Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân của những người không cư trú tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.15 KB, 139 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

PHẠM THỊ PHƯƠNG ANH
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ THU
NHẬP
CÁ NHÂN CỦA NHỮNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
KHÔNG CƯ TRÚ TẠI VIỆT NAM
Ở CỤC THUẾ TP HÀ NỘI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ ĐÈI NGOẠI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TẠ VĂN LỢI
HÀ NỘI - 2011
2
MỤC LỤC
- V n tính thu trùng và tr nh t nh thu trùngấ đề ế ỏ ớ ế 7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 WTO Tổ chức thương mại quốc tế
2 TNCN Thu nhập cá nhân
3 CQCT Cơ quan chi trả
4 NNT Người nộp thuế
5 NNN Người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam
6 NSNN Ngân sách nhà nước
7 TNDN Thu nhập doanh nghiệp
8 NSNN Ngân sách nhà nước
9 GTGT Giá trị gia tăng
10 DN Doanh nghiệp
11 CNTT Công nghệ thông tin
12 ĐTNT Đối tượng nộp thuế
DANH MỤC BẢNG, MÔ HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
- V n tính thu trùng và tr nh t nh thu trùngấ đề ế ỏ ớ ế 7
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN



PHẠM THỊ PHƯƠNG ANH
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ THU
NHẬP
CÁ NHÂN CỦA NHỮNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
KHÔNG CƯ TRÚ TẠI VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: THƯƠNG MẠI KINH TẾ QUỐC TẾ
HÀ NỘI - 2011
ii
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu:
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đẩy mạnh công nghiệp hoá và
hiện đại hoá đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế, thị trường lao động được mở rộng, sự
tăng công việc có thu nhập cao chính là các nhân tố chính đóng góp vào việc tăng
thu nhập của các tầng lớp dân cư hình thức thu nhập của các cá nhân ngày càng đa
dạng do vậy đối đối tượng nộp thuế TNCN cũng đa dạng hơn. Thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010, các thị trường tài chính, tiền tệ,
vốn, lao động, bất động sản, khoa học công nghệ sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn.
Nến kinh tế sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có
cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh, cú thờm nguồn thu nhập khác nhau. Bên cạnh
đó, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, số lượng người nước ngoài đến Việt
Nam làm việc, hay có những hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam cũng tăng
lên. Năm 2007, Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. theo thống kê
số lượng những người không cư trú tại Việt Nam có thu nhập ở Việt Nam tăng lên
nhanh chóng. Sự đa dạng và gia tăng thu nhập của những người không cư trú tại
Việt Nam làm tăng số thuế TNCN nộp vào ngân sách nhà nước và chiếm tỷ trọng
ngày càng lớn.
Với xu hướng phát triển nhanh của các quốc gia trên thế giới, việc nghiên
cứu và đưa ra áp dụng một chính sách thuế TNCN phù hợp với điều kiện của quốc
gia mình là vô cùng quan trọng. Trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế trong

lĩnh vực quản lý thu thuế, thực hiện chiến lược cải cách thu thuế ở Việt Nam đến
năm 2020, ngành thuế Việt Nam đang từng bước hoàn thiện cơ chế ĐTNT tự kê
khai, tự nộp thuế trên cơ sở tăng cường ứng dụng thông tin, đẩy mạnh tuyên truyền,
dịch vụ hỗ trợ ĐTNT và thanh tra thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của
ĐTNT và hiện đại hoá công tác quản lý thuế.
Công tác quản lý thuế TNCN của những người không cư trú đến Việt Nam vì
công việc mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn còn gặp phải
không ít khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ cũng nhu còn chứa đựng nhiều bất cập,
hạn chế cả về cơ chế quản lý, công nghệ quản lý, bộ máy và cán bộ quản lý cần
được khắc phục. Thực hiện thu đúng, thu đủ, thu kịp thời mà vẫn tạo điều kiện
i
thuận lợi khuyến khích những người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam duy trì
và mở rộng đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, giảm bớt gánh nặng cho công tác quản
lý thuế của những người không cư trú đến Việt Nam vì công việc đồng thời tuân thủ
các hiệp định tránh đánh thuế hai lần đã ký giữa Việt Nam và các nước khác là một
đòi hỏi cấp thiết là trong công tác quản lý thu. Vì vậy phải tiếp tục cải cách hệ thống
thuế để khắc phục những tồn tại và yếu kém trên, đưa ra một mô hình quản lý thu
thuế đối với các đối tượng trên như thế nào cho phù hợp với điều kiện khách quan
cũng như điều kiện vật chất cho phép là một vấn đề cấp thiết đặt ra. Những điều đó
cần phải có một sự nghiên cứu sâu sắc, phân tích kỹ lưỡng, khoa học, toàn diện. Đó
cũng chính là nội dung đề tài luận văn của tác giả.
Qua quá trình công tác thực tế tại phòng quản lý thuế TNCN tại Cục Thuế
TP Hà Nội, Tác giả đã nhận thấy những khó khăn, thách thức của công tác quản lý
thuế của những người không cư trú đến Việt Nam vì công việc. Vì vậy việc nghiên
cứu đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân của những
người không cư trú tại Việt Nam” có ý nghĩa thiết thực, mang tính thời sự cấp
bách về mặt lý luận và thực tiễn. Đó là:
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Mục đích nghiên cứu đề tài này là làm rõ những vấn đề chung về qui
trình quản lý thuế, cả về lý luận và thực trạng qui trình quản lý thuế của những

