Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

đồ án đề tài khái quát về virus tin học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.3 KB, 22 trang )




LỜI NÓI ĐẦU


Virus là một chương trình máy tính trong đó bao hàm những kỹ thuật cao
về một chương trình tự hành. Là một chương trình gắn liền với chức năng phần
cứng.
Tìm hiểu về virus để từ đó xây dựng chương trình tự hành, cách thức lập
trình, và lập trình với cấu trúc phần cứng.
Nội dung của đề tài “Tìm hiểu file virus trên DOS ” bao gồm:
Chương 1: Tổng quan về virus
1.1.
Giới thiệu về virus
1.2. Cấu trúc của chương trình virus
1.3. Các kỹ thuật xây dựng virus
Chương 2: Tổ chức và cách thức thực thi một chương tình trên DOS
2.1. Một số hàm chức năng quan trọng trên DOS
2.2. Cách thức thức thi chương trình
Chương 3: Xây dựng chương trình thử nghiệm























CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VIRUS FILE
1.1 . GIỚI THIỆU VỀ VIRUS
1.1.1 . Virus tin học là gì?
Nói theo cách đơn giản, nó là một chương trình có khả năng sao chép. Khi nó
thực thi, nó sẽ tạo ra một hay nhiều bản copy của chính nó một cách đơn giản
nhất. Những copy này sau đó có thể tiếp tục thực hiện nhiều copy khác.
Một cách thông thường, virus sẽ xâm nhập vào các chương trình khác
hoặc điều khiển phía sau chương trình để sao chép dễ dàng. Cách tiếp cậ
n này
thiết lập một phần virus từ những phần mềm tự sao chép khác bởi nó cho phép
virus tự sao chép mà không cần sự đồng ý của hệ điều hành. So sánh điều này
với 1 chương trình đơn giản được gọi là "1.COM". Khi thực hiện, nó có thể sẽ
tạo ra "2.COM" "3.COM", , những bản có thể là bản copy của chính
"1.COM". Bây giờ một người sử dụng máy tính bình thường cũng có thể chạy
một chương trình 1 ho
ặc 2 lần theo yêu cầu của bạn, nhưng sau đó họ sẽ phải
xóa nó đi và sẽ kết thúc chương trình đó. Nó sẽ không tiến xa. Không phải vậy,
bây giờ virus máy tính bởi vì nó xâm nhập vào những chương trình có ích khác.

Người dùng sẽ sử dụng các chương trình này một cách thông thường và sẽ thực
thi cùng với chúng. Bằng cách này, virus sẽ tồn tại được.
Một cách chính xác, thuật ngữ virus máy tính là thuật ngữ sai. Nó được
đặt tên bởi Fred Cohen trong luận v
ăn tốt nghiệp năm 1985 của ông. Đây là luận
văn trình bày về phần mềm tự sao chép được và khả năng của nó làm hại cái gọi
là hệ thống bảo mật.Thật sự thì virus là một cái tên không được đúng lắm.Từ
này báo trước điềm xấu và phỏng đóan cái gì đó không tốt.Thậm chí ngay cả
Fred Cohen cũng hối tiếc vì đã đặt ra thuật ngữ này. Và bây giờ ông cho rằng
chúng ta g
ọi những chương trình này là "chương trình sống".
Trên thực tế,virus giống như một sinh vật sống đơn bào đơn giản hơn là
hơn là một virus sinh học. Mặc dù tự nó có thể xâm nhập vào các chương trình
khác, những chương trình này sẽ không tồn tại trong bất kỳ khả năng nào. Hơn
thế nữa, một sinh vật sống vốn không có gì là xấu mặc dù nó có vẻ khá cứng
đầu. Giống như cây địa y có thể
ăn sâu vào trong đá và phá hủy nó theo thời
gian, virus máy tính có thể ăn sâu vào máy tính và làm những việc mà bạn
không mong muốn. Một vài loại virus có thể phá hủy toàn bộ dữ liệu trong ổ
cứng trong khi một số khác sẽ sử dụng một vài chu trình của máy tính.
Ngoại trừ vẻ bề ngoài cứng cổ, ta cũng nên nhận thấy rằng virus máy tính
không vốn dĩ đã là tiêu cực. Chúng có thể chiếm một vài chu trình của
computer, tuy nhiên, khi một virus có ý nhắm tới việc phá hủy, chỉ những virus
thành công mới có thể khiến hệ thống tài nguyên của bạn chú ý một phần nhỏ.
Virus có thể đặt cho virus máy tính 1 cái tên cho sự phá hủy một cách chung
nhất là bom logic mà khởi đầu là ngày tháng và sau đó hiển thị lời nhắn hoặc
gây fiền nhiễu, khó chịu. Giống bom logic, tuy nhiên, không có gì để làm với sự
tự sao chép gi
ống virus. Chúng là phần trọng tải thêm vào đoạn mã tự sao chép.
Khi em nói rằng virus máy tính không hẳn đã là tiêu cực tất nhiên, em

