, giá cả của tiền tệ là số
tiền mà người ta phải trả cho cơ hội được vay nó trong một khoảng thời gian xác
định.
Giá trị của tiền tệ là 1 lượng vàng nguyên chất nhất định làm đơn vị tiền tệ
1.2.Tính chất của tiền tệ
Để có thể thực hiện được các chức năng của tiền, tiền tệ (hay tiền trong lưu
thông) phải có các tính chất cơ bản sau đây:
Tính được chấp nhận rộng rãi: đây là tính chất quan trong nhất của tiền tệ,
người dân phải sẵn sàng chấp nhận tiền trong lưu thông, nếu khác đi nó sẽ
không được coi là tiền nữa. Kể cả một tờ giấy bạc do ngân hàng trung ương phát
hành cũng sẽ mất đi bản chất của nó khi mà trong thời kỳ siêu lạm phát, người ta
không chấp nhận nó như là một phương tiện trao đổi.
Tính dễ nhận biết: Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ nhận biết,
người ta có thể nhận ra nó trong lưu thông một cách dễ dàng. Chính vì thế
những tờ giấy bạc do ngân hàng trung ương phát hành được in ấn trông không
giống bất cứ một tờ giấy chất lượng cao nào khác.
Tính có thể chia nhỏ được: tiền tệ phải có các loại mênh giá khác nhau sao
cho người bán được nhận đúng số tiền bán hàng còn người mua khi thanh toán
bằng một loại tiền có mệnh giá lớn thì phải được nhận tiền trả lại. Tính chất này
giúp cho tiền tệ khắc phục được sự bất tiện của phương thức hàng đổi hàng: nếu
một người mang một con bò đi đổi gạo thì anh ta phải nhận về số gạo nhiều hơn
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
mức anh ta cần trong khi lại không có được những thứ khác cũng cần thiết
không kém.
Tính lâu bền: tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng cất trữ
giá trị cũng như mới có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng không thể dùng để
làm tiền, chính vì vậy những tờ giấy bạc được in trên chất liệu có chất lượng cao
còn tiền xu thì được làm bằng kim loại bền chắc.

Tính dễ vận chuyển: để thuận tiện cho con người trong việc cất trữ, mang
theo, tiền tệ phải dễ vận chuyển. Đó là lý do vì sao những tờ giấy bạc và những
đồng xu có kích thước, trọng lượng rất vừa phải chứ tiền giấy không được in
khổ rộng ví dụ như khổ A4.
Tính khan hiếm: Để dễ được chấp nhận, tiền tệ phải có tính chất khan hiếm
vì nếu có thể kiếm được nó một cách dễ dàng thì nó sẽ không còn ý nghĩa trong
việc cất trữ giá trị và không được chấp nhận trong lưu thông nữa. Vì thế trong
lịch sử những kim loại hiếm như vàng, bạc được dùng làm tiền tệ và ngày nay
ngân hàng trung ương chỉ phát hành một lượng giới hạn tiền giấy và tiền xu.
Tính đồng nhất: tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống hệt nhau
không phân biệt người ta tạo ra nó lúc nào, một đồng xu 5.000 VND được làm
ra cách đây 2 năm cũng có giá trị như một đồng xu như thế vừa mới được đưa
vào lưu thông. Có như vậy tiền tệ mới thực hiện chức năng là đơn vị tính toán
một cách dễ dàng và thuận tiện trong trao đổi.
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
Chương 2: CÁC CHẾ ĐỘ TIỀN TỆ
Chế độ tiền tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia, được
quy định bằng luật pháp.
2.1.Các nhân tố của chế độ tiền tệ
Chế độ tiền tệ có 3 nhân tố:
- Bản vị tiền tệ: là cơ sở định giá đồng tiền quốc gia. Là tiêu chuẩn chung mà
mỗi nước chọn làm cơ sở cho chế độ tiền tệ của mình. Bản vị tiền tệ chính là cái
được sử dụng làm căn cứ để định giá đồng tiền. Có thể chọn một kim loại nào
đó hoặc có thể lấy ngoại tệ hay sức sản xuất trong nước để làm bản vị tiền tệ.
- Đơn vị tiền tệ: mỗi một quốc gia có một đơn vị tiền tệ khác nhau, ví dụ ở
Việt Nam là “đồng”, ở Mỹ là “dollar”…
- Công cụ lưu thông tiền tệ: là những phương tiện lưu thông và phương tiện
thanh toán được sử dụng, chẳng hạn như: tiền giấy, tiền tín dụng, tiền xu…
Trong lịch sử tiền tệ, kể từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, các