người không cư trú đến Việt Nam vì công việc hiện nay trên địa bàn Hà nội, rút ra
những ưu, nhược điểm, những vấn đề còn tồn tại cần phải được tiếp tục hoàn thiện.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm cải cách quản lý thuế của
một số nước trên thế giới, yêu cầu đặt ra trong chương trình cải cách hệ thống thuế,
đề tài sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện qui trình quản lý thuế cho phù
hợp với loại hình ĐTNT này trên địa bàn Hà nội.
3. Kết quả nghiên cứu:
Căn cứ vào thực tế quản lý thuế TNCN của những người không cư trú đến
Việt Nam vì công việc tại Cục thuế TP Hà nội, đơn vị Ủy nhiệm thu của Cục thuế
TP Hà nội là Sở Công thương Hà nội; thực tế quản lý người nước ngoài đến Việt
Nam của các cơ quan chức năng; so sánh, đối chiếu các thông tin về đối tượng nộp
ii
thuế là những người không cư trú đến Việt Nam vì công việc trên hệ thống máy tính
Cục thuế TP Hà nội với các thông tin về người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam
của Cục quản lý Xuất nhập cảnh, phòng quản lý Xuất nhập cảnh - Công an TP Hà
nội, tác giả đã nghiên cứu, phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá vai trò, ảnh
hưởng, tác động của luật thuế TNCN đối với những người không cư trú có thu nhập
tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy :
Thực trạng quản lý thuế các cơ quan, tổ chức có người nước ngoài làm việc
và người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam từ năm 2007 đến 2010. Qua phân
tích, đánh giá đúng thực trạng quản lý thuế của các ĐTNT trên, luận văn đã chỉ rõ
những mặt mạnh trong công tác quản lý là hệ thống chính sách thuế đã được hoàn
thiện, thủ tục hành chính đã được cải cách hợp lý hơn, đẩy mạnh ứng dụng tin học
vào tất cả cỏc khõu quản lý thu thuế TNCN, năng lực bộ máy quản lý thuế được
nâng cao thêm, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, hỗ trợ về thuế TNCN, và thu
thuế qua Ủy nhiệm thu - Sở Công thương TP Hà nội. Những nguyên nhân trờn đó
dược thể hiện thông qua số thuế của những người không cư trú đến Việt Nam vì
công việc nộp vào NSNN ngày càng cao qua các năm.
Đồng thời, luận văn cũng chỉ ra được những tồn tại trong quản lý thuế đối
với các loại hình những người không cư trú đến Việt Nam vì công việc trong thời

gian qua là : thuế suất thuế TNCN của những người không cư trú còn cao; đối
tượng nộp thuế chưa được quản lý một cách toàn diện. Nguyên nhân của tình trạng
thất thu thuế của những người không cư trú tại Việt Nam trên là do : cơ quan thuế
không quản lý được số người không cư trú tại Việt Nam làm việc tại các cơ quan/
tổ chức; không quản lý được thu nhập của những người không cư trú đến Việt Nam
vì công việc; cơ sở hạ tầng, tin học hoá công tác quản lý thuế chưa hoàn thiện; công
tác tuyên truyền hỗ trợ NNT chưa đạt hiệu quả cao; năng lực công tác thanh tra
thuế TNCN còn nhiều hạn chế. Do vậy, tỷ trọng số thuế TNCN của những người
không cư trú đến Việt Nam vì công việc trên tổng số thuế TNCN Cục thuế TP Hà
nội đã thu còn thấp, số người không cư trú đến Việt Nam vì công việc do Cục thuế
TP Hà nội quản lý còn chưa tương xứng với số lượng người nước ngoài đến Hà nội
iii
vì công việc. Số thuế TNCN thất thu từ những đối tượng trờn cũn cao, gây thất thu
cho NSNN; làm mất công bằng giữa người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam và
người Việt Nam lao động ở nước ngoài.
Từ đó tác giả đã đưa ra đánh giá chung về công tác quản lý thu thuế TNCN
của những người không cư trú đến Việt Nam vì công việc : Công tác trên cũng đã
đạt được kết quả : số lượng cơ quan/tổ chức có NNN làm việc, người nước ngoài
không cư trú tại Việt Nam tự giác kê khai thuế cao, số thuế nộp NSNN của những
đối tượng trên cũng đã tăng đáng kể qua các năm thể hiện ý thức tự giác tuân thủ
luật thuế. Tuy nhiên có những nguyên nhân dưới đây đã hạn chế kết quả đạt được
trên : Thuế suất thuế TNCN đối với người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam
còn cao, số lượng Hiệp định tránh đánh thuế hai lần ký kết giữa Việt Nam và các
nước còn thấp, các văn bản pháp lý hiện hành vẫn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho
việc quản lý thu thuế đối với người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam và cơ sở
hạ tầng phục vụ cho công tác quản lý thu thuế TNCN của những người không cư trú
đến Việt Nam vì công việc ngành thuế nói riêng và của toàn xã hội nói chung còn
yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế đối với những đối tượng trên.
Từ những phân tích, đánh giá trên, luận văn đưa ra những quan điểm cơ bản
cần quán triệt và những định hướng nhằm tăng cường quản lý thuế TNCN của

