Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số tổ hợp lúa lai và một số biện pháp kỹ thuật tại huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 75 trang )


Số hóa bởi trung tâm học liệu


TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN CÔNG CỬ




NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG,
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ TỔ HỢP LÚA LAI
VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP KĨ THUẬT
TẠI HUYỆN VỊ XUYÊN TỈNH HÀ GIANG

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60.62.01.10



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP










- 2013


Số hóa bởi trung tâm học liệu

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Mọi trích dẫn trong luận án đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn


NGUYỄN CÔNG CỬ


Số hóa bởi trung tâm học liệu

ii
LỜI CẢM ƠN
Luận án được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá
nhân và cơ quan nghiên cứu. Trước hết, tác giả xin chân thành cảm ơn
TS. Nguyễn Đức Thạnh, với cương vị người hướng dẫn khoa học, đã có
nhiều đóng góp trong nghiên cứu và hoàn thành luận án. Tác giả chân thành
cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo các cơ quan ban, ngành huyện Vị
Xuyên. Cám ơn Chi Cục Thống kê huyện Vị Xuyên, Trung tâm khoa học kỹ
thuật giống cây trồng Đạo Đức trực thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Hà
Giang trong việc cung cấp tài liệu và thông tin liên quan đến đề tài, bố trí thí

nghiệm đồng ruộng và hợp tác triển khai xây dựng mô hình trồng lúa có sự
tham gia của nông dân. Trong quá trình hoàn thành luận án được sự giúp đỡ
của cán bộ, nhân viên khoa Nông Học, Viện khoa học sự sống, Phòng quản lý
đào tạo Sau đại học trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
Thái Nguyên, ngày 09 tháng 9 năm 2013
Tác giả luận văn


NGUYỄN CÔNG CỬ



Số hóa bởi trung tâm học liệu

iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
DANH MỤC CÁC HÌNH vii
MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích nghiên cứu - yêu cầu của đề tài 2
1.2.1. Mục đích 2
1.2.2. Yêu cầu 2
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3
1.3.1. Ý nghĩa khoa học 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4

1.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và Việt Nam 4
1.1.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới 4
1.1.2. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam 12
1.2. Hiện trạng sản xuất lúa lai trên thế giới và ở Việt Nam 17
1.2.1. Sản xuất lúa lai trên thế giới 17
1.2.2. Sản xuất lúa lai ở Việt Nam 17
1.2.3. Sản xuất lúa lai tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang 18
Chƣơng 2. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
2.1. Vật liệu nghiên cứu 19
2.2. Nội dung nghiên cứu 19
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 19
2.3.1. Địa điểm nghiên cứu 19


Số hóa bởi trung tâm học liệu

iv
2.3.2. Thời gian nghiên cứu 19
2.4. Phương pháp nghiên cứu 20
2.4.1. Nghiên cứu khả năng sinh trưởng phát triển của một số tổ hợp lúa lai 20
2.4.2. Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật 20
2.4.2.1. Nghiên cứu một số mật độ gieo đối với giống lúa lai tuyển chọn tại
địa điểm nghiên cứu 20
2.4.2.2. Nghiên cứu liều lượng bón đạm cho một giống lúa lai tuyển chọn tại
địa điểm nghiên cứu 21
2.5. Quy trình kỹ thuật 22
2.6. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi, đánh giá 23
2.6.1. Thời gian sinh trưởng, phát triển (tính từ khi gieo đến khi chín, đơn
vị: ngày) 23
2.6.2. Các đặc tính nông học 24

2.6.3. Các chỉ tiêu về sâu bệnh hại 28
2.6.4. Chỉ tiêu về chất lượng hạt gạo 30
2.6.5. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 31
2.6.6. Phương pháp xử lý số liệu 32
Chƣơng 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 33
3.1. Điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu của huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang 33
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 33
3.1.2. Một số đặc điểm chủ yếu về điều kiện đất đai 33
3.1.3. Đặc điểm thời tiết khí hậu vụ mùa năm 2012, 2013 tại Vị Xuyên. 34
3.2. Kết quả thí nghiệm so sánh các tổ hợp lúa lai 36
3.2.1. Sinh trưởng phát triển của mạ 36
3.2.2. Thời gian sinh trưởng và phát triển của các giống lúa thí nghiệm 38
3.2.3. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa 42
3.2.4. Một số đặc điểm nông học của các giống lúa 44


Số hóa bởi trung tâm học liệu

v
3.2.5. Một số đặc điểm hình thái của các giống lúa 46
3.2.6. Khả năng chống chịu sâu, bệnh chính hại lúa: 47
3.2.7. Các yếu tố cấu thành năng suất lúa 49
3.2.8. Chất lượng gạo của các giống lúa thí nghiệm 54
3.3. Thí nghiệm nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật đối với giống lúa có
triển vọng 55
3.3.1. Thí nghiệm so sánh mật độ cấy mật độ cấy 56
3.3.1.1. Ảnh hưởng của mật độ đến khả năng đẻ nhánh của lúa 56
3.3.1.2. Ảnh hưởng của mật độ đến khả năng chống chịu sâu bệnh hại 57
3.3.1.3. Ảnh hưởng của mật độ đến các yếu tố cấu thành năng suất và
năng suất lúa 57