nước đã trãi qua nhiều chế độ bản vị tiền tệ khác nhau.
2.2.Chế độ lưu thông tiền kim loại
2.2.1.Chế độ bản vị bạc
Bản vị bạc là đồng tiền của một nước được đảm bảo bằng một trọng lượng
bạc nhất định theo pháp luật của nước đó, thưo đó Nhà nước không hạn chế việc
đúc tiền bạcm tiền giấy Quốc gia được Nhà nước xác định trọng lượng bạc nhất
định, được tự do chuyển đổi ra bạc theo tỷ lệ quy định và được lưu thong không
hạn chế.
Bản vị bạc hay còn gọi là ngân bản vị là hệ thống tiền tệ của một quốc gia
lấybạc làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông tiền tệ. Bản vị bạc là hệ
thống phổ biến trước thế kỷ 19; sau bị nhiều quốc gia thay thế bằng bản vị vàng.
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
2.2.2.Chế độ song bản vị
Là chế độ hai bản vị mà trong đó quy định tỷ lệ trao đổi giữa tiền vàng và
tiền bạc trong lưu thông phụ thuộc vào giá trị thực tế của lượng vàng và lượng
bạc chứa trong hai đồng tiền đó quyết định. Do đó, giá cả hàng hóa và dịch vụ
trên thị trường tất nhiên được thể hiện bằng chỉ hai loại giá cả: Giá cả tính bằng
tiền vàng và giá cả tính bằng tiền bạc. Hai loại giá cả này sẽ thay đổi theo sự
thay đổi tỷ giá giữa kim lại vàng và kim loại bạc hình thành tự phát trên thị
trường, vì vậy giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ bị hỗn loạn và dẫn đến sự hỗn loạn
của thị trường
2.2.3.Chế độ bản vị tiền vàng
Đồng tiền của một nước được bảo đảm bằng một trọng lượng vàng nhất định
theo quy định của pháp luật với những yêu cầu như Nhà nước không hạn chế
việc đúc tiền vàng, tiền giấy quốc gia được nhà nước xác định một trọng lượng
vàng nhất định và được tự do chuyển đỏi ra vàng theo tỉ lệ đó, và tiền vàng được
lưu thông không hạn chế. Chế độ này được áp dụng phổ biến ở các nước cuối
thế kỷ XIX và đầu thế kỉ XX.
2.3. Chế độ bản vị vàng thỏi

Chế độ này cũng quy
định cho đơn vị tiền tệ quốc
gia một trọng lượng vàng cố
định. Nhưng vàng được đúc
thành thỏi mà không thành
tiền, không lưu thông trong
nền kinh tế mà chỉ dự trữ để
làm phương tiện thanh toán
quốc tế và chuyển dịch tài
sản ra nước ngoài. Tiền giấy quốc gia được đổi ra vàng theo luật định. Chế độ
này từng được áp dụng ở Anh năm 1925, ở Pháp năm 1928
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
Bản vị vàng là chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn
được ấn định bằng hàm lượng vàng.
Dưới chế độ bản vị vàng, tổ chức phát hành tiền mặt (ở dạng giấy bạc hay
tiền xu) cam kết sẵn sàng nhận lại tiền mặt và trả vàng nếu được yêu cầu. Các
chính phủ sử dụng thước đo giá trị cố định này nếu chấp nhận thanh toán cả tiền
mặt của chính phủ nước khác bằng vàng sẽ có liên hệ tiền tệ ấn định (lượng tiền
mặt lưu hành, tỷ giá quy đổi, v.v )
Những người ủng hộ chế độ bản vị vàng cho rằng hệ thống này đề kháng
được sự bành trướng tín dụng và nợ nần. Không như chế độ tiền luật định
(không có vàng bảo đảm), đồng tiền được bảo đảm bằng vàng sẽ không cho
phép chính phủ tùy tiện in tiền giấy. Cản trở này ngăn hiện tượng lạm phát do
đánh tụt giá tiền tệ. Nó được tin rằng giúp loại bỏ được sự bất ổn hệ thống tiền
tệ, đảm bảo sự tín nhiệm của tổ chức phát hành tiền tệ và khuyến khích hoạt
động cho vay. Ở những nước không áp dụng bản vị vàng một cách triệt để như
tuyên bố bảo đảm hàm lượng vàng nhưng phát hành tiền giấy nhiều hơn, trải qua
các cuộc khủng hoảng tín dụng và trì trệ kinh tế. Ví dụ là sự hoang mang ở Hoa
Kỳ năm 1819 sau khi Ngân hàng quốc gia thứ hai ra đời năm 1816.

Ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới còn áp dụng bản vị vàng.
Thay vào đó, tiền luật định được áp dụng, có nghĩa là Nhà nước áp đặt sử dụng
đồng tiền do họ phát hành, yêu cầu nộp thuế, nhận trợ cấp, thanh toán của Chính
phủ bằng đồng tiền đó. Ở một số định chế tài chính tư nhân, bản vị vàng vẫn
được áp dụng.
2.4.Chế độ bản vị vàng hối đoái
Chế độ bản vị hối đoái vàng là chế độ bản vị trong đó tiền giấy quốc gia
không được trực tiếp chuyển đổi ra vàng, muốn đổi ra vàng phải thong qua một
ngoại tệ. Ngoại tệ phải được tự do chuyển đổi ra vàng, như đô la Mỹ, bảng Anh.
Đây là chế độ quy định tiền giấy quốc gia không được trực tiếp chuyển đổi ra
vàng. Muốn đổi ra vàng, cần phải thông qua một ngoại tệ. Ngoại tệ đó phải được
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
tự do chuyển đổi ra vàng như USD, Bảng Anh Chế độ này từng được áp dụng
ở Ấn Độ năm 1898, ở Đức năm 1924, ở Hà Lan năm 1928
2.5.Chế độ bản vị ngoại tệ
Chế độ bản vị ngoại tệ là chế độ tiền tệ mà đơn vị tiền quốc gia được xác
định bằng đơn vị tiền tệ của nước ngoài (ngoại tệ). Đó phải là các ngoại tệ mạnh
và được tự do chuyển đổi trên thị trường.
Chế độ này sử dụng phổ biến ở những nước có ít vàng hoặc bị lệ thuộc vào
nước khác. Chế độ này từng được áp dụng từ 1944-1971. Bắt đầu sụp đổ từ
1960.
2.6. Chế độ tiền giấy không chuyển đổi ra vàng có bản vị là sức mua
hàng hóa dịch vụ
Chế độ tiền giấy không được chuyển đổi ra vàng có bản vị là sức mua hàng
hóa dịch vụ là chế độ tiền tệ mới trong đó đơn vị tiền tệ của một nước không thể
tự do chuyển đổi ra kim loai quý.
Dưới chế độ này, đơn vị tiền tệ của một quốc gia không được chuyển đổi ra
kim loại quý. Theo đó, vàng bị rút ra khỏi lưu thông trong nước, tiền giấy không
được đổi ra vàng và vàng chỉ được dùng để thanh toán quốc tế. Chế đô này phổ

biến vào những năm 1930.
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
Chương 3: LỊCH SỬ TIỀN Ở VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
3.1.Chế độ lưu thông tiền tệ ở Việt Nam
3.1.1.Thời kỳ phong kiến
Tiền thời nhà Trần
Thời kỳ phong kiến nhà Trần đã lưu thong tiền đúc bằng đồng, đây là tiền
được đúc đầu tiên ở Việt Nam.
Ngoài những đĩnh vàng, đĩnh bạc, tiền tệ Việt Nam chủ yếu là tiền đồng, tiền
kẽm.
Thời Đinh, Lê: Đinh Tiên Hoàng cho đúc tiền đồng hiệu Thái bình thông bảo
sau đó Lê Đại Hành cho đúc tiền đồng Thiên phúc trấn bảo.
Thời Lý: dưới triều vua Lý Thái Tông, tiền đồng có hiệu Minh đạo thông
bảo, sang đến triều Lý Thần Tông, tiền đồng hiệu là Thuận thiên thông bảo.
Thời Trần, Hồ: các triều vua cũng cho đúc tiền đồng, đến đời Trần Minh
Tông (1323) thì chuyển sang đúc tiền kẽm, tuy nhiên do tiền kẽm sử dụng không
được thuận tiện nên nhanh chóng bị bãi bỏ. Dưới triều vua Trần Thuận Tông,
Hồ Quý Ly chấp chính đã bắt đầu cho phát hành tiền giấy gọi là Thông bảo hội
sao. Tiền giấy Thông bảo hội sao có các loại mệnh giá sau: 1 quan vẽ rồng, 30
đồng vẽ sóng nước, 10 đồng vẽ cây đào, 5 tiền vẽ chim phượng, 3 tiền vẽ kỳ lân,
2 tiền vẽ rùa, 1 tiền vẽ mây. Dân cư có tiền cũ phải nộp hết vào kho của Nhà
nước và cứ 1 quan tiền đồng đổi thành 1 quan 2 tiền giấy, ai tàng trữ sẽ bị tử
hình nhằm loại bỏ hẳn tiền đồng và bắt buộc sử dụng tiền giấy.
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
Thời Lê, Mạc: trải qua giai đoạn bị nhà Minh đô hộ, khi Lê Thái Tổ lật đổ
ách thống trị của nhà Minh và lên ngôi vua, tiền đồng trong nước không còn,
ông cho đúc tiền đồng Thuận thiên thông bảo và quy định 1 tiền bằng 50 đồng.
Triều vua Lê Thái Tông đúc tiền đồng hiệu Thiệu bình và quy định 1 tiền bằng