không có ý nói rằng bạn không cần phải đề phòng chúng. Có những người viết
virus không ngoài mục đích nào khác là phá hủy dư liệu trong máy tính của bạn.
Ngay khi họ được đề cập đến, họ muốn virus của họ là kinh nghiệm không thể
quên của bạn. Họ là những người vô chính phủ và bạn nên cố gắng tránh xa.
Đi
ều này có nghĩa là nên đề phòng nhưng tại cùng một thời điểm, xem như
khả năng có thể của đoạn mã tự sao có thể làm được những gì mà chương trình
bình thường không làm được. Sau cùng, virus có thể có mặt tốt trong.
1.1.3 Phân loại
Thông thường, dựa vào đối tượng lây lan là file hay đĩa mà virus được
chia thành hai nhóm chính:
- B-virus: Virus chỉ tấn công lên Master Boot hay Boot Sector.
- F-virus: Virus chỉ tấn công lên các file khả thi.
Mặc dù vậy, cách phân chia này không hẳn là chính xác. Ngoại lệ vẫn có
các virus vừa tấ
n công lên Master Boot (Boot Sector) vừa tấn công lên file khả
thi.
Để có cách nhìn tổng quan về virus, chúng ta xem chúng dành quyền như
thế nào.
a. B-virus







Khi máy tính bắt đầu khởi động (Power on), Các thanh ghi phân đoạn đều
được đặt về OFFFFh, còn mọi thanh ghi khác đều được đặt về 0. Như vậy,
quyền điều khiển ban đầu được trao cho đoạn mã tại 0FFFFh: 0h, đoạn mã này

Vùng lây lan
virus
thực ra chỉ là lệnh nhảy JMP FAR đến một đoạn chương trình trong ROM, đoạn
chương trình này thực hiện quá trình POST (Power On Self Test – Tự kiểm tra
khi khởi động).
Quá trình POST sẽ lần lượt kiểm tra các thanh ghi, kiểm tra bộ nhớ, khởi
tạo các Chip điều khiển DMA, bộ điều khiển ngắt, bộ điều khiển đĩa… Sau đó
nó sẽ dò tìm các Card thiết bị gắn thêm để trao quyền đ
iều khiển cho chúng tự
tạo rồi lấy lại quyền điều khiển. Chú ý rằng đây là đoạn chương trình trong
ROM (Read Only Memory) nên không thể sửa đổi, cũng như không thể chèn
thêm một đoạn mã nào khác.
Sau quá trình POST, đoạn chương trình trong ROM tiến hành đọc Boot
Sector trên đĩa A hoặc Master Boot trên đĩa cứng vào RAM (Random Acess
Memory) tại địa chỉ 0:7C00h và trao quyền điều khiển cho đoạn mã đó bằng
lệnh JMP FAR 0:7C00h.
Đây là chỗ mà B-virus lợi dụng để tấn công vào Boot
Sector (Master Boot), nghĩa là nó sẽ thay Boot Sector (Master Boot) chuẩn bằng
đoạn mã virus, vì thế quyền điều khiển được trao cho virus, nó sẽ tiến hành các
hoạt động của mình trước, rồi sau đó mới tiến hành các thao tác như thông
thường: Đọc Boot Sector (Master Boot) chuẩn mà nó cất giấu ở đâu đó vào
0:7C00h rồi trao quyền điều khiển cho đoạn mã chuẩn này, và người sử dụng có
c
ảm giác rằng máy tính của mình vẫn hoạt động bình thường.
* Ưu điểm:
Không phụ thuộc hệ điều hành
* Nhược điểm:
- Đối tượng lây nhiễm ít->Khả năng lây nhiễm không cao.
- Kích cỡ bị hạn chế.
- Không sử dụng được dịch vụ của hệ điều hành(vì nó chạy trước