những người không cư trú đến Việt Nam vì công việc. Để đưa ra các giải pháp khả
thi, phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam, tỏc giả đã xem xét môi trường kinh
tế xã hội Việt Nam hiện tại, xác định rõ những thuận lợi, khó khăn chủ quan cũng
như khách quan cho việc hoàn thiện công tác quản lý thu thuế của những người
không cư trú đến Việt Nam vì công việc, từ đó mạnh dạn đề xuất những giải pháp
cơ bản, đồng bộ, có khả năng áp dụng trên tất cả các nội dung của quản lý thuế:
kiến nghị chính sách thuế, tổ chức bộ máy; tư vấn, hỗ trợ người nộp thuế; tăng
cường thanh tra, kiểm tra; áp dụng công nghệ tin học, tăng cường phối kết hợp, trao
đổi thông tin đối với các cơ quan chức năng có liên quan, ký thêm nhiều hiệp định
trỏnh tớnh thuế trùng giữa các nước, mở rộng hợp tác quốc tế với các cơ quan thuế
nước ngoài, tăng cường quản lý thu nhập của những người không cư trú đến Việt
iv
Nam vì công việc - khuyến khích việc thanh toán qua ngân hàng. . . . Những
giải pháp trên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thu thuế TNCN của
người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam, đảm bảo hiệu quả và tính khả thi cao,
nâng cao trình độ quản lý thuế của cơ quan thuế Việt Nam.
Do đây là một vấn đề phức tạp và khá mới đối với Việt Nam, có liên quan
đến tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, trong khuôn khổ của một luận
văn thạc sĩ, bị giới hạn bởi trình độ và thời gian nghiên cứu, mặc dù tác giả đã có
nhiều cố gắng nhưng không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tác giả mong
muốn và hy vọng nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các nhà nghiên cứu, các
thầy cô giáo và những người quan tâm đến lĩnh vực quản lý thuế với hy vọng luận
văn có thể đóng góp được nhiều hơn nữa các giải pháp để tăng cường quản lý thuế
của những người không cư trú đến Việt Nam vì công việc trên địa bàn Hà Nội. nâng
cao hiệu quả và chất lượng của công tác quản lý thu thuế TNCN của những người
không cư trú đến Việt Nam vì công việc hiện nay cũng như trong thời gian tới.
v
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

PHẠM THỊ PHƯƠNG ANH

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ THU
NHẬP
CÁ NHÂN CỦA NHỮNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
KHÔNG CƯ TRÚ TẠI VIỆT NAM CỦA CỤC
THUẾ TP
HÀ NỘI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TẠ VĂN LỢI
HÀ NỘI - 2011
ii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là một công cụ quan trọng của Nhà nước, nó vừa đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước, vừa là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để sử dụng hiệu
quả công cụ thuế, về cơ bản hệ thống chính sách thuế gồm có thuế gián thu và thuế
trực thu. Thuế gián thu như thuế Giỏ trị gia tăng, thuế Tiêu thụ đặc biệt, thuế Xuất
nhập khẩu. Thuế trực thu như thuế Thu nhập cá nhân, thuế Thu nhập doanh nghiệp.
Theo thông lệ của các quốc gia, thuế trực thu sẽ chiếm tỷ trọng lớn, ngược lại, giảm
dần thuế gián thu. Việt Nam đang bước vào hội nhập sâu, rộng với kinh tế quốc tế
và tiến trình chuyển đổi dần cơ cấu tỷ trọng tăng dần của các sắc thuế trực thu đang
là xu hướng tất yếu.
Thuế TNCN ra đời năm 1990 dưới tên gọi “Phỏp lệnh thuế đối với người có
thu nhập cao” và đã trải qua 6 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1992, 1994, 1997,
1999, 2001, 2004 để phù hợp với những điều kiện về kinh tế - xã hội. Luật thuế
TNCN ra đời để thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về lĩnh
vực tài chính đã đặt ra yêu cầu mới trong công tác quản lý thuế TNCN. Luật có hiệu
lực từ 01/01/2009. Ngay từ khi ra đời, Thuế TNCN tại Việt Nam cũng đóng một vai
trò đáng kể trong nguồn thu ngân sách và là nghĩa vụ của tất cả những người lao
động. Thuế TNCN điều tiết thu nhập cá nhân căn cứ trờn cỏc nguyên tắc: lợi ích,
công bằng và khả năng nộp thuế.