60 đồng. Năm 1528, Mạc Đăng Dung cho đúc tiền kẽm và cả tiền sắt, đến năm
1658, tiền kẽm và tiền sắt bị cấm sử dụng. Dưới triều vua Lê Hiển Tông (niên
hiệu Cảnh Hưng), do những cuộc nội chiến liên miên tốn kém chi phí nên nhà
vua cho mở rất nhiều sở đúc tiền để đúc tiền kẽm. Năm 1726 (Cảnh Hưng thứ
37), tiền đồng niên hiệu Cảnh Hưng thuận bảo lại được đúc từ binh khí và đại
bác bằng đồng không sử dụng nữa.
Thời Nguyễn: Sau khi lên ngôi, vua Gia Long cho mở các sở đúc tiền ở Bắc
thành, Gia Định để đúc tiền đồng Gia Long thông bảo. Các triều vua sau của nhà
Nguyễn tiếp tục đúc tiền đồng và có lúc đúc cả tiền kẽm. Song song với tiền
đồng, các loại thoi bạc, thoi vàng và tiền bạc, tiền vàng cũng xuất hiện từ
khoảng năm 1820, cuối triều Gia Long, đầu triều Minh Mạng. Vàng được định
giá gấp 17 lần bạc và mỗi lạng bạc giá 2 quan 3 tiền đồng.
3.1.2. Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược (đến 8/1945)
Trong thời kỳ này, đơn vị tiền tệ của cả khu vực Đông Dương là piastre,
được dịch ra tiếng Việt là "đồng" hay đôi khi là "bạc". Tiền tệ do chính quyền
trong giai đoạn này lấy bạc làm bản vị nhưng những đồng tiền của các triều vua
nhà Nguyễn vẫn được lưu hành chủ yếu ở các vùng nông thôn mặc dù bất hợp
pháp. Tiền đúc lúc đầu có đồng bạc Mexico nặng 27 gam 073 (độ tinh khiết 902
phần nghìn), sau đó là đồng bạc Đông Dương được đúc ở Pháp nặng 27 gam (độ
tinh khiết 900 phần nghìn). Tiền giấy thời kỳ này được Ngân hàng Đông Dương
phát hành và có thể đem đến ngân hàng đổi thành bạc. Một sắc lệnh ngày 16
tháng 5 năm 1900 cho phép Ngân hàng Đông Dương in tiền giấy gấp ba lần số
bạc đảm bảo nhưng khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra thì tỷ lệ này
không còn giữ được nữa, tiền giấy phát hành gấp nhiều lần số bạc đảm bảo. Sau
một số biện pháp cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Pháp
có sắc lệnh quy định đồng bạc Đông Pháp (Đông Dương) có giá trị là 655
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
miligam vàng (độ tinh khiết 900 phần nghìn), từ đó chấm dứt chế độ bản vị bạc
mà chuyển sang bản vị vàng.