3.3.1.4. Hiệu quả kinh tế của các mật độ khác nhau 59
3.3.2. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến cấy lúa 60
3.3.2.1. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến khả năng đẻ nhánh lúa 60
3.3.2.2. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất và yếu tố cấu thành
năng suất 61
3.3.2.3. Hiệu quả kinh tế cho các liều lượng đạm 62
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 63
1. Kết luận 63
1.1. Thí nghiệm so sánh các tổ hợp lúa lai 63
1.2. Mật độ cấy 63
1.3. Liều lượng đạm 64
2. Đề nghị 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 65


Số hóa bởi trung tâm học liệu

vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới trong vài thập kỷ gần đây 4
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo của 10 nước đứng đầu thế giới năm
2012 (về diện tích) 6
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam qua các thời kỳ 14
Bảng 1.4. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa lai của Việt Nam qua
các giai đoạn 18
Bảng 3.1. Diễn biến thời tiết tại huyện Vị Xuyên năm 2012-2013 34
Bảng 3.2. Sức sinh trưởng của mạ 37
Bảng 3.3. Thời gian sinh trưởng của các giống lúa thí nghiệm 39
Bảng 3.4. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm 43
Bảng 3.5. Một số đặc điểm nông học của các giống lúa 45

Bảng 3.6. Đặc điểm hình thái của các giống lúa thí nghiệm 46
Bảng 3.7. Tình hình sâu, bệnh hại trên các giống lúa thí nghiệm (điểm) 48
Bảng 3.8. Năng suất và yếu tố cấu thành năng suất vụ mùa năm 2012 50
Bảng 3.9. Năng suất và yếu tố cấu thành năng suất năm vụ xuân năm 2013 . 51
Bảng 3.10. Năng suất thực thu của các giống lúa thí nghiệm 53
Bảng 3.11. Một số chỉ tiêu chất lượng gạo 55
Bảng 3.12. Ảnh hưởng của mật độ đến khả năng đẻ nhánh lúa 56
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của mật độ đến khả năng chống chịu sâu bệnh hại 57
Bảng 3.14. Ảnh hưởng của mật độ đến các yếu tố cấu thành năng suất lúa và
NSTT 58
Bảng 3.15. Hạch toán kinh tế của các mật độ khác nhau 59
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến khả năng đẻ nhánh của các
giống lúa 60
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất và yếu tố cấu thành
năng suất lúa 61
Bảng 3.18. Hạch toán kinh tế cho các liều lượng đạm 62



Số hóa bởi trung tâm học liệu

vii
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1. Biểu đồ diễn biến thời tiết tại huyện Vị Xuyên năm 2012 35
Hình 3.2. Biểu đồ biểu diễn thời gian sinh trưởng của các giống lúa thí
nghiệm vụ mùa năm 2012 40
Hình 3.3. Biểu đồ biểu diễn thời gian sinh trưởng của các giống lúa thí
nghiệm vụ xuân năm 2013 41












Số hóa bởi trung tâm học liệu

1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
(Oryza sativa L.) là cây lương thực chính của hơn một nửa dân số thế
giới, tập trung tại các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh. Lúa gạo
có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực và ổn định xã
hội. Theo FAO thế giới đang nguy cơ thiếu hụt lương thực do dân số tăng
nhanh, sức mua lương thực, thực phẩm tại nhiều nước tăng, biến đổi khí
hậu toàn cầu gây hiểm họa khô hạn, bão lụt, quá trình đô thị hoá làm giảm
đất lúa, nhiều nước phải dành đất, nước để trồng cây nhiên liệu sinh học vì
sự khan hiếm nguồn nhiên liệu rất cần thiết cho nhu cầu đời sống và công
nghiệp phát triển. Chính vì vậy, an ninh lương thực là vấn đề cấp thiết hàng
đầu của thế giới ở hiện tại và trong tương lai. Hiện nay có khoảng 40% dân
số trên thế giới sử dụng lúa gạo là nguồn lương thực chính. Với mức tiêu
dùng hàng năm khoảng 180 - 200 kg/người. Về mặt dinh dưỡng trong lúa
gạo có đầy đủ các chất giống như các loại cây lương thực khác, trong đó
tinh bột chiếm hàm lượng chủ yếu (chiếm đến 62,4% hàm lượng chất khô).
Ngoài ra trong lúa gạo còn có một số loại Vitamin, đặc biệt là vitamin B1.

Sản xuất lúa gạo chủ yếu tập trung ở các nước châu Á, ở nước ta có hơn
60% dân số sống bằng nghề trồng lúa, nên lúa không chỉ có ý nghĩa về mặt
an ninh lương thực mà còn có ý nghĩa về mặt kinh tế cho nông dân và đặc
biệt quan trọng đối với bà con nông dân miền núi.
Hà Giang là một Tỉnh miền núi nằm ở vùng Đông Bắc của Tổ quốc với
tổng diện tích đất tự nhiên 7.914 km
2
. Dân số theo số của Tỉnh là 749.537
người bao gồm 22 dân tộc anh em cùng chung sống, mật độ dân số bình quân
95 người/km
2
. Diện tích lúa nước cả năm đạt 36.413,4 ha tập trung chủ yếu ở
các huyện Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên và Hoàng Su Phì chiếm tới