hệ
điều hành ).
=> Khó viết và khó lây nhiễm.
b. F-virus






Vùng dữ liệu củ tập
tin th

c thi EXE
,

Vùng Virus
c

n
g
thêm
Khi DOS tổ chức thi hành file khả thi (bằng chức năng 4Bh của ngắt 21h),
nó sẽ tổ chức lại vùng nhớ, tải file cần thi hành và trao quyền điều khiển cho file
đó. F-virus lợi dụng điểm này bằng cách gắn đoạn mã của mình vào file đúng tại
vị trí mà DOS trao quyền điều khiển cho file sau khi đã tải file vào vùng nhớ.
Sau khi F-virus tiến hành xong các hoạt động của mình, nó mới sắp xếp, bố trí
trả
lại quyền điều khiển cho file để cho file lại tiến hành hoạt động bình thường,
và người sử dụng thì không biết được.

* Ưu điểm:
- Đối tượng lây nhiễm lớn ->Khả năng lây nhiễm cao
- Kích thước không bị hạn chế
- Sử dụng được các dịch vụ của hệ điều hành
=>”Dễ viết” dễ lây nhiễm.
* Nhược điểm: Bị
phụ thuộc hệ điều hành
Trong các loại B-virus và F-virus, có một số loại sau khi dành được quyền
điều khiển, sẽ tiến hành cài đặt một đoạn mã của mình trong vùng nhớ RAM
như một chương trình thường trú (TSR), hoặc trong vùng nhớ nằm ngoài tầm
kiểm soạt của DOS, nhằm mục đích kiểm soát các ngắt quan trong như ngắt 21h,
ngắt 13h,…Mỗi khi các ngắt được gọi, virus sẽ dành quyền
điều khiển để tiến
hành các hoạt động các hoạt động của mình trước khi trả lại các ngắt chuẩn của
DOS.
1.2. CẤU TRÚC TỔNG QUAN CỦA VIRUS FILE
Cấu trúc của một virus File được thể hiện một cách tổng quát qua
sơ đồ giả thuật sau:

































Đúng
End
Thực hiện CT phá hoại
Cài đặt CT vào bộ nhớ RAM
Tìm kiếm file để lây
Lây nhiễm
KT Đã có CT trong vùng
nhớ chưa?
Cần phá họai
Trả quyền điều khiển cho file chủ

Thấy
Chưa
Có rồi
Sai
Begin
Sai

Từ sơ đồ cấu trúc trên ta có thể đặt ra một số các yêu cầu sau cho virus file:
- Tính tồn tại duy nhất:
Tính tồn tai duy nhất được đảm bảo bởi phần kiểm tra virus đã có trong
vùng nhớ hay không. Việc kiểm tra này đảm bảo cho virus có mặt chỉ một lần
trong vùng nhớ hay trên file ( tất nhiên ta không xét đến trường hợp nhiều virus
tấn côg một file hay một hệ thống ).
Yêu cầu này đảm bảo làm giảm thời gian thi hành file khi trong vùng nhớ

có thể có quá nhiều bản sao của một virus, cũng như đảm bảo kích thước file
không tăng lên quá nhanh làm làm virus dễ bị phát hiện nhưng cũng làm tăng
thời gian nạp file.
- Tính thường trú:
Tính thường trú thể hiện cho quá trình cài đặt virus vào RAM. Tính chất
này yêu cầu file virus sau khi kiểm tra trong vùng nhớ thấy vung nhớ còn “sạch”
thì phải lập tức lưu trú vào bộ nhơ RAM để có thể thực hiện việc chiếm quyền
điều khi
ển khi cần lây nhiễm sang file đang được gọi hoặc khi phá hoại.
- Tính lây lan:
Đây là yêu cầu bắt buộc của bất cứ một loại virus nào. Nó được thực hiện
trong 2 quá trình: tìm kiếm và lây nhiễm. Nó đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của virus, và thế mới gọi là “Virus”. Một virus khoẻ phải có tốc độ lây lan
nhanh và do đó nó mới đảm bảo cho tính tồn tại của mình.
- Tính phá hoại:

Tính phá hoại đ
ôi khi chỉ do ngẫu nhiên khi logic của file virus không dự
trù hết các trường hợp có thể xảy ra, hoặc do cố ý, nhưng có ý mà không lường
hết hậu quả cũng dẫn đến tai hoạ vo cùng khủng khiếp.
Việc phát hiện một virus file đơn giản hơn việc phát hiện một virus boots
nhiều. Bất kỳ sự tăng kích thước nào trên file thi hành được ( tất nhiên không
phải những file vừa được dịch từ Assembler sang ) từ khoảng 1K – 5K đề
u có
thể kết luận chính 90% là file nhiễm virus.Do đó virus làm sao phải có được một
kỹ thuật nguỵ trang khéo léo để đánh lừa được hiện tượng này.
- Tính kế thừa
Điều này ít thấy với B-virus, F-virus có cùng “họ”, các version sau luôn
khắc phục những yếu điểm của bản “version” trước, đặc biệt có đặc diểm thay
thế bản cũ bằng bản mới hơn. Điều này tạo sự
thú vị ch các nhà nghiên cứu. Ta
có thể kể ra một số họ virus như sau: Yankee, Vacsina, …
1.3 . CÁC KỸ THUẬT XÂY DỰNG VIRUS
1.3.1. Kiểm tra tính tồn tại
a. Trong vùng nhớ
- Tạo thêm chức năng cho DOS, để kiểm tra tính tồn tại chỉ cần gọi chức
năng này. Có thể biết bằng cách tạo subfunction (chức năng con) cho một chức
năng của DOS, giá trị trong thanh ghi sẽ quyết định sự tồn tại của virus hay
chưa. Điều này dựa vào sự kiện nếu gọi một chức n
ăng lớn hơn chức năng cao
nhất mà DOS có. Giá trị AX trả về sẽ là 0.
b. Trên file
Có thể có các cách kiểm tra sau:
- Kiểm tra bằng kích
- Kiểm tra bằng Keyvalue
- Kiểm tra bằng cách dò đoạn mã.

+ Kiểm tra bằng kích thước:
Được áp dụng trong những virus đầu tiên, tuy độ chính xác của nó không
cao và mặt khác cũng không kiểm tra được version của nó. Tuy nhiên việc kiểm
tra nhanh và kết quả phụ trong quá trình kiểm tra có thể được dùng về sau nên
nó được ưa chu
ộng.
1.3.2. Kỹ thuật lây lan
Hai loại virus có hai cách lây lan hoàn toàn khác nhau, do đó kỹ thuật lây
lan cũng sẽ đề cập thành hai phần tương ứng. Tuy vậy, vẫn có những phần
chung mà cả hai loại đều phải dùng.
a. Các kỹ thuật chung trên file
Đối tượng lây của virus file là file. Do đó, các phương pháp định vị, tính
kích thước v.v đều giống nhau, Để có thể truy xuất file, virus phải dự trù các
trường hợp sau đó có thể xảy ra. Đó là:
Mộ
t file được mở với chế độ đọc /ghi phải đảm bảo không có thuộc tính
Sys(hệ thống), hoặc Read …ly (chỉ đọc),hoặc Hidden(dấu mặt). Do đó cần phải
đổi lại thuộc tính khi cần thiết để có thể truy nhập. Mặt khác khi một file được
cập nhật, ngày giờ cập nhật cũng được đưa vào, do đó làm thay đổi giá trị ban
đầu của file. Đôi khi lại tạo ra lỗi cho file này (n
ếu đó cũng là cách kiểm tra của
file). Để khắc phục hai lỗi này, cách tốt nhất lên đổi lại thuộc tính file, lưu giữ
ngày tháng tạo file để rồi sau đó trả lại đầy đủ thuộc tính ban đầu cho chúng.
b. Kỹ thuật định vị trên file
Ở đây chỉ đề cập đến 2 phương pháp chèn đầu & chèn cuối File, một
phương pháp dùng cho .COM và còn lại cho .EXE.
+ Chèn đầu: Virus sẽ chèn vào đoạn mã chương trình virus vào đầu chương
trình đối tượng, đẩy toàn bộ chương trình đối tượng xuống phía dưới. Phương
pháp này thường áp dụng đối với file .COM nghĩa là đầu vào chương trình luôn
ở PSP:100.









+ Chèn cuối: Phương pháp này được thấy hầu hết trên các loại F-virus vì phạm
vi lây lan của nó rộng rãi hơn .Phương pháp này sẽ chèn đoạn mã chương trình
virus vào ngay sau chương trình đối tượ
ng.








c. Kỹ thuật tìm kiếm file đối tượng
Điều quan trọng của Virus là phải lây lan, do đó tìm kiếm một file đối
tượng là điều quan trọng.
Quyền điều khiển chỉ tạm thời giao cho virus. Khi virus chuyển quyền
cho file, nó không còn ảnh hưởng gì đến file nữa vì nó không còn chiếm một
ngắt nào khả dĩ cho nó có thể “Pop up” được. Chính vì điều này, việc tìm kiếm
file đối tượ
ng lây là một điều cấp bách. Do đó, trong progvi luôn luôn có một
đoạn mã, cho phép virus đi tìm file để lây.
Thông thường virus dùng chức năng 04Eh (Find First) và 04Fh (find next)