3.1.3. Thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ (9/1945 đến 4/1975)
Từ 1945-1954: Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 31
tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nghị định phát hành tiền Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Và ngày 31 tháng 11 năm 1946, giấy bạc Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời. Một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng
chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình Hồ Chí Minh; một mặt in hình Nông - Công -
Binh. Các loại giấy bạc đều có số Ả Rập, chữ quốc ngữ, chữ Hán, Lào,
Campuchia chỉ mệnh giá, có ký tên Bộ trưởng Bộ Tài chính (Phạm Văn Đồng
hoặc Lê Văn Hiến) và Giám đốc Ngân khố trung ương. Do đó ngoài tên gọi là
giấy bạc cụ Hồ, nhân dân còn gọi là giấy bạc tài chính. Ngày 5 tháng 6 năm
1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Nghị định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam và phát hành giấy bạc ngân hàng. Giấy bạc ngân hàng đổi lấy giấy bạc tài
chính theo tỷ lệ 1 đồng ngân hàng đổi 10 đồng tài chính. Giấy bạc ngân hàng có
các loại mệnh giá: 1 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng, 500
đồng, 1.000 đồng và 5.000 đồng. Một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(chữ Hán và chữ quốc ngữ) và hình Hồ Chí Minh; một mặt in hình Công - Nông
- Binh, hình bộ đội ở chiến trường. Trên tờ giấy bạc có số hiệu, mệnh giá ghi
bằng số Ả Rập, chữ quốc ngữ và chữ Hán. Sau đó, việc liên lạc giữa địa phương
và trung ương có nhiều khó khăn, nên chính quyền trung ương cho phép Trung
Bộ và Nam Bộ phát hành tiền riêng. Tiền này có mệnh giá 1 đồng, 5 đồng, 20
đồng, 50 đồng, 100 đồng. Hình ảnh trang trí cũng tương tự như giấy bạc ngân
hàng chỉ khác là trên giấy bạc có chữ ký của Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam
Bộ (Phạm Văn Bạch), đại diện Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân khố
Nam Bộ. Một số tỉnh được phát hành tín phiếu, phiếu đổi chác, phiếu tiếp tế
hoặc giấy bạc chỉ lưu hành trong tỉnh. Thời kỳ đó, ở Nam Bộ nền kinh tế chia ra
hai vùng, sử dụng hai loại tiền khác nhau, vùng thuộc sự kiểm soát của Pháp lưu
hành tiền do Pháp phát hành. Mặt khác, mặc dù Chính phủ phát hành tiền Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng do phương tiện giao thông còn khó khăn nên
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường

loại tiền này không lưu hành đến Nam Bộ. Chính vì thế, sau Cách mạng tháng
Tám, nhân dân Nam Bộ vẫn sử dụng các loại tiền giấy, tiền kim loại do chế độ
cũ phát hành.
Từ 1954-1975: Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền Nam có
hai chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là đồng. Ở miền Nam, từ
năm 1953, lưu hành Đồng (tiền Việt Nam Cộng hòa).
3.1.4. Thời kỳ thống nhất tổ quốc từ sau 4/1975 - 1978
Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống
nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền
cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và
thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền nam.
Sau 30 tháng 4 năm 1975: tiền miền Nam phải đổi thành tiền giải phóng với
giá 500 đồng miền Nam cho mỗi đồng giải phóng từ Quảng Nam-Đà Nẵng trở
vào, ở Thừa Thiên-Huế trở ra, 1000 đồng tiền miền Nam đổi được 3 đồng giải
phóng. Vào năm 1978, sau khi thống nhất hai miền về mặt hành chính, đã có
một cuộc đổi tiền nữa. Tỷ giá đổi tiền miền Bắc là 1 đồng cũ thành 1 đồng thống
nhất trong khi tại miền Nam 1 đồng giải phóng thành 8 hào tiền thống nhất. Lần
đổi tiền thứ ba xảy ra vào năm 1985, khi 10 đồng tiền cũ đổi thành 1 đồng tiền
mới.
Trong tiếng Việt, "đồng" cũng có thể dùng để chỉ đến những đơn vị tiền tệ
nước ngoài, đặc biệt là những đơn vị ít người biết đến. Trong một số cộng đồng
dùng tiếng Việt ở hải ngoại, đồng cũng có thể dùng để chỉ đến đơn vị tiền tệ địa
phương.
3.1.5.Thời kỳ năm 1979-1985
Ngay sau đợt đổi tiền năm 1978 do nền kinh tế nói chung còn ở trình độ quá
nghèo nàn, lạc hậu lại do những sai lầm trong cải cách thành phần kinh tế - nhất
là cải tạo giới công thương nghiệp miền Nam để áp dụng cơ chế bao cấp giống
như ở miền Bắc trong cả nước nên lạm phát đã lien tục gia tăng – Từ chổ giá trị
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường

đồng tiền mới sát với sức mua của đồng đôla Mỹ (1.25 đ/ 1USD) đã nhanh
chóng bị “doãn ra” .
Tiền Việt Nam được đảm bảo bằng bản vị sức mua hàng hóa dịch vụ. Dưới
hình thức tiền giấy và tiền kim loại có mệnh giá nhỏ.
Trước tình hình phức tạp của lưu thong hàng – tiền và nạn khan hiếm tiền
mặt nghiêm trọng thanh toán, ngày 14/09/1994 Nhà nước lại phải công bố đổi
tiền lần thứ tư theo tỷ lệ 10 đ tiền NHNN cuc ăn 1 đ tiền NHNN mới.
Lần đổi tiền năm 1985 chỉ 3.5 tháng sau ngày đổi tiền, Nhà nước phải cho
phát hành them vào lưu thong một khối lượng lớn tiền tương đương với 1.38 lần
khối lượng tiền mới đã phát hành trong đợt đổi tiền trước đó để phục vụ công
cuộc cải cách lương và giá. Tiếp đó lại là một quá trình diễn biến phức tạp mới
về quan hệ tiền – hàng và kết quả là nạn thừa tiền xãy ra.
Đến cuối những năm 80 , hệ thống Ngân hàng Nhà nước cơ bản vẫn hoạt
động như là một công cụ ngân sách Nhà nước, chưa thực hiện các hoạt động
kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường.
Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng – chuyển dần
sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối
những năm 80 và kéo dài tới ngày nay.
3.1.6. Thời kỳ từ năm 1986 – 2003
Năm 1986, lạm phát tới trên 774% ngay đối với đồng tiền mệnh giá mới đã
gấp mười lần đồng tiền mệnh giá cũ – cơ chế tập trung quan lưu bao cấp kéo dài
quá lâu đã trở thành vật cản và là nguyên nhân làm trì trệ kinh tế nhà nước.
Cho đến cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, gần tròn 40 năm kể từ sau khi
thành lập NHQG Việt Nam, nền tiền tệ của Việt Nam cơ bản vẫn là một nền tiền
tệ tài chính. Quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị chia lấp bởi quan hệ phân phối hiện
vật, đồng tiền Việt Nam chưa bao giờ có bản vị hàm lượng kim khí hoạc đá quý.
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
Sức mua thực tế luôn bị giảm sút ngay cả khi giá trị danh nghĩa được nhân lên
sau mỗi lần đổi tiền.

Từ tháng 5/1990, hai Pháp lệnh Ngân hàng ra đời đã chính thức chuyển cơ
chế hoạt động của hệ thống NHVN từ 1 cấp sang 2 cấp - Trong đó lần đầu tiên
đối tượng, nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân
biệt rạch ròi. Trong điều hành chính sách tiền tệm lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá
trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách cụ thể đối
với hệ thống các NH cấp 2 – cấp NHKD thuộc lĩnh vực lưu thong tiền tệ, tín
dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ NH trong toàn nền KTQD.
3.1.7. Thời kỳ từ năm 2003 đến nay
Những năm gần đây, Việt Nam cho ra đời tiền kim loại có mệnh giá nhỏ kết
hợp với việc in tiền mới, nhưng một số tờ tiền mới in đã gặp lỗi kĩ thuật
Nhờ có tốc độ tăng trưởng bình quân những năm gần đây cao, khoảng 7-8%
đặc biệt là sụ kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO nên vị
thế của đồng tiền Việt Nam đã được nâng cao trên trường Quốc tế.
3.2.Lịch sử tiền ở trên thế giới
3.2.1. Tại Á châu
Trung-hoa là nước đã phát-minh ra giấy và cũng là nước có ý-niệm về tiền
giấy trước tiên, không những đối với châu Á, mà cả các châu lục khác trên thế-
giới. Thực vậy, dưới triều-đại nhà Đường (618-997), nhu-cầu trao đổi ngày càng
trở nên quan-trọng, do đó khái-niệm tín-dụng đã nảy sinh trong đầu óc người
Tàu. Họ sẵn-sàng dùng một miếng giấy để ghi nhận giá-trị của một món hàng
Đến đời nhà Tống (960-1276), nền thương-mại rất phát-đạt mà tiền kim-loại
lại không đủ để đáp-ứng nhu-cầu sinh-hoạt, nên một vài thương-gia đã có sáng-
kiến tự phát-hành tiền riêng, gọi là «Zhu Quan», in bằng giấy dâu tằm (papier à
mûrier). Vào năm 1024, triều-đình nhà Tống dành độc-quyền phát-hành tiền
giấy.
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
3.2.2. Tại Âu châu
Trong khi tại Trung-hoa, tiền giấy đã được chính-thức lưu-hành cách rộng-rãi
từ triều-đại nhà Tống (960-1278) đến triều-đại nhà Nguyên (1280-1341), thì ở