Số hóa bởi trung tâm học liệu

2
65% diện tích trong toàn tỉnh với điều kiện thời tiết khí hậu thuận lợi, nhiệt độ
trung bình giao động từ 16,6 - 28,4
0
C, ẩm độ trung bình 79 - 86%, lượng mưa
hàng năm cao, các nguồn nước tưới tiêu chủ động. Vì thế đây được coi là vùng
trọng điểm lúa của Tỉnh. Năm 2012 bình quân lương thực trên đầu người đạt
486 kg/người/năm, trong tổng sản lượng lương thực cây lúa chiểm 55%.
Trong những năm qua Hà Giang đã có nhiều tiến bộ trong sản xuất lúa,
một số giống lúa lai đã được đưa vào địa phương sản xuất có chất lượng tốt
nhưng năng suất còn thấp do nhiều yếu tố trong đó có các yếu tố về kỹ
thuật canh tác. Mặt khác, việc lựa chọn các giống lúa lai mới giới thiệu
cho sản xuất để làm phong phú bộ giống lúa lai cho các vùng sinh thái

trong tỉnh là rất cần thiết. Xuất phát từ tình hình sản xuất lúa thực tiễn tại
địa phương chúng tôi tiến hành đề tài:“Nghiên cứu khả năng sinh
trưởng phát triển của một số tổ hợp lúa lai và một số biện pháp kỹ thuật
tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang”.
1.2. Mục đích nghiên cứu - yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
- Xác định tổ hợp lúa lai có năng suất chất lượng cao phù hợp tại
địa phương.
- Xác định mật độ cấy và lượng phân bón thích hợp cho giống lúa lai
được tuyển chọn.
1.2.2. Yêu cầu
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, chống chịu, năng suất, chất lượng và
mức độ nhiễm sâu bệnh hại của các tổ hợp lúa lai.
- Tìm ra một số biện pháp kỹ thuật thích hợp cho các tổ hợp lúa lai có
triển vọng


Số hóa bởi trung tâm học liệu

3
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Xác định được tổ hợp lúa lai cho năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp
với điều kiện sinh thái tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà giang.
Xác định liều lượng bón phân và mật độ cấy cho các tổ hợp lúa lai
tuyển chọn, góp phần xây dựng quy trình gieo trồng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài đóng góp và bổ sung vào tài liệu phục vụ
cho công tác nghiên cứu và chỉ đạo sản xuất.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Xác định được giống lúa lai bổ sung vào bộ giống lúa có năng suất,

chất lượng phù hợp với sản xuất tại địa phương.
Kết quả nghiên cứu góp phần cải thiện quy trình làm tăng năng suất,
hiệu quả kinh tế cho sản xuất lúa. Góp phần đảm bảo an ninh lương thực,
nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân trong vùng.















Số hóa bởi trung tâm học liệu

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới
Lúa chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt ở các nước Châu Á. Thống kế
của tổ chức lương thực thế giới (FAO, 2013) [20] cho thấy, có 117 nước trồng
lúa, trong đó 18 nước có diện tích trồng lúa trên trên 1.000.000 ha tập trung ở
Châu Á 14 nước, châu Mỹ 2 nước Brazil 2,37 triệu ha, Mỹ 1,083 triệu ha,

châu Phi có 2 nước Nigeria 2,685 triệu ha, Guinea xích đạo 1 triệu ha Có
55 nước có diện tích trồng lúa trên 100.000 ha.
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới trong vài thập kỷ gần đây
Năm
Diện tích
(Nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(Nghìn tấn)
1961
115.365
18,69
215.646
1970
132.873
23,81
316.346
1980
144.412
27,48
396.871
1990
146.961
35,29
518.556
2000
154.056
38,91
599.355

2001
152.043
39,35
598.361
2002
147.953
38,49
569.451
2003
148.532
39,63
584.630
2004
150.549
40,37
607.795
2005
155.026
40,92
634.930
2006
155.741
41,16
641.095
2007
155.953
42,12
656.807
2008
159.251

43,07
685.875
2009
161.421
42,04
678.682
2010
161.664
43,36
701.047
2011
163.143
44,29
722.559
2012
163.463
43,94
718.345
(Nguồn: FAO STAT năm 2013) [20].


Số hóa bởi trung tâm học liệu

5
Qua bảng 1.1 cho thấy, diện tích trồng lúa trên thế giới đã gia tăng rõ
rệt từ năm 1961 đến 1980. Trong vòng 19 năm đó, diện tích trồng lúa trên thế
giới tăng bình quân 1,53 triệu ha/năm. Từ năm 1980, diện tích lúa tăng chậm
và đạt cao nhất vào năm 2000 (154,056 triệu ha) với tốc độ tăng trưởng bình
quân 630.000 ha/năm. Từ năm 2000 trở đi diện tích trồng lúa thế giới có
nhiều biến động và có xu hướng giảm dần, đến năm 2005 còn ở mức 155,026

triệu ha. Từ năm 2005 đến 2009 diện tích lúa gia tăng liên tục, cao nhất là
năm 2012 với 163,463 triệu ha [20].
Bên cạnh diện tích trồng lúa, năng suất lúa bình quân trên thế giới cũng
tăng khoảng 14 tạ/ha trong vòng 24 năm từ năm 1961 đến 1985, đặc biệt sau
cuộc cách mạng xanh của thế giới vào những năm 1965-1970, với sự ra đời
của các giống lúa thấp cây, ngắn ngày, không cảm quang, mà tiêu biểu là
giống lúa IR5, IR8. Đến những năm 1990 dẫn đầu năng suất lúa trên thế giới
là các nước Triều Tiên, Úc, Mỹ, Nhật Bản, Tây Ban Nha (IRRI, 1990). Từ
năm 1990 trở đi đến tại thời điểm hiện nay năng suất lúa thế giới liên tục
được cải thiện và tăng dần đạt 43,94 tạ/ha năm 2012.
Về sản lượng do diện tích và năng suất liên tục tăng nên sản lượng lúa
cũng tăng nhanh. Năm 1961 cả thế giới chỉ đạt 215 triệu tấn nhưng đến
nawmm 2011 sản lượng đạt tới 722 triệu tấn.
Nhìn chung năng suất các nước trong 10 năm gần đây cho thấy: năng
suất lúa cao tập trung ở các quốc gia á nhiệt đới, nhiệt độ ngày và đêm cao
hơn và trình độ canh tác phát triển tốt hơn. Các nước nhiệt đới có năng suất
bình quân thấp do chế độ nhiệt và ẩm độ cao, sâu bệnh phát triển mạnh và
trình độ canh tác hạn chế.