Trong thời gian qua cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế, thị trường
lao động được mở rộng, sự tăng công việc có thu nhập cao chính là các nhân tố
chính đóng góp vào việc tăng thu nhập của các tầng lớp dân cư. Hình thức thu nhập
của các cá nhân ngày càng đa dạng do vậy đối đối tượng nộp thuế TNCN cũng đa
dạng hơn. Bên cạnh đó, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, số lượng người
nước ngoài đến Việt Nam làm việc, hay có những hoạt động đầu tư, kinh doanh tại
Việt Nam cũng tăng lên.
Năm 2007, Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Theo
1
thống kê số lượng những người không cư trú tại Việt Nam có thu nhập ở Việt Nam
tăng lên nhanh chóng. Sự đa dạng và gia tăng thu nhập của những người không cư
trú tại Việt Nam làm tăng số thuế TNCN nộp vào ngân sách nhà nước và chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn. Do vậy, yêu cầu cần phải có một phương pháp quản lý hiệu
quả đối với những người không cư trú tại Việt Nam nói chung và của ngành thuế
nói riêng. Thực hiện thu đúng, thu đủ, thu kịp thời mà vẫn tạo điều kiện thuận lợi
khuyến khích những người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam duy trì và mở
rộng đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Ở Việt Nam trước đây chưa có một mô hình thu thuế TNCN hoàn chỉnh,
thu nhập của cá nhân được điều tiết bởi rất nhiều sắc thuế khác nhau. Tháng
11/2007 Luật thuế Thu nhập cá nhân được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ
ngày 01/01/2009 thay thế Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao,
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất. Luật
thuế TNCN đã quy định chi tiết về chính sách thuế TNCN đối với những người
không cư trú tại Việt Nam. Song cụng tác quản lý thuế TNCN hiện nay của những
người không cư trú tại Việt Nam ủa Cục thuế TP Hà nội vẫn còn nhiều tồn tại cần
được hoàn thiện như: công tác cấp mã số thuế, kê khai nộp thuế, thanh tra và kiểm
tra thuế…
Vì những lý do trên đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá
nhân của những người không cư trú tại Việt Nam của Cục thuế TP Hà nội ” đã
được chọn làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ với mục tiêu góp phần đưa ra các giải

pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác quản lý thuế thu nhập cá
nhân tại Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Hoàn thiện công tác quản lý thuế TNCN của những người không cư trú tại
Việt Nam của Cục thuế TP Hà nội . Để đạt được mục đích trên, cần phải thực hiện
các nhiệm vụ sau :
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thuế thu nhập cá nhân và công tác quản lý thuế
TNCN .
- Phân tích thực trạng công tác quản lý thuế TNCN đối với các cơ quan, tổ
2
chức có người nước ngoài làm việc và người không cư trú đến Việt Nam làm việc
trên địa bàn Hà Nội
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế TNCN đối với
loại hình ĐTNT này trên địa bàn Hà Nội
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý thuế TNCN của những người không
cư trú tại Việt Nam của Cục thuế TP Hà nội,
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoàn thiện công tác quản lý
thuế TNCN của những người không cư trú ở Việt Nam trên địa bàn Hà Nội.
+ Về thời gian: Nghiên cứu công tác quản lý thuế TNCN của những người
không cư trú ở Việt Nam của Cục thuế TP Hà nội từ năm 2008 đến nay và tầm nhìn
đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu để
nghiên cứu, phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá vai trò, ảnh hưởng, tác động của
chính sách và thực trạng công tác quản lý thuế TNCN của những người không cư
trú ở Việt Nam trên địa bàn Hà Nội. Bờn cạnh đó thông qua việc điều tra, khảo sát
thu thập tài liệu, đề tài sử dụng phương pháp thống kê làm công cụ phân tích số liệu
để chứng minh cho các vấn đề nghiên cứu .