để tìm file. Vì quyền điều khiển trao cho nó quá ít ỏi, nên virus tranh thủ tìm
kiếm càng nhiều file càng tốt, nó có thể:
Đầu vào
Virus .COM
File đã bị nhiễm
.COM
Đầu vào
File chưa bị nhiễm
Đầu vào
.COM Virus
File đã bị nhiễm
.COM
Đầu vào
File chưa bị nhiễm
+ Lây toàn bộ file thi hành trong thư mục hiện hành. Tuy vậy do lệnh
PATH được dùng quá nhiều, từ một thư mục chỉ chứa file dữ liệu có thể gọi
được mà không bị lây. Do đó, virus đã được cải tiến.
+Lây các file trong thư mục chỉ ra trong lệnh PART điều này vô cùng
thuận lợi, bảo đảm quyền tồn tại của virus. Tuy vậy cũng chưa hết.
+ Lây toàn bộ file trong đĩa hiện hành. Điều này
đảm bảo chỉ lây 1 lần,
tuy vậy kích thước đĩa quá lớn làm thời gian lây kéo dài, người sử dụng dễ nhận
thấy.
1.3.3. Kỹ thuật thường trú
Để tồn tại và phát triển thì virus file cũng như các loại virus khác nó
không chỉ lây nhiễm mà nó còn phải thường trú trong vùng nhớ, bằng cách sử
dụng khôn khéo các chức năng của DOS :
Thường trú sau khi đoạt lại quyền điều khiển:
Để thường trú, mộ
t số Hacker đã đề nghị một phương pháp vô cùng sáng

tạo, vẫn dựa vào các chức năng của DOS. Cách này dựa vào phương pháp thi
hành chương trình hai lần. Cách này sẽ lấy tên chương trình đang thi hành trong
môi trường mà DOS tổ chức, rồi một lần nữa, nó sẽ thi hành ngay chính bản
thân mình, sau khi đã giảm vùng nhớ xuống còn tối thiểu. Sau khi file thi hành
xong, quyền điều khiển bây giờ lại trao về cho virus, và lúc này nó mới tiến
hành thường trú bằng chức n
ăng 31h của DOS như một chương trình bình
thường.
1.3.4. Kỹ thuật phá hoại
Tính chất phá hoại đây là tính chất nguy hiểm nhất của virus. Tùy thuộc
vào mục đích mà các đoạn mã được viết ra có mức độ phá hoại khác nhau. F-
virus lây nhiễm trên các file thực thi nên các file này cũng khó tránh khỏi việc bị
virus phá hoại như lệch lạc về dữ liệu và tạo lỗi trong chương trình (tuy nhiên
điều này không hẳn lúc nào c
ũng xảy ra đối với file bị nhiễm). Ngoài việc phá
hoại đĩa bằng Int 13, thì F-virus thường dùng chức năng Int 21h để thay đổi nội
dung các tệp tin dữ liệu như văn bản, chương trình nguồn , bảng tính, tập tin cơ
sở dữ liệu, tập tin nhị phân… Thông thường virus sẽ ghi rác vào file, các dòng
thông báo đại loại “File was destroyed by virus…” hoặc xóa hẳn file. Đôi khi
đối tượng phá hoại của chúng là các phần mềm chống virus đang thịnh hành. Vì
file b
ị ghi đè nên không thể phục hồi được dữ liệu về tình trạng ban đầu. Biện
pháp tốt nhất có thể làm trong trường hợp này là ngưng các dịch vụ truy nhập
file, thoát khỏi chương trình hiện hành và diệt virus đang ở vùng thường trú.

CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ CÁCH THỰC THI CHƯƠNG
TRÌNH TRÊN DOS
2.1 . MỘT SỐ HÀM CHỨC NĂNG QUAN TRỌNG TRÊN DOS
Virus file hoạt động dưới hệ điều hành DOS. Mọi tác vụ liên quan đến file
đều có thể dùng các chức năng của DOS. Do đó để tồn tại và phát triển nó phải

chiếm ngăt của DOS. Một trong các ngắt mà được virus sử dụng nhất đó là ngắt
21h của DOS vì ngắt này gọi các chức năng của DOS, thao tác tr
ực tiếp với các
file như :Mở/đóng file,xóa/ghi file, thi hành file… Các chức năng này tương ứng
với các hàm. Một số hàm của ngắt 21 được sử dụng trong khi xây dựng Virus:
- Hàm 35h: Lấy địa chỉ ngắt 21h
- Hàm 25h: Đặt lại địa chỉ ngắt 21h
- Hàm 3Dh: Mở một file
- Hàm 3Fh: Đọc một file
- Hàm 43h: Lấy thuộc tính file
- Hàm 57h: Lấy ngày giờ tạo file
- Hàm 4Bh: Thực thi chương trình
- Hàm 31h: Kết thúc chương trình và ở lại thường trú
2.2 . CÁCH THỰC THI MỘT CHƯƠNG TRÌNH TRÊN DOS
File virus chỉ lây nhiễm trên các file khả thi. Mà các file khả thi trên DOS
là file .COM và .EXE. Vậy chúng ta hãy cùng nhau đi tìm hiểu xem các file này
trên DOS được thực hiện như thế nào ?
2.1.1. Hàm Exec lạp và thực hiện chương trình
- Hàm EXEC có chức năng dùng để nạp và thực hiện chương trình. Hàm
EXEC có thể gọi thông qua ngắt 21h của DOS (số hàm là 4Bh).
- Hàm EXEC cho phép một chương trình mẹ gọi một ch
ương trình con.
Chương trình con sẽ được nạp vào bộ nhớ RAM từ bộ nhớ ngoài và sau đó được
thực hiện. Nếu chương trình này không được cài đặt nội trú thì bộ nhớ mà nó
chiếm sẽ giải phóng sau khi chương trình này thực hiện xong. Đến lượt mình
chương trình con lại có thể gọi một chương trình con khác. Như vậy ta có thể tạo
ra chuỗi các chương trình mà độ dài của nó chỉ bị hạn chế bởi kích th
ước của bộ
nhớ RAM còn tự do.
- Chú ý: Hàm EXEC chỉ nạp chương trình con nếu bộ nhớ RAM tự do

còn đủ lớn. Đối với các chương trình EXE, DOS có thể xác định bộ nhớ cần
thiết dành cho chúng nhưng với các chương trình COM, điều này là không thể
cho nên DOS dành toàn bộ vùng nhớ RAM tự do cho các chương trình COM.
Kết quả là chương trình COM không thể gọi một chương trình khác thông qua
hàm EXEC của DOS vì không còn bộ nhớ RAM tự do.
2.1.2. PSP – Program Segment Prefix
Trước khi nạp chương trình vào bộ nhớ, hàm EXEC thông qua một số
hàm khác c
ủa DOS, chuẩn bị vùng nhớ RAM mà chương trình được gọi sẽ
chiếm. Hàm EXEC đặt vào đầu vùng nhớ đó một cấu trúc dữ liệu gọi là PSP.
Chương trình sẽ được nạp vào sau cấu trúc dữ liệu này, các thanh ghi đoạn và
ngăn xếp được khởi đầu và chương trình được khởi động xong. Sau khi thực
hiện chương trình, vùng nhớ mà chương trình và PSP chiếm được giải phóng.
Cấu trúc PSP
Địa chỉ Nội dung Ki
ểu
00h Lệnh INT 20 2 bytes
02h Địa chỉ đoạn của ô nhớ cuối cùng dành cho chương trình 1 word
04h Không công bố 1 bytes
05h FAR CALL tới chương trình điều phối hàm của DOS 5 byte
0Ah Bản sao vector ngắt 22h 1 point
0Eh Bản sao vector ngắt 23h 1 point
12h Bản sao vector ngắt 24h 1 point
16h Không công bố 22 bytes
2Ch Địa chỉ đoạn của khối biến môi trường 1 word
2Eh Không công bố 46 bytes
6Ch FCB #2 16 bytes
80h Số lượng ký tự trong dòng lệnh 1 bytes
81h Dòng lệnh 127 bytes
Tổng cộng 256 bytes

