Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

bài 2 vấn đề dân tộc và tôn giáo ở việt nam hiện nay TẢI HỘ 0984985060

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.39 KB, 20 trang )

Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
LỜI MỞ ĐẦU
Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa hẹp: Dân tộc chỉ một cộng đồng người
có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung sinh họat kinh tế, có ngôn ngữ
riêng, có những nét đặc thù về văn hóa; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa và
phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự
giác tộc người của dân cư cộng đồng đó. Theo nghĩa này dân tộc là một bộ phận
của quốc gia, là dân tộc – tộc người (Ethnie). Nghĩa rộng: Dân tộc chỉ một cộng
đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh
tế thống nhất, quốc ngữ chung với ý thức về sự thống nhất văn hóa và truyền thống
đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lu di dựng nước và giữ nước. Theo
nghĩa ny dn tộc là dân cư của một quốc gia nhất định, là quốc gia – dân tộc
(Nation).
Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính
thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư
ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin
đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa
lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng
những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn
giáo khác nhau.
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
NỘI DUNG
PHẦN I: DÂN TỘC
I. DÂN TỘC VÀ HAI XU HƯỚNG KHÁCH QUAN CỦA DÂN TỘC
1. Khái niệm dân tộc
Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa:
- Nghĩa hẹp: Dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền
vững, có chung sinh họat kinh tế, có ngôn ngữ riêng, có những nét đặc thù về văn
hóa; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc


người ở bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự gic tộc ngườicủa dân cư cộng đồng đó.
Theo nghĩa này dân tộc là một bộ phận của quốc gia, là dân tộc – tộc người
(Ethnie).
- Nghĩa rộng: Dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân
một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung với ý thức
về sự thống nhất văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch
sử lâu đời dựng nước và giữ nước. Theo nghĩa dân tộc là dân cư của một quốc gia
nhất định, là quốc gia – dân tộc (Nation).
2. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa
tư bản V.I.Lênin đã phát hiện 2 xu hướng khách quan:
a. Xu hướng thức tỉnh ý thức dân tộc hình thành các quốc gia dân tộc độc lập.
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
Xu hướng này thể hiện nổi bật trong giai đoạn đầu của CNTB đưa đến sự ra đời
của các dân tộc. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, xu hướng này biểu hiện thành
phong trào đấu tranh gỉai phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức.
b. Xu hướng xích lại gần nhau giữa các dân tộc (Liên hiệp giữa các dân tộc).
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, của giao lưu
kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn
cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia, quốc tế giữa các dân tộc làm
cho các dân tộc xích lại gần nhau tạo nên sự thống nhất của thị trường tư bản.
Trong thời đại ngày nay hai xu hường này biểu hiện khác nhau trong từng nước
và trên thế giới:
Trong điều kiện của CNXH, hai xu hướng tác dụng cùng chiểu, bổ sung, hỗ trợ
cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả quốc gia và đụng chạm đến tất cả
các quan hện dân tộc ( về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…)
Trên phạm vi thế giới, sự thức tỉnh ý thức dân tộc đã làm bùng lên phong trào
đấu tranh đòi giải phóng dân tôc của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế

quốc và chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức, đấu tranh chống kỳ thị dân tộc,
phân biệt chủng tộc. Trong thời đại ngày nay, các dân tộc còn bị cuốn hút vào xu
hướng liên minh, liên kết quốc tế và khu vực vì các lợi ích kinh tế, chính trị, văn
hóa, khoa học kỹ thuật… mở cửa, hòa nhập cũng là một xu thế chủ yếu trong mối
quan hệ giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Đảng lập, tự chủ đi đôi với mở Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Giữ vững độc
rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” là nguyên tắc
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
thống nhất lối ngoại của Đảng và Nhà nước ta ( Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb CTQG, HN 1996, tr 84).
II. ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC
VN ta có hơn 60 dân tộc anh em,mỗi dân tộc đều có những nét đặc trưng riêng
tạo nên sự khác biệt với các dân tộc khác. Có 4 tiêu chí của tộc người.:
1.Ngôn ngữ dân tộc là 1 giá trị văn hoá đặc biệt
Ngôn ngữ là công cụ cơ bản cho sự cộng đồng các cá nhân bao gồm vào 1 tộc
người phù hợp, phân định họ với đại bộ phận các tộc người khác.Hay nói 1 cách dể
hiểu thì ngôn ngữ là dấu hiệu cơ bản để người ta phân biệt các dân tộc khác nhau.
Thật vậy, nếu ta lắng nghe ngưởi khác nói tiếng việt đúng,hay thì ta cho người đó
là người Việt. Hoặc khi những người không quen biết nhưng cùng chung 1 tộc
người gặp nhau đâu đó ngoài biên giới quốc gia thì người ta dễ nhận biết nhau qua
ngôn ngữ.
Như 1 quy tắc, tất cả các thành viên gắn bó với nhau trong 1 tộc người thì cùng
nói 1 thứ tiếng. Đó được gọi là tiếng mẹ đẻ. Nhưng đều đó không có nghĩa trên thế
giới có bao nhiêu tộc người thì có bay nhiêu ngôn ngữ.
Thực tế cho thấy, có nhiều ngôn ngữ của tộc người khác lại được sữ dụng với tư
cách là ngôn ngữ tộc người.có 1 số ngôn ngữ (chủ yếu là ngôn ngữ châu âu)được
nhiều bộ phận cư dân sự dụng với tư cách là ngôn ngữ tộc người mặc dù họ là
những tộc người riêng biệt và sống ở các quốc gia khác nhau.

Bên cạnh đó còn có 1dân tộc mà các nhóm riêng biệt của nó lại nói những thứ
tiếng khác nhau. Chẳng hạn, ngày nay đại bộ phận người Scotlen sử dụng tiếng anh
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
là ngôn ngữ hội thoại song ở các vùng miền núi Scotlen vẫn còn tồn tại 1 nhóm
nhỏ cư dân trong sinh hoạt họ sử dụng tiếng nói riêng của nhóm ngôn ngữ Kentơ.
Ở Vn, dân tộc sán chay gồm 2 bộ phận là cao lan và sán chỉ. Tiếng cao
lan_thuộc ngôn ngữ thái-tày, tiếng sán chỉ thuộc ngôn ngữ hán.
Người tày sử dụng tiếng việt trong giao tiếp gia đình, cứ 5 gia đình thì 1 gia
đình sử dụng tiếng phổ thông trong sinh hoạt.
2. Lãnh thổ dân tộc
Theo logic bình thường, sự cấu thành 1 tập thể người nói 1 thứ tiếng thì lẽ
đương nhiên là tất cả các thành viên của họ phải sống với nhau trong 1 thời gian
dài trong các mối liên hệ nhất định. Có thể nói, mỗi dân tộc đều có lãnh thổ dân tộc
riêng ban đầu của mình. Như vậy, lãnh thổ là điều kiện bắt buộc cho sự xuất hiện
của bất kì tộc người nào.
Mỗi dân tộc luôn luôn có sự thăng trầm trong lịch sử. Các dân tộc mạnh thì khi
niệm cần phải mở rộng lạnh thổ để nâng cao sức mạnh, các dân tộc yếu và nhỏ thì
luôn cố gằng bảo vệ lãnh thổ của mình.
Trong quá trình mở rộng lãnh thổ cũng dẫn đến sự phân chia tộc người. Hiện
tượng này gắn liền với các cuộc chuyển cư bằng đường biển dẫn đến khách quan là
những bộ phận cư dân cơ sở và những bộ phận thiên di hình thành những tộc người
khác nhau. Các trường hợp này diễn ra với người Anh, người Pháp, nguời Tây Ban
Nha, người Bồ Đào Nha và một số dân tộc khác ở Tây Âu trong sự cách li của họ
vào thời kỳ thực dân ( thế kỷ XVI —> XIV), trong các nước xâm lược đất đai của
các cư dân bản đại Bắc và Nam Mĩ, châu Phi, châu Đại Dương.
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM

Có nước mở rộng lãnh thổ thì sẽ cĩ nước bị thu hẹp lãnh thổ vì theo quy luật.
Lãnh thổ bị suy giảm do nguyên nhân chiến tranh hủy diệt, dịch bệnh… hoặc l bị
tiêu vong của đại bộ các dân tộc ở các nước châu Mỹ, châu Phi và châu Đại
Dương.
Trong lịch sử có tình trạng một dân tộc đã hình thành trên một lãnh thổ xác
định, rồi trong bước tiếp theo, một bộ phận và có khi là bộ dân tộc phải rời bỏ lãnh
thổ cư trú ở những nước khác.
3. Cơ sở kinh tế của dân tộc
Để hình thành một tập thể lớn những con người nói một ngôn ngữ, điều cần
thiết không chỉ có một lãnh thổ chung m giữa họ cịn cĩ sự cộng đồng kinh tế rộng
lớn.
Mỗi dân tộc trong cơ cấu tập thể của nhân lọai có mối liên hệ với nhau về mặt
kinh tế.
Vd: Người Tasman có khỏang 30 – 40 người, có nhiều ở chu Đại Dương là 50 –
60 người. Các nhóm này du cư trong một lãnh thổ xác định. Chỉ có trên lãnh thổ
địa phương mới có thể săn bắn, đánh cá và hái lượm.
Ngày nay, không có một tộc người nào và không có ngay cả một nhóm địa
phương nào lại chỉ điểu chỉnh về mặt kinh tế từ phía những láng giềng của mình.
Song, trong quan hệ kinh tế với tộc người đã xuất hiện sự đứt gẫy do tác động của
những điều kiện khách quan và chủ quan. Ngay cả những cư dân giữ gìn và mở
rộng vng cư trú của mình thì những nhĩm riêng biệt của họ, đặc biệt là những nhóm
sống ngòai đất nước thường mất đi những mối liên hệ kinh tế trực tiếp. Chẳng hạn,
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
những người Nga sống ngòai lãnh thổ Nga, người Anh sống ngòai lãnh thổ Anh từ
có mối liên hệ vế mặt kinh tế nhiều với cư dân láng giềng khác hơn là giữa họ với
nhau.
Vậy: Sự hiện diên của các mối liên hệ kinh tế mặc dù là điều kiện bắt buộc của sự
ra đời mỗi dân tộc song không thể coi là dấu hiệu đặc biệt. Mà chỉ là nhân tố cố kết

của tộc người.
4. Các đặc trưng sinh họat văn hóa và ý thức tự giác dân tộc
Biểu hiện ở lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng… Lối sống: dân tộc Êđê ở
Việt Nam lại có thói quen ở nhà sàn, mặc khố.
Trong khi người Kinh lại ở nhà gạch, mặc quần áo. Cho dù dân tộc Êđê được sự
thay đổi nhiềi về cách ăn mặc và suy nghĩ nhưng đó vẫn là nét riêng để nhận ra họ.
Đất nước có hơn 60 dân tộc anh em. Nhiều dân tộc có tục ném còn, đi chợ tình,…
Tín ngưỡng: dân tộc Êđê tin vào ma quỷ, dân tộc tin vào già làng.
Nhưng ta không chỉ nói ở phạm vi hẹp là nét văn hóa của từng dân tộc mà là của cả
một quốc gia. IV. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam có vị trí chiến lược
" Có thể khẳng định rằng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới là người đem
đến cho các dân tộc thiểu số ở Việt Nam quyền bình đẳng như ngày nay. Các dân
tộc trong cộng đồng đại gia đình các dân tộc Việt Nam từ chỗ bị áp bức, bóc lột
dưới sự đô hộ của thực dân đế quốc đã trở thành những thành viên làm chủ đất
nước Việt Nam độc lập thống nhất. Khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và
tăng cường mạnh mẽ hơn bất cứ lúc nào. Đồng bào các dân tộc đời đời ghi nhớ
công lao to lớn của Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam, mãi mãi theo lời dạy của
Bác Hồ là "dân tộc Việt Nam là một, đất nước Việt Nam là một, sông có thể cạn,
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi", " Đồng bào Kinh hay
Tày, Mường hay Dao, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu
số khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt, chúng ta sống chết có
nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau", không kẻ thù nào có thể chia rẽ,
phá vỡ khối đoàn kết mà Bác Hồ và Đảng ta đã xây dựng nên. Sự thất bại nhục nhã
của bọn phản động gây rối ở Tây Nguyên tháng 2/2001 đã chứng minh điều đó.
Đồng bào các dân tộc đều đã cực lực lên án và chống lại bọn phản động lợi dụng
vấn đề dân tộc để hoạt động trái với Chính sách và Pháp luật của Đảng và Nhà
nước ta, hòng kích động chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.

Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ "nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng
sinh sống trên đất nước Việt Nam". Các dân tộc thực hiện quyền làm chủ của mình
bằng hai hình thức, trực tiếp và đại diện. Dân chủ đại diện qua hệ thống cơ quan
dân cử cho thấy: Đại biểu Quốc hội khóa X là người dân tộc thiểu số chiếm 17,3%,
đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh chiếm 18,2%, huyện chiếm 18,7%, xã chiếm
22,7% so với tổng số đại biểu dân cử cấp đó. Điều đó đã thể hiện được sự bình
đẳng giữa các dân tộc trong việc tham gia quản lý nhà nước.
Tuy nhiên, so với đồng bằng và vùng đã phát triển tương đối thì miền núi và
vùng dân tộc thiểu số còn là vùng khó khăn nhất, hãy còn nhiều kẽ hở để bọn phản
động dễ lợi dụng, khoảng cách còn khá xa, tỷ lệ đói nghèo trong đồng bào dân tộc
thiểu số còn cao; đã xuất hiện những hiện tượng chệch hướng, nếu trong thời gian
tới không có những giải pháp hữu hiệu có thể khoảng cách đó còn xa hơn nữa sẽ
không có lợicho sự ổn định phát triển bền vững của đất nước.
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội IX ở vùng dân tộc thiểu số, chúng tôi
hoàn toàn tán thành với những nội dụng đã được trình bày trong bản báo cáo Chính
trị của Ban chấp hành Trung ương. Xin kiến nghị và nhấn mạnh một số vấn đề sau:
1. Phát triển kinh tế-xã hội ở vùng dân tộc thiểu số phải tăng trưởng với tốc độ
cao hơn mức bình quân chung của cả nước mới có thể từng bước thu hẹp khoảng
cách giữa các dân tộc và các vùng, quan tâm đến từng vùng và từng dân tộc, tiến
tới sự bình đẳng thực sự trên bình diện kinh tế-chính trị, xã hội…
2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Văn hóa dân tộc
có được bảo tồn và phát huy thì dân tộc mới phát triển. Giữ gìn và làm giầu tiếng
nói của mỗi dân tộc là cốt lõi của văn hóa, phát triển văn học nghệ thuật của các
dân tộc . đóng góp vào nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Muốn thực hiện có hiệu quả hai điểm trên:
Cần phải có quy hoạch bồi dưỡng, đào tạo, hình thành đội ngũ cán bộ ở vùng

dân tộc thiểu số, sao cho đội ngũ này có phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, có
số lượng tỷ lệ thuận với dân số của các dân tộc.
Phải phát huy dân chủ, công khai, minh bạch trong việc thực hiện các ch ương
trình phát triển kinh tế-xã hội ở vùng dân tộc thiểu số để nhân dân biết, giám sát
chặt chẽ việc thực hiện các chủ trương chính sách đó thì chắc chắn sẽ phát huy
được hiệu quả đầu tư của các chương trình dự án.
Phát huy tinh thần tự lực, tự cường của các dân tộc, củng cố tăng cường đoàn
kết các dân tộc xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam, thi đua giúp đỡ nhau cùng
phát triển, chống tư tưởng ỷ lại, nơi nào, bộ phận nào, dân tộc nào trong cộng đồng
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
mà ỷ lại thì sẽ tụt hậu vì không thể sử dụng có hiệu quả sự đầu tưu hỗ trợ của Nhà
nước và sự giúp đỡ của các dân tộc anh em.
Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng. "thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển", là sức mạnh để đảm bảo sự phát triển bền
vững, đạt tới mục tiêu chung là : Độc lập, dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội,
dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
PHẦN II. TÔN GIÁO
1. Khái niệm
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay.
Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống
chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của
nhiều dân tộc, quốc gia.
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa lý
nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối
giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các
luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới.
2. Bản chất tôn giáo