Số hóa bởi trung tâm học liệu

6
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo của 10 nƣớc đứng đầu thế giới
năm 2012 (về diện tích)
Tên nƣớc
Diện tích
(1.000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)

Sản lƣợng
( triệu tấn)
Tổng
137.192
41,401
6.131.196
China
30.557
67,443
2.060,85
India
42.500
35,906
1.526,00
Indonesia
13.443
51,360
690,43
Thailand
12.600
30,000
378,00
Bangladesh
11.700
29,231
342,00
Myanmar
8.150
40,491
330,00

Việt Nam
7.753
56,315
436,61
Philippines
4.689
38,449
180,28
Cambodia
3.100
30,000
93,00
Pakistan
2.700
34,815
94,00
(Nguồn: FAO STAT năm 2013) [20]
Các nước có diện tích trồng lúa nhiều nhất thế giới năm 2012 đứng đầu
vẫn là các nước châu Á là Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Bangladesh, Thái
Lan, Myanmar, Việt Nam, Philippines, Căm Pu Chia và Pakistan. Tuy nhiên
chỉ có 3 nước có năng suất cao hơn 50 tạ/ha là Trung Quốc, Việt Nam và
Indonesia, trong đó cao nhất là Trung Quốc 67,42 tạ/ha. Mặc dù năng suất lúa
ở các nước Châu Á còn thấp nhưng do diện tích sản xuất lớn nên châu Á vẫn
là nguồn đóng góp rất quan trọng cho sản lượng lúa trên thế giới (trên 90%).
Như vậy, có thể nói châu Á là vựa lúa quan trọng nhất thế giới.
Mặc dù bị ảnh hưởng hiện tượng Niña nhiều

2011, sản lượng
lúa đạt đến 721 triệu tấn hay 481 triệu tấn gạo, tăng 3% hay 24 triệu tấn so với
2010. Năm 2012 vẫn đạt được 718 triệu tấn lúa. Phần lớn sự gia tăng này do



Số hóa bởi trung tâm học liệu

7
sản xuất thuận lợi tại Ấn Độ, Ai Cập, Bangladesh, Trung Quốc và Việt Nam
vượt trội hơn số lượng thất thu từ Indonesia, Madagascar, Pakistan,
Philippines và Thái Lan. Sự gia tăng còn do diện tíc

[17]
Cũng theo đánh giá của FAO [19] về sản xuất lúa 2011 châu Á sản xuất
651 triệu tấn lúa (435

,
/ha.
N

năm 2010 nhờ mùa mưa thuận lợi, ngoại trừ vài tỉnh ở Tây Nam có hạn hán.
Trung Quốc sản xuất đến 203 triệu tấn

2010 (34,5 tr
.
(17 triệu tấn gạo), cao
hơn 3% năm 2010 dù mưa bất thường, do được mùa ở Ai Cập, một nước sản
xuất lúa tưới tiêu lớn trong vùng và tăng sản xuất ở Benin, Ghana, Mali,
Nigeria, Sierra Leone thuộc Tây Phi Châu. Trong khi Đông Phi Châu như



Số hóa bởi trung tâm học liệu


8
tưới tiêu. Ba nước sản xuất lúa gạo nhiều nhất ở châu Phi là Ai Cập, Nigeria
và Madagascar, chiếm đến 55% tổng sản lượng lúa. Sản xuất lúa ở Ai Cập
tăng từ 5,2 triệu tấn trong 2010 lên 5,8 triệu tấn trong 2011 và Nigeria từ
4,2 lên 4,3 triệu tấn; trong khi Madagascar giảm từ 4,8 xuống 4,3 triệu tấn
trong cùng thời kỳ [19].
, do được
mùa và giá gạo cao từ các nước Argentina, Br
hạn, Honduras, Nicaragua và El Salvador bị ngập lụt. Bazil là nước sản xuất
lúa gạo lớn nhất của châu Mỹ (chủ yếu lúa rẫy) đạt đến 13,6 triệu tấn so với
11,7 tri
[17].
Hoa Kỳ sản xuất lúa gần 8,5 triệu tấn, giảm 21% so với 2010 (11 triệu
tấn) do khí hậu không thuận lợi và diện tích trồng thu hẹp. Đó là mức sản xuất
thấp n . Sản xuất lúa Úc Châu tăng đến 800.000 tấn,
gấp 4 lần so với 2010 (0,2 triệu tấn) nhờ cung cấp đầy đủ nước tưới. Sản xuất
lúa ở châu Âu tăng thêm 0,2 triệu tấn, đạt đến 4,6 triệu tấn nhờ cải thiện năng
suất, đặc biệt ở nước Ý và Liên bang Nga.
Các nhà nghiên cứu của Viện lúa Quốc tế (IRRI) nhận thức rằng các
giống lúa mới thấp cây, lá đứng, tiềm năng năng suất cao cũng chỉ có thể
giải quyết vấn đề lương thực trong phạm vi hạn chế. Hiện nay Viện IRRI
đang tập trung vào nghiên cứu chọn tạo ra các giống lúa cao sản (siêu lúa)
có thể đạt 13 tấn/ha/vụ, đồng thời phát huy kết quả chọn tạo 2 giống là IR6
và Jasmin là giống có phẩm chất gạo tốt, được trồng rộng rãi ở nhiều nơi
trên thế giới. Trên cơ sở một số giống lúa chất lượng cao Viện IRRI đang
tập trung vào nghiên cứu, chọn tạo các giống lúa có chất lượng cao (giàu