Âu châu, người ta vẫn chưa có khái-niệm gì về việc phát-hành loại tiền giấy nầy.
Mãi cho tới thế-kỷ XII, qua cuốn hồi-ký của Marco Polo, một người Ý đã ở
Bắc-Kinh 17 năm (1274-1291) và làm việc tại triều vua Thái-tổ nhà Nguyên là
Hốt-tất-liệt (Koubila#). Trong đó, ông đã ghi lại «vô vàn những điều mới lạ»
cũng như đã trình-bày việc sản-xuất và lưu-hành tờ giấy bạc như thế nào.
Tại Âu châu, tờ tiền giấy đầu tiên đã được thực-hiện cách rất đơn-giản.
Người ta khắc niên-hiệu và hình-ảnh lên một tấm đồng, rồi in mực đen trên giấy
trắng. Ngày tháng, trị-giá, số thứ-tự cùng chữ ký đều viết bằng tay. Quả là hữu-
ích, vì có bằng-chứng cụ-thể, nhưng lại không thực-tiễn, khi cần chế-tạo một số-
lượng lớn.
Những tờ giấy bạc ấy ra đời vào năm 1483. Nó được phát-hành trong bối-
cảnh người Tây-ban-nha bị bao vây bởi những người Moors. Ngoài ra, cũng có
giả-thuyết cho rằng sự xuất-hiện những «tờ tiền» làm bằng giấy bồi, gồm nhiều
dạng với trị-giá khác nhau, đã được sản-xuất vào năm 1574 tại hai thành phố của
nước Đức lúc bấy giờ là Leyden và Middelburg.
Hai thành phố nầy đang bị người Tây-ban-nha bao vây ngặt-nghèo, nên thiếu
bạc thật để đúc những đồng tiền kim-loại. Do đó, những công dân bị vây hãm
trong hai thành, đã phải dùng bìa các cuốn sổ đạo Công-giáo để làm vật-liệu
chế-tạo các loại tiền giấy bồi, mang tên là «giấy bạc cấp-bách».
Tuy các loại «giấy bạc cấp-bách» được mô-tả là loại tiền giấy lâu đời nhất
của Âu châu và của Đức-quốc, nhưng không phải là những tờ giấy bạc thật.
Những tờ giấy bạc thật đầu tiên là những tờ giấy bạc của ngân-hàng «Banco di
Gyro d’Affrancatione», phát-hành năm 1705 bởi Elector Johann Wilhem.
Đồng Euro: Như đã nói trong mục tiền kim-loại, Âu châu hiện nay có loại
tiền giấy mới, đó là đồng Euro. Euro là kế-tục của ECU (đơn-vị tiền-tệ Âu
châu). Tiền Euro đã được chính-thức lưu-hành kể từ ngày 01.01.2002., tuy rằng
nó đã được đưa vào sử-dụng đã 3 năm về trước, tức là từ ngày 01.01.1999.
Tiền giấy Euro có 7 mệnh-giá: 54, 104, 204, 504, 1004, 2004 và 5004. Mỗi
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường

mệnh-giá có một màu sắc riêng biệt. Khác vớt tiền kim-loại, tiền giấy Euro
không có một mặt đặc-trưng cho từng quốc-gia. Vì thế, không thể phân-biệt qua
hình-ảnh là tờ tiền giấy của quốc-gia nào. Vì tất cả hình-ảnh trên các tờ tiền
giấy, đều mang hình-ảnh kiến-trúc của Âu châu, qua các thời-kỳ khác nhau
trong lịch-sử nghệ-thuật.
3.2.3. Tại Mỹ châu
Tiền giấy đầu tiên ở Mỹ châu, hay nói đúng hơn là «tiền-thân» của tiền giấy,
đã được xuất-phát tại Québec, Gia-nã-đại, dưới hình-thức là một con bài (carte à
jouer). Thời vua Louis XIV, các lãnh-thổ phía Bắc châu Mỹ, từ sông St-Laurent
đến sông Mississipi là thuộc-địa của Pháp và được gọi là Tân Pháp-quốc
(Nouvelle France), Gia-nã-đại ở trong vùng nầy.
Vào năm 1685, Jacques de Meulles, viên sĩ-quan quản-lý quân-đội Pháp ở
Gia-nã-đại, do tiền (kim-loại) từ mẫu-quốc chở tới trễ, ông đã nảy ra sáng-kiến
là trả lương cho lính, bằng những con bài mà thường ngày họ dùng để chơi giải-
trí.
Ông ký tên và đóng dấu hoa huệ lên các lá bài với lời cam-kết. Thoạt đầu
việc làm nầy bị chỉ-trích, nhưng cuối cùng Verseilles đã chấp-nhận và gởi cho
ông hơn 200.000 con bài mới tinh, và rất nhanh chóng, lối sử-dụng nầy đã trở
thành phổ-quát trên đất Pháp. Đến năm 1701, tiền giấy «billets de monoye»
chính-thức lưu-hành để cung-ứng nhu-cầu chiến-tranh thừa-kế ở Tây-ban-nha.
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
KẾT LUẬN
Tiền ra đời từ nhu cầu kinh tế thực tế của loài người khi mà nền sản xuất đạt
đến một trình độ nhất định và con người đã có thể tự do đi lại trong một phạm vi
lãnh thổ rộng lớn. Khi đó, thay vì phải chuẩn bị hành lý cồng kềnh cho chuyến
đi dài ngày, con người chỉ cần mang theo một lượng nhỏ kim loại quý hoặc tiền
được ưa chuộng ở nhiều nơi để đổi cho mình những nhu yếu phẩm cần thiết. Từ
đó các hoạt động thương mại đã ra đời, tiền tệ được quy ước và ban hành, quản
lý bởi nhà nước. Đổi lại, nhà nước có quyền thu thuế từ các hoạt động thương