5. Các câu hỏi nghiên cứu
1. Bộ máy quản lý thu thuế đã thực hiện tốt các yêu cầu quản lý thuế TNCN
của những người không cư trú tại Việt Nam chưa Nguyên nhân của các kết quả đạt
được và những tồn tại cần khắc phục.
2. Căn cứ vào những nguyên nhân trên, những giải pháp nào cần được cơ
quan thuế thực hiện để hoàn thành tốt các yêu cầu trên, đảm bảo phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam ?
6. Tên và kết cấu của luận văn
Tên luận văn: “Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân của
3
những người không cư trú tại Việt Nam của Cục thuế TP Hà nội ”
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phục lục, luận
văn bao gồm các chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác quản lý thuế TNCN của những người
không cư trú tại Việt Nam và sự cần thiết hoàn thiện công tác
quản lý thuế thu nhập cá nhân của những người không cư trú tại
Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thuế TNCN của những người không
cư trú tại Việt Nam của Cục thuế TP Hà nội
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế TNCN
của những người không cư trú tại Việt Nam
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
THUẾ TNCN CỦA NHỮNG NGƯỜI KHễNG CƯ TRÚ TẠI
VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN THIẾT HOÀN THIỆN CÔNG
TÁC QUẢN LÝ THUẾ TNCN CỦA NHỮNG NGƯỜI
KHễNG CƯ TRÚ TẠI VIỆT NAM
1.1 Tổng quan về thuế TNCN
1.1.1.Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, thuế, khái niệm
thuế TNCN

Thuế là sản phẩm tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát
triển của Nhà nước, để thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước mà
xã hội giao cho. Mặt khác, Nhà nước là người thay mặt xã hội để cung cấp những
hàng hóa công cộng thuần túy, do vậy Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình
quy định các sắc thuế bắt buộc các thành viên trong xã hội đóng góp để trả cho việc
sử dụng hàng hóa công cộng cho người dân. nên thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa
là phạm trù lịch sử, mang tính pháp lý cao từ sự xuất hiện của bộ máy nhà nước
Thuế là một khoản thu của Ngân sách Nhà nước đối với các tổ chức kinh tế
– xã hội cũng như mọi thành viên trong xã hội, khoản thu đó mang tính bắt
buộc, không được hoàn trả trực tiếp và được pháp luật quy định.
Căn cứ theo đối tượng đánh thuế, thuế được chia thành: thuế TNCN, thuế thu
nhập DN; thuế tài sản; thuế tiêu dùng.
Căn cứ theo tính chất điều tiết thì thuế được chia thành hai loại là thuế trực thu
và thuế gián thu.
- Thuế gián thu : Là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài sản
của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ.
Người tiêu dùng những hàng hóa, dịch vụ đó là người chịu loại thuế này. Thuế gián
thu có đặc điểm là người nộp thuế theo luật và người chịu thuế không đồng nhất với
nhau. Thuế gián thu là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ. Người
nộp thuế là người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, còn người chịu thuế là
người tiêu dùng các hàng hóa đó, họ mua hàng hóa với giá cả trong đó có cả thuế.
- Thuế trực thu : là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của
5
người nộp thuế. Thuế trực thu có đặc điểm là đối tượng nộp thuế theo luật quy định
đồng nhất với người phải chịu thuế. Theo quy định của luật, thuế thu trực tiếp vào
thu nhập của người nộp thuế. Như vậy, thuế trực thu làm cho khả năng và cơ hội
chuyển dịch gánh nặng thuế cho người khác khó khăn hơn. Về nguyên tắc, loại thuế
này mang tính chất thuế lũy tiến, vỡ nú tính đến khả năng của người nộp thuế,
người có thu nhập cao hơn phải nộp thuế nhiều hơn, còn người có thu nhập thấp thì
nộp thuế ít hơn.

