Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Thiết kế thử nghiệm cơ bản cho chu trình bán hàng năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.09 KB, 52 trang )

Tiểu luận kiểm toán
DANH SÁCH NHÓM
Nhóm SV thực hiện
Tiểu luận kiểm toán
MỤC LỤC
Nhóm SV thực hiện
Tiểu luận kiểm toán
LỜI MỞ ĐẦU
.Dịch vụ kiểm toán BCTC là một phần cơ bản tập trung nhiều công sức,
chi phí đối với công ty kiểm toán, nhưng thông qua chất lượng của dịch vụ này,
trình độ chuyên môn của các kiểm toán viên (KTV) và uy tín nghề nghiệp của
các công ty được nâng cao, từ đó nâng cao vị thế của họ trên thị trường. Kiểm
toán BCTC bao gồm việc kiểm toán rất nhiều các chu trình khác nhau nhưng lại
có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Chu trình bán hàng thu tiền là giai đoạn cuối cùng trong một chu trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh hiệu quả của toàn bộ quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Kết quả
của giai đoạn này thể hiện trên BCTC là những chỉ tiêu quan trọng của doanh
nghiệp thu hút sự quan tâm của nhiều người sử dụng thông tin BCTC. Chính vì
vây, kiểm toán chu trình bán hàng- thu tiền có ý nghĩa rất lớn trong kiểm toán
BCTC của các công ty kiểm toán, giúp KTV hạn chế được rủi ro xảy ra, nâng
cao hiệu quả cuộc kiểm toán đồng thời trách nhiệm của những người quan tâm.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, nên nhóm em chọn đề tài “ Thiết kế
thử nghiệm cơ bản cho chu trình bán hàng” . Nội dung chủ yếu của bài gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chu trình kiểm toán bán hàng và thu thu tiền
Chương 2: Thực trạng kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong
kiểm toán báo cáo tài chính
Chương 3: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện kiểm toán chu trình bán
hàng và thu tiền trong kiểm toán Báo cáo tài chính
Nhóm SV thực hiện Trang : 3


Tiểu luận kiểm toán
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHU TRÌNH KIỂM TOÁN
BÁN HÀNG VÀ THU THU TIỀN
1.1. Ý NGHĨA KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN
ý nghÜa: Đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất, quá trình sản xuất kinh
doanh biểu hiện sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Quá trình này bao
gồm các hoạt động nối tiếp liên tục thành vòng tròn tuần hoàn, lặp đi lặp lại tạo
nên chu kỳ sản xuất. Theo cách nhìn của các nhà quản lý trên góc độ tài chính,
quá trình này bao gồm rất nhiều các chu trình nghiệp vụ cụ thể, mỗi chu trình
nghiệp vụ lại được cấu thành bởi tập hợp những nghiệp vụ kinh tế có liên quan
chặt chẽ với nhau. Trước hết, doanh nghiệp huy động các nguồn vốn có thể có
trên cơ sở tự có, vay mượn trả lãi (chu trình huy động- hoàn trả vốn), các nguồn
này được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ như tiền mặt, tiền gửi, các khoản tương
đương tiền (chu trình vốn bằng tiền). Nguồn vốn bằng tiền đó được dùng để mua
sắm tư liệu sản xuất, các hàng hoá, dịch vụ (chu trình mua hàng- thanh toán) và
thuê nhân công (chu trình tiền lương- nhân viên) để tiến hành sản xuất và tích
trữ sản phẩm hàng hoá (chu trình hàng tồn kho). Kết thúc một chu kỳ kinh
doanh là chu trình bán hàng- thu tiền.
Như vậy, chu trình bán hàng- thu tiền được coi là chu trình cuối cùng, nó
không chỉ đánh giá hiệu quả của chu trình trước đó và hiệu quả của toàn bộ quá
trình sản xuất kinh doanh và khả năng bù đắp chi phí để tiếp tục mở rộng quy
mô sản xuất. Một chu trình nghiệp vụ bán hàng- thu tiền hiệu quả có nghĩa là
vốn được huy động đúng mức tạo tiền đề cho sản xuất và cho các chu trình tiếp
theo được thực hiện một cách có hợp lý.
1.2. Hệ thống các mục tiêu kiểm toán
Kiểm toán bao gồm có 2 chức năng cơ bản trong đó có chức năng xác
minh và theo thông lệ quốc tế phổ biến thì chức năng xác minh được cụ thể hoá
thành các mục tiêu và tuỳ thuộc vào đối tượng hay các loại hình kiểm toán mà
các mục tiêu có thể khác nhau.