Số hóa bởi trung tâm học liệu


9
vitamin, giàu protein, có mùi thơm, cơm dẻo…) vừa để giải quyết vấn đề an
ninh lương thực, vừa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người
tiêu dùng [13].
Về năng suất lúa năm 2012 nước có năng suất lúa cao nhất là Ai Cập
97,01 tạ/ha, Úc 89 tạ/ha, Mỹ 83 tạ/ha tiếp đến là Hi Lạp, Tây Ban Nha,
Uruguay, Peru cũng có năng gần 80 tạ/ha [20].
Nhiều nước ở châu Á có diện tích trồng lúa lớn, có kỹ thuật thâm canh
tiên tiến và có kinh nghiệm dân gian phong phú. Có đến 85% sản lượng lúa
trên thế giới phụ thuộc vào 8 nước châu Á, đó là: Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia, Bangladesh, Thái Lan, Việt Nam, Myanma và Philippines [13].
Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới, là một nước thiếu đói
lương thực trầm trọng trong thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, vì vậy công tác
nghiên cứu, lai tạo, chọn tạo và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất
là giống lúa mới vào sản xuất được đặc biệt chú trọng. Trong lịch sử phát
triển lúa lai trên thế giới, Trung Quốc là nước đầu tiên sử dụng thành công ưu
thế lai của lúa vào sản xuất. Năm 1960 khi theo dõi thí nghiệm của mình,
Viên Long Bình phát hiện một cây lúa lạ khỏe, bông to, hạt nhiều. Nhưng ông
đã thất vọng vì chưa tìm ra phương pháp sử dụng ưu thế lai. Sau đó ông bắt
đầu tìm dòng bất dục đực. Con đường tạo giống ưu thế lai theo phương pháp
“3 dòng” được hé mở từ đây. Năm 1964, Viên Long Bình phát hiện cây có
tính bất dục đực nhưng không giữ được tính bất dục đó bởi không có dòng
duy trì mẹ. Tháng 11/1970 Lý Tất Hồ cộng tác với Viêm Long Bình thu được
cây bất dục đực trong loài lúa dại ở đảo Hải Nam. Đây là thành công có tính
quyết định đến việc tạo ra các tổ hợp lai 3 dòng và 2 dòng sau này. Vào năm
1974, các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời những tổ hợp lai có ưu thế
lai cao, đồng thời quy trình kỹ thuật sản xuất hạt lai hệ “3 dòng” được hoàn
thiện và đưa vào sản xuất năm 1975, đánh dấu bước ngoặt to lớn trong lĩnh



Số hóa bởi trung tâm học liệu

10
vực sản xuất nông nghiệp ở Trung Quốc nói riêng và trên toàn thế giới nói
chung [23]. Những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI Trung Quốc tập
trung vào việc lai tạo các giống lúa lai 2 dòng và đang hướng tới tạo ra các
giống lúa lai 1 dòng siêu cao sản (siêu lúa) có thể đạt năng suất 18 tấn/ha/vụ.
Về chiến lược phát triển lúa lai của Trung Quốc trong thế kỷ XXI là phát triển
lúa lai hai dòng và đẩy mạnh nghiên cứu lúa lai một dòng, lúa lai siêu cao sản
nhằm nâng cao năng suất, sản lượng lúa gạo của đất nước [16].
Ấn Độ là một nước có diện tích trồng lúa đứng đầu thế giới, đồng thời
Ấn Độ cũng là nước đi đầu trong cuộc “cách mạng xanh” về đưa các tiến bộ
khoa học kỹ thuật nhất là giống mới vào sản xuất, làm tăng năng suất và sản
lượng lúa gạo của Ấn Độ. Viện nghiên cứu giống lúa trung ương của Ấn Độ
được thành lập vào năm 1946 tại Cuttuck bang Orisa là nơi tập trung nghiên
cứu, lai tạo các giống lúa mới phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó Ấn Độ cũng là
nước có giống lúa chất lượng cao nổi tiếng trên thế giới như giống lúa:
Basmati, Brimphun có giá trị rất cao trên thị trường tiêu thụ [20].
Nhật Bản là một trong những nước có diện tích trồng lúa nhiều nhất thế
giới. Nhật Bản cũng là nước đạt năng suất lúa cao năm 2012 đạt 53,9 tạ/ha,
tuy có diện tích không lớn song sản lượng năm 2012 đạt trên 8,523 triệu tấn.
Có được kết quả đó là do người Nhật chỉ trồng lúa 1 vụ/năm, cây lúa được
gieo trồng trong điều kiện thời tiết thuận lợi nhất, công tác giống lúa của Nhật
cũng được đặc biệt chú trọng về giống chất lượng cao vì người Nhật đòi hỏi
lúa gạo chất lượng cao. Để đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, Nhật bản đã tập
trung vào công tác nghiên cứu giống lúa ở các Viện. Các nhà khoa học Nhật
Bản đã lai tạo và đưa vào sản xuất các giống lúa vừa có năng suất cao, chất
lượng tốt như Koshihikari, Sasanisiki, Koenshu… đặc biệt ở Nhật đã lai tạo
được 2 giống lúa có mùi thơm đặc biệt, chất lượng gạo ngon và năng suất cao