Đặc điểm cơ bản của thuế trực thu là ĐTNT và đối tượng chịu thuế là một. Nú
đỏnh trực tiếp vào NNT, tức là người có thu nhập chịu thuế làm giảm phần thu nhập
của họ, không có hiện tượng chuyển giao gánh nặng thuế cho người khác chịu. Ở
nước ta, đó là các thứ thuế như thuế thu nhập DN, thuế TNCN.
Trong các loại thuế trực thu, thuế TNCN ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo nguồn thu đối với NSNN.
1.1.2. Khái niệm, tác động của thuế TNCN
Thuế TNCN có cơ sở đánh thuế là thu nhập mà cá nhân kiếm được. Thu nhập
kiếm được là toàn bộ số tiền và lợi ích vật chất mà cá nhân nhận được trong kỳ tính
thuế, kể cả các khoản chi tiêu đã bỏ ra để có được thu nhập. Thu nhập kiếm được từ
nhiều nguồn: từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công; từ hoạt động sản xuất, kinh
doanh dưới dạng thu nhập, lợi tức cổ phần; và từ các hoạt động đầu tư tài chính khác
Vậy ta có khái niệm về thuế TNCN như sau: “Thuế thu nhập cá nhân là thuế
trực thu đánh vào thu nhập ròng của các cá nhân trong một năm, từng tháng
hoặc từng lần phát sinh thu nhập, không phân biệt nguồn phát sinh”.
Thuế TNCN làm giảm thu nhập của người nộp thuế, tạo ra hai hiệu ứng :
Hiệu ứng thu nhập : làm cho của người nộp thuế tiêu dùng ít hơn và làm việc nhiều
hơn
Hiệu ứng thay thế : làm giảm động cơ làm việc của của người nộp thuế. Hiệu ứng
thu nhập và hiệu ứng thay thế có tác động ngược chiều nhau. Trên góc độ lý thuyết,
khó xác định hiệu ứng nào có tác động mạnh hơn hiệu ứng kia.
Ưu điểm của thuế TNCN là động viên trực tiếp vào thu nhập của từng tổ
6
chức, cá nhân có thu nhập, hơn thế nữa, còn cho phép xem xét đến các yếu tố tương
đối độc lập đến thu nhập của người nộp thuế, như hoàn cảnh bản thân, hoàn cảnh gia
đình Do đó, thuế TNCN có tác dụng rất lớn trong việc điều hòa thu nhập, giảm bớt
sự chênh lệch đáng kể về mức sống giữa các tầng lớp dân cư, do đó đã bảo đảm được
tính công bằng trong xã hội.
Nhược điểm của thuế TNCN là dễ gây ra phản ứng từ phía người nộp thuế khi
Nhà nước điều chỉnh tăng thuế. Hơn nữa việc theo dõi, tính toán số thuế phải nộp và

thủ tục thu, nộp thuế hết sức phức tạp. Số thu động viên vào Ngân sách thường chậm
và chi phí quản lý thu thuế khá tốn kém.
1.1.3 Nguyên tắc và phương pháp đánh thuế TNCN
1.1.3.1 Nguyên tắc đánh thuế TNCN
a) Nguyên tắc đánh thuế theo tình trạng cư trú và nguyên tắc đánh thuế theo
nguồn phát sinh thu nhập
Xác định đối tượng nộp thuế là một trong những nội dung quan trọng của thuế
TNCN, từ đó mới có thể vận dụng cỏch tớnh thuế cho phù hợp. Khi tiến hành xác
định đối tượng nộp thuế, người ta thường dựa vào hai tiêu thức là “nơi cư trỳ” và
“nguồn phát sinh thu nhập”.
Theo tiêu thức “nơi cư trú", một cá nhân được xác định là cư trú ở một nước
phải nộp thuế tại đó đối với mọi khoản thu nhập phát sinh từ khắp nơi trên thế giới,
còn một cá nhân được xác định là không cư trú ở một nước chỉ phải nộp thuế cho
phần thu nhập phát sinh tại nước đó. Nếu các nước áp dụng nguyên tắc này, chính
sách thuế thu nhập sẽ mang tính trung lập, không làm ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư trong nước hay nước ngoài của nhà đầu tư.
Theo tiêu thức “nguồn phát sinh thu nhập” lại quy định: một cá nhân phải nộp
thuế TNCN ở một nước đối với mọi khoản thu nhập của cá nhân phát sinh tại nước
đó mà không phải nộp thuế TNCN đối với những khoản thu nhập phát sinh ở nước
ngoài. Nguyên tắc này đảm bảo cho NNT trong nước và nước ngoài được đối xử
như nhau trên phương diện thuế.
- Vấn đề tính thuế trùng và trỏnh tớnh thuế trùng
7
Thuế TNCN là loại thuế trực thu tớnh trờn thu nhập của cá nhân, xuất phát từ
các nguyên tắc trong việc xác định quyền tính thuế mà tất cả các nước thường sử
dụng, bao gồm:
+ Thuế tính tại nguồn phát sinh thu nhập tức là thu nhập phát sinh tại đâu thì
nơi đó có quyền tính thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập đó
+ Thuế tính tại nước mà cá nhân mang quốc tịch
+ Thuế vừa có thể tính theo từng loại thu nhập vừa tính theo thu nhập tổng