Nhóm SV thực hiện Trang : 4
Tiểu luận kiểm toán
Còn theo văn bản chuẩn mực kiểm toán 1 thì “ Mục tiêu của cuộc kiểm
tra bình thường các báo cáo tài chính của các kiểm toán viên là sự trình bày một
nhận xét về mức trung thực mà các báo cáo phản ánh tình hình tài chính, các kết
quả độc lập và sự lưu chuyển dòng tiền mặt theo các nguyên tắc kế toán đã được
thừa nhận ”. Đối với bất kỳ một cuộc kiểm toán nào các mục tiêu đặt ra giúp
kiểm toán viên tập hợp đầy đủ bằng chứng cần thiết. Các mục tiêu đặt ra này có
liên quan chặt chẽ đến việc xác nhận của doanh nghiệp mà cụ thể là ban quản trị
về các tiêu chuẩn của đặc tính thông tin đã trình bày trên báo cáo tài chính.
Thông thường các bước triển khai mục tiêu kiểm toán như sau.
Biểu 1: Các bước triển khai mục tiêu kiểm toán


Qua các bước trên ta thấy việc xác nhận của ban quản trị về các chu trình
nói chung và chu trình bán hàng - thu tiền nói riêng là rất quan trọng để thiết kế
nên các mục tiêu kiểm toán. Từ việc xác nhận của ban quản trị mà chúng ta đi từ
mục tiêu kiểm toán chung đến các mục tiêu đặc thù của từng chu trình.
Các mục tiêu chung áp dụng cho toàn bộ báo cáo tài chính của một cuộc
kiểm toán tài chính như sau:
Xác minh về tính hiệu lực.
Nhóm SV thực hiện Trang : 5
Các báo cáo tài chính
Các bộ phận cấu thành của báo
cáo tài chính
Xác nhận của ban quản trị về chu
trình bán hàng thu tiền và các
chu trình khác
Các mục tiêu kiểm toán chung
đối với các chu trình kiểm toán.

Các mục tiêu kiểm toán đặc
thù đối với các chu trình kiểm
toán.
Tiểu luận kiểm toán
Xác minh về tính trọn vẹn.
Xác minh về việc phân loại và trình bày.
Xác minh về nguyên tắc tính giá.
Xác minh về quyền và nghĩa vụ.
Xác minh về tính chính xác, máy móc.
Từ những mục tiêu chung của kiểm toán bảng khai tài chính đó ta có các
mục tiêu đặc thù cho chu trình bán hàng và thu tiền như sau:
Xác nhận về sự hiện hữu ( tính có thật): Doanh thu trên báo cáo kết quả
kinh doanh phản ánh những quá trình về trao đổi hàng hoá và dịch vụ thực tế đã
xảy ra, các khoản phải thu là có thực được lập vào ngày lập bảng cân đối kế
toán.
Xác nhận về tính đầy đủ ( tính trọn vẹn): Doanh thu về hàng hoá và dịch
vụ đã bán, các khoản thu bằng tiền và các khoản phải thu đã được ghi sổ và đưa
vào báo cáo tài chính.
Xác nhận về quyền sở hữu: Hàng hoá và các khoản phải thu của doanh
nghiệp tại ngày lập bảng cân đối tài sản đều thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp.
Xác nhận về sự đánh giá và phân loại: Doanh thu và các khoản phải thu
được phân loại đúng bản chất kinh tế và được đánh giá theo các chuẩn mực kế
toán và các quy định về tài chính.
Xác nhận về sự trình bày: Doanh thu và các khoản phải thu được trình
bày trung thực và đúng đắn trên tài khoản cũng như trên các báo cáo tài chính
theo đúng chế độ kế toán của doanh nghiệp và theo các quy định kế toán hiện
hành.
Xác nhận về sự tính toán chính xác: Các khoản giảm giá, chiết khấu,
hàng bán bị trả lại, các phép tính cộng dồn, nhân, chia được tính toán đúng đắn