như giống: Miyazaki1 và Miyazaki2. Cho đến giờ các giống này vẫn giữ được


Số hóa bởi trung tâm học liệu

11
vị trí hàng đầu về 2 chỉ tiêu quan trọng đó là hàm lượng Protein cao tới 13%,
hàm lượng Lysin cũng rất cao [14].
Thái Lan là nước xuất khẩu lúa gạo đứng hàng đầu thế giới. Với những
ưu đãi của thiên nhiên, Thái Lan có vùng châu thổ trồng lúa phì nhiêu, mặc dù
năng suất và sản lượng lúa gạo của Thái Lan không cao song họ chú trọng
đến việc chọn tạo giống có chất lượng gạo cao. Các trung tâm nghiên cứu lúa
của Thái Lan được thành lập ở nhiều tỉnh và các khu vực. Các trung tâm này
có nhiệm vụ tiến hành chọn lọc, phục tráng, lai tạo, nhân giống phục vụ cho
nhu cầu sản xuất của người dân với mục tiêu phục vụ nhu cầu trong nước và
xuất khẩu. Các đặc điểm nổi bật của các giống lúa mà các nhà khoa học tập
trung nghiên cứu và lai tạo đó là hạt gạo dài và trong, ít dập gãy khi xay sát,
có hương thơm, coi trọng chất lượng hơn là năng suất, điều này cho thấy giá
lúa gạo xuất khẩu của Thái Lan bao giờ cũng cao hơn của Việt Nam. Một số
giống lúa chất lượng cao nổi tiếng thế giới của Thái Lan là: Khaodomali,
Jasmin (Hương nhài). Sản xuất nông nghiệp của Thái Lan trong mấy thập kỷ
qua phát triển tương đối ổn định và Thái Lan cũng như nhiều nước Đông Nam
Á khác trong buổi đầu phát triển kinh tế Tư bản chủ nghĩa, đều xuất phát từ
thế mạnh nông nghiệp.
Indonesia là nước có diện tích trồng lúa khá lớn trong Top 10 nước
đứng đầu thế giới. Đây cũng là nước có nhiều giống lúa chất lượng cao, cơm
dẻo, có mùi thơm, hầu hết các giống lúa ở Indonesia có nguồn gốc bản địa
hoặc được lai tạo ở các cơ sở nghiên cứu. Trong thời gian gần đây Indonesia
nhận định có khả năng đối mặt với khủng hoảng lương thực trong mười năm
tới nên đã khởi động chương trình “hồi sinh ngành nông nghiệp”.

Ở khu vực Đông Á còn có một số nước cũng có diện tích trồng lúa
đáng kể đó là: Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên, Đài Loan. Các nước này chủ yếu sử


Số hóa bởi trung tâm học liệu

12
dụng giống lúa thuộc loại hình Japonica, hạt gạo tròn, cơm dẻo phù hợp với
thị hiếu tiêu dùng của người dân khu vực này. Các giống lúa nổi tiếng của khu
vực này là Ton gil (Hàn Quốc), Tai chung 1, Tai chung 2, Gang chan gi, Đee-
Geo-Wô-Gen (Đài Loan)… đặc biệt giống Đee-Geo-Wô-Gen là một vật liệu
khởi đầu để tạo ra giống lúa IR8 nổi tiếng một thời [24].
Ngoài châu Á thì ở Mỹ, trong thời gian gần đây các nhà khoa học
không chỉ quan tâm đến việc chọn lọc, lai tạo và đưa ra những giống lúa có
năng suất cao, ưa thâm canh và ổn định, mà còn nghiên cứu tỷ lệ protein trong
gạo, phù hợp với thị trường hiện nay [25].
Ngoài ra, trên thế giới còn rất nhiều nhà khoa học đã và đang nghiên
cứu các giống lúa nhằm mục đích đưa ra những giống lúa có năng suất cao,
phẩm chất tốt, có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh, thâm canh.
1.1.2. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam
Việt nam là một nước trồng lúa trọng điểm của thế giới. Người Việt
Nam luôn tự hào về nền văn minh lúa nước của mình. Với điều kiện khí hậu
nhiệt đới ẩm gió mùa, Việt Nam được coi là cái nôi hình thành cây lúa nước.
Từ xa xưa, cây lúa đã trở thành cây lương thực chủ yếu, có ý nghĩa quan trọng
trong đời sống của người dân Việt Nam (Bùi Huy Đáp, 1999) [7]. Cùng với
địa hình trải dài trên 1 vĩ độ Bắc bán cầu, từ Bắc vào Nam đã hình thành
những đồng bằn châu thổ trồng lúa phì nhiêu đó là Đồng bằng châu thổ sông
Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, không những cung cấp đủ lương thực
trong nước, mà hàng năm còn xuất khẩu hàng triệu tấn gạo sang các nước.
Quá trình khai hoang phục hoá cùng với việc thâm canh tăng vụ đã đưa tổng

diện tích lúa thu hoạch của nước ta từ 4,74 triệu ha năm 1961 tăng lên 7,67
triệu ha năm 2000, sau đó giảm xuống còn 7,45 triệu ha năm 2003 [6]. Cùng
thời gian đó, năng suất và sản lượng lúa cũng tăng lên rõ rệt nhờ vào công
cuộc cải cách giống lúa và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về phân