hợp của cá nhân.
Trong quá trình thực hiện luật thuế TNCN, do tính phức tạp trong việc xác
định thu nhập tính thuế đồng thời do có nhiều loại và nhiều nguồn thu nhập khác
nhau dẫn đến việc tính thuế trùng giữa các quốc gia - là khi quốc gia cư trú và quốc
gia nguồn thu nhập cựng đũi quyền đánh thuế theo ba nguyên tắc trên khi cùng một
khoản thu nhập ít nhất phải nộp thuế hai lần. Vấn đề này càng trở nên phức tạp hơn
ở những quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, có giao lưu kinh tế rộng rãi.
Hiện nay, theo Liên hợp quốc cũng như Khối cộng đồng kinh tế Châu Âu thỡ cú 2
khái niệm về tính thuế trùng là :
- Tính thuế trùng mang tính chất pháp lý: có nghĩa là một pháp nhân hay một thể
nhân bị tính thuế bởi hai hay nhiều nước khác nhau đối với cùng một khoản thu nhập.
- Tính thuế trùng mang ý nghĩa kinh tế: có nghĩa là hai cá nhân khác nhau bị
tính thuế đối với cùng một khoản thu nhập.
Các dạng tính thuế trùng chủ yếu về thuế TNCN có thể kể đến là:
- Tính thuế trùng đối với thu nhập từ lao động
- Tính thuế trùng đối với thu nhập từ tài sản
- Tính thuế trùng đối với các thu nhập thụ động (thu nhập lãi tiền cho vay, lợi
tức cổ phần và tiền bản quyền)
Để tránh hiện tượng tính thuế trùng, theo Khối Cộng đồng kinh tế Châu Âu
(OECD), các nước có thể áp dụng một số phương pháp sau, tùy thuộc vào đặc điểm
kinh tế của từng nước:
- Miễn thuế: nước mà đối tượng nộp thuế là người cư trú không thu thuế đối
với những khoản thu nhập mà đối tượng đó đã nộp thuế ở nước khác, có thể miễn
thuế toàn phần hoặc lũy tiến.
8
- Trừ thuế: nước mà đối tượng nộp thuế là người cư trú, khi tính thuế trên tổng
thu nhập của đối tượng nộp thuế thì cho trừ vào số thuế phải nộp ở nước cư trú số
thuế đã nộp ở nước ngoài, có thể trừ thuế toàn phần hoặc trừ thuế thông thường.
- Trừ khoán thuế: nếu nước cư trú áp dụng các phương pháp trừ thuế nói trên
thì mặc dù phát sinh thu nhập ở nước khác mà tại đó đối tượng nộp thuế được

hưởng chế độ miễn giảm thuế thì tại nước cư trú vẫn thừa nhận cho trừ số thuế coi
như đã nộp ở nước ngoài.
Trong quá trình thực hiện hiệp định tránh đánh thuế hai lần các cơ quan thuế
phải thường xuyên trao đổi thông tin để phối hợp, ngăn chặn những hành vi tiêu
cực, khai man, trốn thuế, thực hiện tốt công tác quản lý thu thuế theo mục tiêu đặt ra
và đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội đối với người dân.
b) Nguyên tắc đánh thuế trên cơ sở thu nhập chịu thuế hiện hữu
Thuế TNCN chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế trên nguyên tắc :
Mọi khoản thu nhập của cá nhân trong kỳ tính thuế không phân biệt nguồn
phát sinh đều có thể đưa vào thu nhập chịu thuế sau khi loại bỏ những khoản được
pháp luật quy định không phải chịu thuế thu nhập
Thu nhập chịu thuế phải là thu nhập ròng nghĩa là thu nhập sau khi đã trừ các
chi phí tạo ra thu nhập đó và các khoản được phép giảm trừ
Thu nhập chịu thuế phải là thu nhập có thực, xác định được, tính toán được và
phù hợp với khả năng quản lý
c) Nguyên tắc đánh thuế trên cơ sở thu nhập năm
Để đảm bảo tính hiện thực của thuế TNCN, nhà nước quy định khoảng thời
gian làm cơ sở cho việc xác định thu nhập chịu thuế phát sinh tạm tính là tháng
hoặc quý và xác định chính xác số thuế TNCN phải nộp sau một năm .
Khi cá nhân cú cỏc hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế TNCN, số thuế TNCN
phải được tính và nộp vào NSNN sau một kỳ tính thuế thường là tháng hoặc quý. Kỳ
tính thuế đầu tiên được tính từ ngày bắt đầu hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế đến
ngày cuối cùng của tháng hoặc quý, kỳ tính thuế cuối cùng được tính từ ngày đầu tiên
của tháng hoặc quý đến ngày kết thúc hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế. Hàng tháng,
9
các cá nhân có thu nhập chịu thuế và các tổ chức, cá nhân trả các khoản thu nhập
thuộc diện chịu thuế TNCN cho cá nhân thực hiện khấu trừ thuế có trách nhiệm khai
thuế số thuế phát sinh trong tháng trước và nộp tờ khai cho cơ quan thuế.
Số thuế NNT kê khai hàng tháng với cơ quan thuế chỉ là số thuế tạm nộp vào
NSNN, sang năm sau NNT tổng hợp số liệu, xác định chính xác số thuế phát sinh