- Tôn giáo xuất hiện từ rất lâu và con người mặc nhiên chấp nhận nó. Việc đặt
ra câu hỏi: “Tôn giáo là gì” mới chỉ được giới khoa học đặt ra trong thời gian gần
đây, khi mà vấn đề tôn giáo trở thành bức xúc và phức tạp. Khi câu hỏi này được
đặt ra cũng là lúc mà tôn giáo trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
khoa học riêng biệt. Đối tượng nghiên cứu của tôn giáo xuất phát từ châu Âu khá
sớm nhưng bộ môn khoa học về tôn giáo chỉ ra đời vào cuối thế kỷ XIX Tôn giáo
là một sản phẩm của lịch sử. Trong các tác phẩm của mình C. Mác đã khẳng định:
“Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”. Tôn
giáo là một thực thể khách quan của loài người nhưng lại là một thực thể có nhiều
quan niệm phức tạp về cả nội dung cũng như hình thức biểu hiện. Về mặt nội dung,
nội dung cơ bản của tôn giáo là niềm tin (hay tín ngưỡng) tác động lên các cá nhân,
các cộng đồng. Tôn giáo thường đưa ra các giá trị có tính tuyệt đối làm mục đích
cho con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp và nội dung ấy được thể hiện bằng
những nghi thức, những sự kiêng kỵ…- Rất khó có thể đưa ra được một định nghĩa
về tôn giáo có thể bao hàm mọi quan niệm của con người về tôn giáo nhưng có thể
thấy rõ rằng khi nói đến tôn giáo là nói đến mối quan hệ giữa hai thế giới thực và
hư, của hai tính thiêng và tục và giữa chúng không có sự tách bạch. Trong tác
phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph. Ăng nghen đã có một nhận xét làm cho chúng ta thấy
rõ bản chất của tôn giáo như sau: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản
ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng bên ngoài chi
phối cuộc sống của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã
mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.”.
3. Nguồn gốc tôn giáo
3.1. Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội của tôn giáo là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện
khách quan của đời sống xã hội tất yếu làm nảy sinh và tái hiện những niềm tin tôn
giáo. Trong đó một số nguyên nhân và điều kiện gắn với mối quan hệ giữa con

người với tự nhiên, một số khác gắn với mối quan hệ giữa con người với con người
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
- Mối quan hệ giữa con người với tự nhiênTôn giáo học mácxít cho rằng sự bất
lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên là một nguồn gốc xã hội của
tôn giáo. Như chúng ta đã biết, mối quan hệ của con người với tự nhiên thực hiện
thông qua những phương tiện và công cụ lao động mà con người có. Những công
cụ và phương tiện càng kém phát triển bao nhiêu thì con người càng yếu đuối trước
giới tự nhiên bấy nhiêu và những lực lượng tự nhiên càng thống trị con người
mạnh bấy nhiêu. Sự bất lực của con người nguyên thủy trong cuộc đấu tranh với
giới tự nhiên là do sự hạn chế, sự yếu kém của các phương tiện tác động thực tế
của họ vào thế giới xung quanh
- Mối quan hệ giữa người và người Nguồn gốc xã hội của tôn giáo còn bao gồm
cả phạm vi các mối quan hệ giữa con người với nhau, nghĩa là bao gồm các mối
quan hệ xã hội, trong đó có hai yếu tố giữ vai trò quyết định là tính tự phát của sự
phát triển xã hội và ách áp bức giai cấp cùng chế độ người bóc lột người.
3.2. Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Để giải thích nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cần phải làm rõ lịch sử nhận
thức và các đặc điểm của quá trình nhận thức dẫn đến việc hình thành quan niệm
tôn giáo.
Trước hết, lịch sử nhận thức của con người là một quá trình từ thấp đến cao,
trong đó giai đoạn thấp là giai đoạn nhận thức tự nhiên cảm tính. Ở giai đoạn nhận
thức này (nhất là đối với cảm giác và tri giác), con người chưa thể sáng tạo ra tôn
giáo, bởi vì tôn giáo với tư cách là ý thức, là niềm tin bao giờ cũng gắn với cái siêu
nhiên, thần thánh, mà nhận thức trực quan cảm tính thì chưa thể tạo ra cái siêu
nhiên thần thánh được. Như vậy, tôn giáo chỉ có thể ra đời khi con người đã đạt tới
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM

một trình độ nhận thức nhất định. Thần thánh, cái siêu nhiên, thế giới bên kia… là
sản phẩm của những biểu tượng, sự trừu tượng hoá, sự khái quát dưới dạng hư ảo.
Nói như vậy có nghĩa là tôn giáo chỉ có thể ra đời ở một trình độ nhận thức nhất
định, đồng thời nó phải gắn với sự tự ý thức của con người về bản thân mình trong
mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Nhưng mỗi một hình thức mới của sự phản
ánh không những tạo ra những khả năng mới để nhận thức thế giới sâu sắc hơn mà
còn tạo ra khả năng “xa rời” hiện thực, phản ánh sai lầm nó. Thực chất nguồn gốc
nhận thức của tôn giáo cũng như của mọi ý thức sai lầm chính là sự tuyệt đối hoá,
sự cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người, biến nó thành cái không còn
nội dung khách quan, không còn cơ sở “thế gian”, nghĩa là cái siêu nhiên thần
thánh
3.3. Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
Ngay từ thời cổ đại, các nhà duy vật đã nghiên cứu đến ảnh hưởng của yếu tố
tâm lý (tâm trạng, xúc cảm) đến sự ra đời của tôn giáo. Họ đã đưa ra luận điểm”
“Sự sợ hãi sinh ra thần thánh”.Các nhà duy vật cận đại đã phát triển tư tưởng của
các nhà duy vật cổ đại - đặc biệt là L.Phơbách – và cho rằng nguồn gốc đó không
chỉ bao gồm những tình cảm tiêu cực (sự lệ thuộc, sợ hãi, không thoả mãn, đau
khổ, cô đơn ) mà cả những tình cảm tích cực (niềm vui, sự thoả mãn, tình yêu, sự
kính trọng ), không chỉ tình cảm, mà cả những điều mong muốn, ước vọng, nhu
cầu khắc phục những tình cảm tiêu cực, muốn được đền bù hư ảo.Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải quyết vấn đề nguồn gốc tâm lý của tôn
giáo khác về nguyên tắc so với các nhà duy vật trước đó. Nếu như các nhà duy vật
trước Mác gắn nguyên nhân xuất hiện tôn giáo với sự sợ hãi trước lực lượng tự
nhiên thì chủ nghĩa Mác lần đầu tiên vạch được nguồn gốc xã hội của sự sợ hãi đó
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
PHẦN III. CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO CỦA
NƯỚC TA HIỆN NAY
1. chính sách dân tộc

Dựa trên quan điểm của Mac_Lênin về vấn đề dân tộc và thực tiễn lịch sử đấu
tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ tổ quốc việt nam cũng như dựa vào tình
hình thế giới trong giai đoạn hiện nay Đảng và nhà nước ta ngay từ khi thành lập
cho đến nay luôn luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc có
tầm quan trọng đặ biệt
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đảng đã nêu rõ :” vấn đề
dân tộc và đại đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách
mạng”. thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ
lẫn nhau cùng nhau phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển
sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất tinh thần đi đôi với “giữ gìn và phát
huy bản sắc dân tộc. thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế -xã hội ở miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng :”, kiên quyết “chống
kỳ thị chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng lớn, tư tưởng dân tộc hẹp, dân tộc cực đoan
khắc phục tư tưởng tự tị mặc cảm dân tộc
Biểu hiện cụ thể như sau :
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp
với điều kiện và đặc điểm từng vùng từng dân tộc khai thác thuộc được thế mạnh
của địa phương mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng tổ quốc
Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tập quán tín ngưỡng của
đồng bào các dân tộc, từng bước nâng cao dân trí nhất là các dân tộc thiểu số ở
vùng cao, hải đảo
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cương của các dân
tộc vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp,
nghiêm câm mọi hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc
Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đồng thời giáo
dục tinh thần kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc. bởi vì chỉ tinh thần đó mới phù
hợp với đòi hỏi khách quan của công cuộc phát triển dân tộc và xây dựng đất nước,