mại. Nói một cách chặt chẽ thì tiền chỉ là những gì mà luật pháp bắt buộc phải
công nhận là một phương tiện thanh toán. Tiền tệ đã hình nthanhf và phát triền
qua nhiều giai đoạn, cho đến ngày này , tiền đang dần hoàn thiện chức năng cảu
mình và ngày càng thuận tiện hơn .Qua bài viết này, tôi hi vọng các bạn sẽ hiểu
thêm về quá trình phát triển của tiền tệ trên thế giới cũng như quá trình phát
triển tiền ở Việt Nam. Hy vọng trong tương lai, thế giới sẽ xuất hiện nhiều loại
tiền mới thuận tiện hơn cho việc buôn bán và trao đổi.
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tài chính tiền tệ - Trường ĐHCN TP. Hồ Chí Minh.(Trang 60 –
trang 82)
2. Các trang web: Tailieu.vn; ;
3. Các tài liệu tham khảo tại thư viện của trường ĐHCN TP. Hồ Chí Minh
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1.Lý do chọn đề tài 1
2.Mục đích nghiên cứu 1
NỘI DUNG 2
Chương 1: NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA TIỀN TỆ 2
1.1.Giá trị và giá cả của tiền tệ 2
1.2.Tính chất của tiền tệ 2
Chương 2: CÁC CHẾ ĐỘ TIỀN TỆ 4
2.1.Các nhân tố của chế độ tiền tệ 4
2.2.2.Chế độ song bản vị 5
2.2.3.Chế độ bản vị tiền vàng 5
2.4.Chế độ bản vị vàng hối đoái 6
2.5.Chế độ bản vị ngoại tệ 7

2.6. Chế độ tiền giấy không chuyển đổi ra vàng có bản vị là sức mua hàng
hóa dịch vụ 7
Chương 3: LỊCH SỬ TIỀN Ở VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI 8
3.1.Chế độ lưu thông tiền tệ ở Việt Nam 8
3.1.1.Thời kỳ phong kiến 8
3.1.2. Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược (đến 8/1945) 9
3.1.3. Thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ (9/1945 đến 4/1975) 10
3.1.4. Thời kỳ thống nhất tổ quốc từ sau 4/1975 - 1978 11
3.1.5.Thời kỳ năm 1979-1985 11
3.1.6. Thời kỳ từ năm 1986 – 2003 12
3.1.7. Thời kỳ từ năm 2003 đến nay 13
3.2.Lịch sử tiền ở trên thế giới 13
3.2.1. Tại Á châu 13
3.2.2. Tại Âu châu 14
3.2.3. Tại Mỹ châu 15
KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
LỜI CẢM ƠN
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
Trong quá trình học tập tại trường Đại Học Công Nghiệp TP.HCM cơ sở
Thanh Hóa. Ban giám hiệu nhà trường, Khoa Kinh tế, các thầy cô bên khoa nhất
là Cô Trần Thị Hường đã dạy và hướng dẫn em, tạo điều kiện liên hệ cho em,
sinh viên của trường có được một môi trường tìm hiểu những kiến thức sâu
rộng, em xin được cảm ơn các thầy cô bên Thư viện đã cho em mượn, tham
khảo những tài liệu để em học tập và làm bài tiểu luận này.
Tuy đã có rất nhiều cố gắng và nổ lực trong quá trình làm bài tiểu luận,
xong không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình tìm hiểu,trình bày và
đánh giá. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy, cô cùng tất cả các
bạn đọc.

Em xin chân thành cảm ơn!
SINH VIÊN THỰC HIỆN
Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
Bài tiểu luận: “Lịch sử tiền Việt Nam và trên thế giới” GVHD: Trần Thị Hường
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN










Sinh viên: Trần Thị Lệ Hà MSSV: 11021913 Lớp: CDKT13DTH
TT SVTH MSSV ĐIỂM GHI CHÚ
1 TRẦN THỊ LỆ HÀ

×