để lập quyết toán thuế năm trước nộp cho cơ quan thuế. Số thuế TNCN phát sinh
trên quyết toán thuế là số thuế có giá trị pháp lý cao, phản ánh đúng số thuế phải
nộp hàng năm nộp vào NSNN. Do vậy các tổ chức, cá nhân trả các khoản thu nhập
phải khấu trừ thuế không phân biệt có phát sinh khấu trừ thuế hay không có khấu
trừ thuế, đều có trách nhiệm khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân theo quy định
Kỳ tính thuế năm của thuế TNCN phải đủ 12 tháng, thông thường được tính
theo năm dương lịch. Trường hợp NNN đến Việt Nam làm việc không đủ 12 tháng
trong năm thì được phép lập quyết toán thuế TNCN bắt đầu từ thời điểm đến Việt
Nam sang năm sau.
Số thuế TNCN phải nộp trên quyết toán là số thuế TNCN tớnh trờn thu nhập
bình quân của từng tháng trong năm, được tính theo công thức :
Số thuế TNCN phải nộp cả năm. = [( Tổng thu nhập chịu thuế cả năm / 12
tháng ) x thuế suất lũy tiến )] x 12 tháng
Cá nhân phải nộp thêm thuế hoặc được hoàn số thuế TNCN đã nộp nếu có
chênh lệch giữa số thuế TNCN phải nộp cả năm và số thuế TNCN đã tạm nộp cỏc
thỏng trong năm
Cỏch tính thuế trên đảm bảo bình đẳng giữa những người làm việc thời vụ, chỉ
có thu nhập vài tháng trong năm và các cá nhân có thu nhập cả 12 tháng trong năm.
1.1.3.2 Phương pháp đánh thuế TNCN
Do mục tiêu của luật thuế TNCN chỉ nhằm điều tiết những người có thu nhập
cao. Vì vậy, chính sách thuế được thiết kế chủ yếu nhằm vào cá nhân có thu nhập
cao từ tiền lương tiền công và các khoản có tính chất tiền lương tiền công, có tính
đến yếu tố gia cảnh. Thông thường ở các nước, thu thuế TNCN có 2 phương pháp là
phương pháp khấu trừ tại nguồn và phương pháp thu trực tiếp.
10
- Phương pháp khấu trừ từ nguồn thu, tức là hàng tháng tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm khấu trừ thuế TNCN trước khi chi trả thu nhập cho cá nhân; kê khai và
nộp số thuế đã khấu trừ vào NSNN. Cuối năm, đơn vị chi trả có trách nhiệm quyết
toán thuế đối với từng cá nhân và quyết toán thuế đã khấu trừ với ngân sách.
Phương pháp này chỉ áp dụng đối với các khoản thu nhập không độc lập như thu

nhập từ tiền lương, bất động sản.
- Phương pháp thu trực tiếp áp dụng đối với các loại thu nhập có tính chất
khác nhau, thường là thu nhập độc lập của người có thu nhập như thu nhập từ thừa
kế, quà biếu, quà tặng, thu nhập ở nước ngoài… Người nộp thuế sẽ tự kê khai và
tính thuế theo các mẫu in sẵn rồi gửi cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế sẽ kiểm tra và
thông báo lại nếu có sai lệch hoặc khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm.
1.1.4 Vai trò, đặc điểm của thuế TNCN
1.1.4.1 Đặc điểm của thuế TNCN
Là thuế trực thu, đánh vào thu nhập của từng cá nhân, thuế TNCN có những
đặc điểm sau :
Một là : Thuế TNCN là một hình thức động viên mang tính bắt buộc trên
nguyên tắc theo luật định. Phân phối khoản thu nhập qua thuế TNCN gắn với quyền
lực, sức mạnh của Nhà nước.
Hai là : Thuế TNCN là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế TNDN ở
chỗ nó có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia tùy thuộc vào
mục tiêu của quốc gia cần đạt được. Là loại thuế có độ nhạy cảm cao vỡ nú liên
quan trực tiếp đến lợi ích cụ thể của người nộp thuế và liên quan đến hầu hết mọi cá
nhân trong xã hội, thuế TNCN quy định loại trừ một số khoản thu nhập trước khi
tính thuế TNCN như thu nhập mang tính trợ cấp xã hội, khoản chi cần thiết cho
cuộc sống cá nhân, gia đình người nộp thuế, khoản chi mang tính nhân đạo xã hội…
Ba là : Thuế TNCN là lại thuế trực thu đánh vào thu nhập của người nộp
thuế; người nộp thuế đồng nhất với người chịu thuế nên khó có thể chuyển gánh
nặng thuế sang cho người khác. Do là thuế trực thu nờn nú phản ánh sự đồng nhất
giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế.
Người chịu thuế TNCN không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế khóa sang
11

×