trong công cuộc đó , không dân tộc nào có thể chỉ sử dụng đội ngũ cán bộ xuất
thân từ dân tộc, cần sự hỗ trợ lẫn nhau trong cả nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
đã đề ra chính sách dân tộc là " Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân
tộc, cùng tiến bộ". Chính sách đó đã được thể chế vào Hiến pháp, các luật cơ bản
của Nhà Nước Việt Nam.
Việc thực hiện Chính sách dân tộc đã đạt được một số kết quả như từ chỗ đều bị
áp bức bóc lột đã trở thành người làm chủ đất nước; đã tạo ra cơ sở hạ tầng phục
vụ sản xuất và đời sống rộng khắp trên mọi miền của đất nước; từ chỗ tự cung tự
túc đã hình thành một số vùng sản xuất có tính chất hàng hóa với quy mô ngày
càng lớn; sự nghiệp giáo dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe đã được phát triển rất mạnh
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
so với trước; hệ thống chính trị đã được xây dựng củng cố vững mạnh; đội ngũ cán
bộ và trí thức người dân tộc thiểu số đã được hình thành.
2. Chính sách tôn giáo
Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo từng bước được
hoàn thiện. Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi
mới, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TƯ về công tác tôn giáo trong tình hình
mới, ghi dấu son về sự đổi mới đường lối, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo. Sau gần
10 thực hiện Nghị quyết 24, Đảng ta đã tổng kết, đánh giá những thành tựu và nêu
rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính trị ra Chỉ thị 37-CT/TƯ ngày 02-7-
1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Cho đến Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bẩy, khoá IX về công tác tôn giaó (Nghị
quyết 25-NQ/TƯ ngày 12-3-2003) quan điểm, chính sách của Đảng đối với tín
ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù
hợp với sự nghiệp đổi mới của Đảng. Đó là "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo

đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh
hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật".
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng
Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một
trong những quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và
Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền không
theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được "phần hồn thong
dong, phần xác ấm no".
KẾT LUẬN
Thực trạng tình hình dân tộc của nước ta hiện nay là tốt đẹp hơn bao giờ hết,
các dân tộc đang cùng đồng bào cả nước phát triển tiến bộ vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, đồng thời nhà nước ta đang huy động mọi
nguồn lực làm cho miền núi và vùng dân tộc phát triển nhanh hơn, thu hẹp khoảng
cách chênh lệch về mọi mặt giữa vùng đồng bào dân tộc với các vùng khác. Tuy
nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng: dân tộc là vấn đề chiến lược lớn, là vấn đề rất dễ
nhạy cảm. Hơn nữa, tính chất quan trọng của nó không phải chỉ là nhất thời mà còn
là vấn đề chiến lược lâu dài. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội. Đặc điểm
quan trọng trong ý thức tôn giáo là một mặt nó phản ánh tồn tại xã hội. Mặt khác,
nó lại có xu hướng phản kháng lại xã hội đã sản sinh ra và nuôi dưỡng nó. Vì vậy,
từ khi ra đời đến nay, cùng với sự biến đổi của lịch sử, tôn giáo cũng biến đổi theo.
trong một bài tiểu luận em không thể phân tích được hết “vấn đề dân tộc và tôn
giáo và việc giải quyết vấn đề này ở nước ta hiện nay”, có thể còn những thiếu
xót, em rất mong cô giáo bộ môn đọc và bổ xung cho em được hoàn thiện hiểu
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM

biết, và bài làm được đầy đủ hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy LÊ NGỌC
TÒNG đã giúp đỡ em trong quá trình học tập, và hoàn thành bài tiểu luận này.
NHẬN XÉT CỦA GVHD







GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn
Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lenin
2. Báo lao động
3. Trang điện tử chinhphu.vn
4. tailieu.vn
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
PHẦN I: DÂN TỘC 2
I.DÂN TỘC VÀ HAI XU HƯỚNG KHÁCH QUAN
CỦA DÂN TỘC 2
II. ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC 4
1.Ngôn ngữ dân tộc là 1 giá trị văn hoá đặc biệt 4
2. Lãnh thổ dân tộc 5
3. Cơ sở kinh tế của dân tộc 6
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn

Trường Đại Học Công Nghiêp TP HCM
4. Các đặc trưng sinh họat văn hóa và ý thức tự giác dân tộc 7
PHẦN II. TÔN GIÁO 11
PHẦN III. CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO CỦA
NƯỚC TA HIỆN NAY…………………………………………… ….14
1. chính sách dân tộc………………………………………………… 14
2. Chính sách tôn giáo……………………………………………… ….16
KẾT LUẬN………………………………………………………… ….18
GVHD: Lê Ngọc Tòng Lớp: DHKT 7ATH
SVTT: Nguyễn Thị Nhàn

×