PSP có độ dài 256 bytes và chứa nhiều thông tin quan trọng cho DOS và
chương trình thực hiện. Ý nghĩa của các trường trong PSP như sau :
- Tại ô nhớ 00h là lời gọi hàm của DOS dùng để kết thúc chương trình,
giải phóng bộ nhớ và trả quyền điều khiển cho bộ xử lý.
- Tại ô nhớ 02h là địa chỉ đoạn của ô nhớ cuối cùng dành cho chương
trình.Nếu chương trình cần thêm bộ nhớ, nó có thể thông qua địa chỉ này để
yêu
cầu thêm vùng nhớ.
- Tại ô nhớ 05h là lệnh FAR CALL gọi tới chương trình điều phối các
hàm của DOS (có thể gọi tới các hàm từ 00h-24h).
- Tại các ô nhớ 0Ah, 0Eh, 12h chứa nội dung 3 vector ngắt để kết thúc
chương trình, phản ứng khi các phím Ctrl – C hoặc Ctrl – Breack được bấm và
phản ứng với các lỗi.
- Tại các ô nhớ 2Ch lưu trữ địa chỉ đoạn của khối biến môi trường. Khối
bi
ến môi trường là một loạt các chuỗi kí tự ASCII chứa thông tin như: đường
dẫn tìm kiếm (lệnh PATH), thư mục chứa bộ xử lý lệnh.
- Tại ô nhớ 5Ch, 6Ch chứa hai khối điều khiển file(File Control Block-
FCB) là hai tham số đầu tiên trong dòng lệnh liên quan đến tên file.
- Tại ô nhớ 80h ghi số lượng trong dòng lệnh và có thể được DOS sử dụng
làm vùng chuyển dữ liệu đĩa.
- Từ ô nhớ 81h đến 0FFh chứa các tham số và dòng lệ
nh.
2.1.3. File COM
- Các file COM được lưu trên đĩa là hình ảnh chính xác của nội dung file
sẽ được nạp bộ nhớ khi chạy, nó không cần thêm một thông tin nào nữa và có thể
chạy ngay.
- Khi thực hiện , chương trình COM được nạp vào bộ nhớ từ ô nhớ sát với
ô nhớ cuối cùng của PSP, nghĩa là từ địa chỉ offset 100h. Ô nhớ này thường chứa
một lệnh nhảy đến phần đầu thực sự của ch

ương trình.
- Kích thước chương trình COM dài không quá 64Kb(65536bytes) tính cả
độ dài PSP(256 bytes) và ít nhất 1 từ (2 bytes) cho ngăn xếp. Mặc dù vậy, khi
thực hiện, DOS vẫn dành cả bộ nhớ cho chương trình này và chương trình
COM không thể gọi một chương trình khác thông qua hàm EXEC.
2.1.4. File EXE
- File EXE không hạn chế về kích thước. File EXE gồm phần đầu
file(EXE heard_thông tin không phải của chương trình) và nội dung của file. file
EXE rất dễ thích ứng với sự đổi mới của DOS, ví dụ như khả năng làm việc đa
nhiệm.
- Khi nạp file EXE, hệ điều hành tách phần đầu file và phần nội dung thực
của file
- Chương trình EXE sử dụng một c
ấu trúc dữ liệu gọi là khối đầu của
chương trình EXE. Cấu trúc dữ liệu này ngoài các thông tin khác còn chứa địa
chỉ tương đối của các đoạn.Địa chỉ đoạn thực sự trong bộ nhớ được tính bằng
cách cộng địa chỉ tương đối này với địa chỉ của đoạn mà chương trình được nạp
vapf đó (gọi tắt là địa chỉ bắ
t đầu đoạn, thường là địa chỉ đoạn của PSP + 10h).
Cấu trúc khối đầu của file EXE
Địa chỉ Nội dung Kiểu
00h Đánh dấu một chương trình EXE (5A 4Dh) 1word
02h (Độ dài của file) MOD 512 1word
04h (Độ dài của file) DIV 512 1word
06h Số lượng địa chỉ đoạn cần được sửa lại cho phù hợp 1word
08h Kích thước của header(đơn vị pragraph = 16 bytes) 1word
0Ah Số lượng nhỏ nhất các paragraph cần bổ sung 1word
0Ch S
ố lượng lớn nhất các paragraph cần bổ sung 1word
0Eh Địa chỉ đoạn tương đối của ngăn xếp 1word

10h Nội dung thanh ghi SP lúc khởi động chương trình 1word
12h Kiểm tra chẵn lẻ phần tiêu đề của file 1word
14h Nội dung thanh ghi IP lúc khởi động chương trình 1word
16h Địa chỉ bắt đầu của đoạn mã trong file EXE 1word
18h Địa chỉ của bảng định lại giá trị 1word
1Ah Số Overlay 1word
1Ch Bộ nhớ đệ
m Thay đổi
?? Bảng chứa các địa chỉ cần định lại giá trị biến Thay đổi
?? Mã chương trình, các đoạn số liệu và ngăn xếp biến Thay đổi


CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH THỬ NGHỆM
3.1. Mô tả chức năng của virus
Virus được xây dựng thử nghiệm có những đặc trưng sau:
- Nó chiếm ngắt 21h của DOS và thay thế bằng hàm của mình.
- Tạo ra hàm chức năng 6868h của ngắt 21h, dùng để kiểm tra virus trong
vùng nhớ.
- Thường trú chương trình ở địa chỉ 9800h:0000h (32KB dưới DOS).
- Lây nhiễm các file .EXE trên DOS khi chúng được gọi thực thi bởi hàm
chức năng 4Bh của ngắt 21h trên DOS.
- Khi lây nhiễ
m file .EXE virus ghi bản thân chương trình của mình vào
cuối file bị lây.
- Ngoài ra virus sẽ ghi vào cuối tệp bị lây 5 bytes key value (CT701) dùng
để kiểm tra việc lây nhiễm trên file.
3.2. Cấu trúc chương trình virus
3.2.1. Giải thuật chung






















3.2.2. Cài đặt( Install)
Sai
begin
Lấy địa chỉ của đỉnh Stack
Đặt lại Stack
Kiểm tra xem ngắt
21h có phải của
virus không?
Trả lại quyền thực thi
cho chương trình lây
Cài đặt(Install)

End
Đúng
Lấy địa chỉ Int21h
Chuyển chương trình sang
vùng nhớ 9800h:0000h
Đặt lại địa chỉ Int21h là
hàm int21
_
New
3.2.3. Hàm Int21_ New


























Sai
Sai
Đúng
Gọi int21h cũ
End
Begin
Gọi hàm
kiểm tra
Gọi hàm thực
thi 4B00h
Gọi hàm tải
File 4B01h
Đặt ax=2007h
Lây
nhiễm(Infecter)
Đúng
Đúng
Sai
3.2.4. Lây nhiễm (Infector)













































Đúng
Đặt lại thuộc tính
En
d

Đóng file
Đặt lại ngày giờ
Lấy thuộc tính file
Đặt lại thuộc tính là
0
Mở file
Lấy ngày giờ tạo file
Đọc 28 byte tiêu đề
Kiểm tra file bị

y
chưa?
File exe?
Be
g
in
Infector_Exe
Sai

Sai
Đúng



3.2.5. Kiểm tra xem file đã bị lây chưa (Test_file_infector)




















3.2.6. Lây file EXE (Infector_Exe)





















end
Sai
Đúng
Begin
Đọc 5 byte cuối
So sánh với
mã quy định
bx = 0
Be
g
in
Nhảy đến mỗi cuồi file
Ghi chương trình virus vào

Đặt lại các tham số trong
Header CS:IP , SS:SP, FileSize
Chuyển về đầu file
Ghi đè tiêu đề mới
En
d
KẾT LUẬN

Đồ án đã trình bầy khái quát về virus tin học, cấu trúc và các kỹ thuật xây
dựng F-virus trên DOS. Xây dựng một chương trình Demo mô phỏng việc lây
lan của virus trên file EXE.
DOS là hệ điều hành gắn liền với phần cứng máy tính, là tiền đề hệ thống
cho chương trình tư duy từ đó ta có thể xây dựng nên hệ thống nhúng, hệ thống
phụ thuộc phần cứng.
Hướng phát triển của
đề tài:Tìm hiểu về phương pháp nhận dạng virus từ
đó xây dựng chương trình nhận dạng virus.
Trong quá trình tìm hiểu và thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu
xót, em rất mong được sự góp ý và định hướng của thầy(cô) để bài viết được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hải Phòng, ngày tháng năm 2007
Sinh viên thực hiện





Đinh Thị Hòa
















TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Virus tin học huyền thoại và thực tế
Tác giả :Ngô Anh Vũ
Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh - 2003
2. Hướng dẫn phòng và diệt virus máy tính
Tác giả :Nguễn Thành Cương
Nhà xuất bản thống kê- 2005
3. Lập trình bằng ngôn ngữ Assembly cho máy tính PC-IBM
4. Cấu trúc máy tính và thiết bị ngoại vi
Tác giả :Nguyễn Nam Trung
Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật-2000
5. Giáo trình nguyên lý hệ điều hành
Tác giả : Đặng vũ tùng
Nhà xuất bản Hà Nội-2005




×