Số hóa bởi trung tâm học liệu

13
bón, tưới tiêu, phòng trừ sâu bệnh một cách hợp lý, đồng bộ. Tính từ năm
1961 đến năm 2005, năng suất lúa của nước ta tăng lên 2,8 lần. Giai đoạn tăng
cao nhất là từ thập kỷ 80 đến nay. Điều này gắn liền với các tiến bộ mới trong
thâm canh tăng năng suất lúa được ứng dụng rộng rãi trong thời gian này và
quan trọng hơn là việc chuyển đổi cơ chế quản lý đất đai, từ cơ chế hợp tác
sang tư nhân hoá, lấy hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ đã khuyến khích
người dân đầu tư tham canh sản xuất lúa. Sản lượng lúa của Việt Nam cũng vì
thế mà tăng liên tục từ gần 9,0 triệu tấn năm 1961 lên 35,83 triệu tấn năm
2005. Từ một nước thiếu ăn phải nhập khẩu gần 2 triệu tấn gạo/năm trước
đây, Việt Nam đã vươn lên giải quyết lương thực cho hơn 83 triệu dân ngoài
ra còn xuất khẩu ra thị trường thế giới hàng triệu tấn gạo/năm và luôn đứng
trong danh sách các nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới . Từ Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI nền sản xuất nông nghiệp của nước ta chuyển từ
kinh tế tập thể lấy Hợp tác xã nông nghiệp quản lý và điều hành kế hoạch sản
xuất, sang cơ chế lấy hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ vì vậy đã khuyến
khích người dân đầu tư về công sức tiền của cho việc chuyển dịch cơ cấu sản
xuất, thâm canh tăng vụ vì vậy sản lượng lúa của Việt Nam không ngừng
được tăng cao. Nước ta đã giải quyết cơ bản vấn đề thiếu lương thực, đảm bảo
an ninh lương thực quốc gia và còn xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới (sau
Thái Lan). Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây diện tích trồng lúa có xu
hướng giảm dần nguyên nhân chủ yếu là do quá trình đô thị hóa, công nghiệp

hóa đã và đang làm cho diện tích đất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa
nói riêng giảm đáng kể. Nếu so sánh năm 2000 với 2010 thì diện tích trồng
lúa của nước ta giảm tới 152.600 ha [17].
Tổng diện tích lúa của cả nước từ 4,72 triệu ha năm 1970 tăng lên 7,66
triệu ha năm 2000 và giảm xuống còn 7,51 triệu ha năm 2010. Năng suất
không ngừng được nâng cao từ 21,5 tạ/ha (năm 1970) lên 53,22 tạ/ha (năm


Số hóa bởi trung tâm học liệu

14
2010). Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây diện tích trồng lúa có xu hướng
giảm dần, nguyên nhân chủ yếu là do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đã
và đang làm cho diện tích đất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói
riêng giảm đáng kể. Nếu so sánh năm 2000 với 2010 thì diện tích trồng lúa
của nước ta giảm tới 152.600 ha [19].
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam qua các thời kỳ
Năm
Diện tích
(1.000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
1970
4.724
21,533
10,173
1980
5.600

20,798
11,647
1990
6.042
31,814
19,225
2000
7.666
42,431
32,529
2001
7.492
42,852
32,108
2002
7.504
45,903
34,447
2003
7.452
46,387
34,568
2004
7.445
48,552
36,148
2005
7.329
48,890
35,832

2006
7.324
48,942
35,849
2007
7.207
49,869
35,942
2008
7.414
52,230
38,725
2009
7.440
52,278
38,895
2010
7.513
53,221
39,988
2011
7.655
55,383
42,398
2012
7.753
56,314
43,661
(Nguồn: FAO STAT năm 2013) [20]
Bảng 1.3 cho thấy: từ năm 1970 đến năm 2000 diện tích trồng lúa tăng

đáng kể từ 4,72 triệu ha đã tăng lên 7,66 triệu ha. Trong 10 năm trở lại đây
diện tích trồng lúa của nước giữ ở mức trên 7 triệu ha. Từ năm 2000 đến năm


Số hóa bởi trung tâm học liệu

15
2007 diện tích có xu thế giảm dần, năm 2000 diện tích 7,66 triệu ha giảm đến
7,20 triệu ha năm 2007. Nguyên nhân của hiện tượng này là do nhà nước ta
đang có chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng
sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ cho nên
diện tích trồng lúa bị thu hẹp. Bên cạnh đó, các khu công nghiệp được xây
dựng ngày càng nhiều, nhu cầu đất ở ngày càng tăng nên lấn vào đất nông
nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói riêng làm suy giảm về diện tích. Tuy
nhiên, từ năm 2008 diện tích trồng lúa có xu thế tăng dần, năm 2010 7,5 ha,
năm 1011 7,6 ha và năm 2012 đạt 7,7 ha. Trong khi diện tích trồng lúa có sự
giao động lên xuống theo từng năm thì năng suất lúa và sản lượng lúa lại
không ngừng tăng lên qua các năm. Trong 10 năm từ 2000 đến 2010 năng
suất tăng lên đáng kể. Năm 2000 năng suất lúa bình quân đạt 42,43 tạ/ha đến
năm 2010, năng suất lúa đã tăng lên 53,22 tạ/ha (tăng 10,79 tạ/ha) tức tăng
20,27% so với năm 2000. Đến năm 2012 năng suất đã đạt 56,31 tạ/ha. Sản
lượng lúa tăng từ 32.529.500 tấn lên 39.988.900 tấn (tăng 7.459.400 tấn) tức
tăng 18,65%) so với năm 2000, đến năm 2012 sản lượng lúa đã đạt 43,66 triệu
tấn. Trong những năm gần đây do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đã
làm diện tích trồng lúa có xu hướng giảm, mặc dù sản lượng vẫn tăng do việc
ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất làm tăng năng suất lúa.
Bên cạnh việc tăng năng suất lúa, chúng ta cũng đã chú trọng đến chất lượng
của lúa gạo, những giống lúa cổ truyền như Tám Ấp Bẹ, Tám xoan, Dự, nếp
cái Hoa vàng, nếp Hòa Bình, nếp Hải Phòng, Nàng Nhen, Nàng thơm Chợ
Đào, đã được phục tráng và mở rộng trong sản xuất [7].

Có được kết quả như vậy là do Đảng và nhà nước ta đã chú trọng
đầu tư nhiều cho phát triển nông nghiệp như: xây dựng hệ thống kênh
mương tưới tiêu, hỗ trợ giá thành về giống, phân bón và các vật tư, thiết


Số hóa bởi trung tâm học liệu

16
bị khác phục vụ nông nghiệp, tăng cường công tác nghiên cứu, chọn lọc ra
các giống lúa mới có năng suất cao và ổn định, chất lượng tốt, khả năng
chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh tốt đưa vào sản xuất,…
chính điều đó đã góp phần làm tăng đáng kể năng suất và sản lượng lúa,
đáp ứng nhu cầu trong nước và một phần xuất khẩu ra nước ngoài đem về
nguồn thu lớn cho đất nước.
Năm 2002 tại trại thí nghiệm nông nghiệp Văn Điển đã tiến hành
khảo nghiệm để so sánh một số giống lúa mới về thời vụ gieo cấy, mật độ
cấy và phân bón. Kết quả đã chọn ra được giống NX30, BM98 - 55 chịu
thâm canh, có tiềm năng năng suất cao, chống chịu tốt với một số loại sâu
bệnh chính hại lúa (Đạo ôn, Bạc lá, Rầy nâu), chất lượng gạo ngon, cấy
được cả 2 vụ xuân sớm, xuân chính vụ, mùa sớm. Giống X25, AYT77,
VK1: có thời gian sinh trưởng ngắn, tiềm năng năng suất cao, chất lượng
gạo tốt, tính thích ứng rộng, chống chịu sâu bệnh khá, cấy được cả hai vụ
xuân muộn và mùa sớm. Năm 2003 tại trại thí nghiệm Văn Điển các nhà
khoa học tiếp tục tiến hành khảo nghiệm một số giống lúa có tềm năng
năng suất và chất lượng cao, kết quả đã chọn được một số giống có thời
gian sinh trưởng ngắn và tiềm năng suất cao như AYT77, AYT01,VĐ7.
HT1, P6, P8 [17].
Cũng trong năm 2003, Nguyễn Thanh Tuyền đã tiến hành nghiên cứu
đặc điểm nguồn và sức chứa của một số giống lúa có thời gian sinh trưởng
khác nhau. Kết quả cho thấy các giống lúa ngắn ngày có các yếu tố sức chứa

cao hơn các giống trung ngày. Do đó năng suất và tiềm năng năng suất của
các giống ngắn ngày bằng hoặc cao hơn các giống dài ngày [3].




Số hóa bởi trung tâm học liệu

17
1.2. Hiện trạng sản xuất lúa lai trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Sản xuất lúa lai trên thế giới
Lúa là cây tự thụ phấn, việc nghiên cứu và khai thác cường lực giống
lai trên cây lúa được Viên Long Bình (Yuan Longping), nhà khoa học Trung
Quốc, được xem là cha đẻ của lúa lai, nghiên cứu và áp dụng thành công trên
diện rộng đầu tiên trên thế giới.
Các nhà khoa học Trung Quốc tạo ra giống lúa lai đầu tiên năm 1974.
Ngoài cái nôi là Trung Quốc, lúa lai cũng đã mở rộng ra các nước trồng lúa
châu Á khác như Ấn Độ, Philipines, Bangladesh, Myanmar, Indonesia, Ai
Cập và Việt Nam, nhờ sự giúp đỡ của tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
Quốc tế FAO (Food and Agricuture Organization), Viện Nghiên cứu Lúa gạo
Quốc tế IRRI (International Rice Research Institute), Chương trình Phát triển
của Liên Hiệp Quốc UNDP (United Nations Development Programme) và
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB - Asian Development Bank). Trong
những năm 2001 - 2002 diện tích trồng lúa lai của các nước trên khoảng
800.000 ha (Dat Tran, 2004); năm 2006 chỉ tính riêng diện tích lúa lai của
Việt Nam và Bangladesh đã đạt 786.429 ha [16].
1.2.2. Sản xuất lúa lai ở Việt Nam
Việt Nam bắt đầu nghiên cứu lúa ưu thế lai vào năm 1983. Lúa lai
thương phẩm được gieo trồng tại Việt Nam từ những năm 1991 [4]. Lúa lai đã
thể hiện được ưu thế về tiềm năng năng suất, chịu thâm canh và khả năng

chống chịu sâu bệnh. Diện tích lúa lai tăng lên nhanh chóng từ 59 ha năm
1991 lên 584.000 ha năm 2006. Kỷ lục diện tích lúa lai đạt được 775.000 ha
vào năm 2010. Động lực thúc đẩy phát triển lúa lai với tốc độ nhanh là sự kết
hợp của ba yếu tố: tiềm năng UTL cao về năng suất, sự quan tâm của lãnh đạo
và chính sách hợp lý của Nhà nước.

×