và chính xác.
Xác nhận về tính đúng kỳ: Cụ thể doanh thu và các khoản phải thu phải
được ghi chép đúng kỳ, không được ghi giảm doanh thu kỳ này, ghi tăng doanh
thu kỳ sau và ngược lại.
Nhóm SV thực hiện Trang : 6
Tiểu luận kiểm toán
Tóm lại : Đối với mỗi một chu trình kiểm toán có các mục tiêu đặc thù
riêng và chu trình Bán hàng - Thu tiền cũng có các mục tiêu riêng biệt. Tuy
nhiên với mỗi một cuộc kiểm toán cụ thể thì mục tiêu riêng của chu trình Bán
hàng Thu tiền là khác nhau. Vì vậy căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà kiểm
toán viên xác định các mục tiêu kiểm toán cụ thể.
1.3. Các chứng từ, sổ sách sử dụng trong quá trình kiểm toán
1.3.1. Các chứng từ được sử dụng trong quá trình kiểm toán
- Báo cáo kết quả kinh doanh của năm trước và năm nay
- Các đơn đặt hàng của khách (Đây là cơ sở pháp lý cho việc ràng buộc
trách nhiệm cho các bên tham gia hợp đồng)
- Hợp đồng đã ký kết về bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ
- Hoá đơn bán hàng, hoá đơn kiêm phiếu xuất kho.
- Các bản quyết toán, thanh lý hợp đồng bán hàng.
- Các chứng từ phiếu thu tiền mặt hoặc séc, giấy báo nợ, các bản sao kê
của ngân hàng.
- Các hợp đồng khế ước, tín dụng.
- Các chứng từ, các hợp đồng vận chuyển thành phẩm hay hàng hoá
1.3.2. Các sổ sách sử dụng trong quá trình kiểm toán
Nếu doanh nghiệp áp dụng hình thức sổ nhật ký chung trong kỳ để hạch
toán kế toán thì hệ thống sổ bao gồm:
Sổ Nhật ký chung.
Sổ Nhật ký thu tiền.
Sổ cái.
Sổ chi tiết các khách hàng phải thu.

Sổ chi tiết doanh thu bán hàng.
Sổ chi tiết thuế VAT đầu ra.
1.4. Chức năng của chu trình bán hàng thu tiền
Bán hàng- thu tiền là quá trình chuyển quyền sở hữu của hàng hoá, quá
trình trao đổi hàng tiền và kết thúc bằng việc chuyển đổi hàng hoá thành tiền.
Hàng hoá và tiền tệ ở đây được xác định theo bản chất kinh tế của chúng. Hàng
Nhóm SV thực hiện Trang : 7
Tiểu luận kiểm toán
hoá là những tài sản hay dịch vụ chứa đựng và có thể bán được. Tiền tệ là
phương thức thanh toán nhờ đó mà mọi quan hệ giao dịch thanh toán được giải
quyết tức thời.
Bán hàng là một quá trình có mục đích thống nhất song phương thức thực
hiện mục đích này rất đa dạng. Mỗi loại hình doanh nghiệp có cơ cấu chức năng
và chứng từ về bán hàng, thu tiền có đặc điểm khác nhau. Song, chung nhất chu
trình bán hàng- thu tiền đều bao gồm các chức năng chính sau:
Xử lý đơn đặt hàng
Công việc này thường được thực hiện bởi bộ phận bán hàng. Về mặt pháp
lí đơn đưa đặt hàng là một lời đề nghị mua hàng hay cung cấp dịch vụ theo một
phương thức cụ thể. Đơn đặt hàng cần phải được kiểm tra tính có thực, kiểm tra
các điều kiện và khả năng đáp ứng như: giá bán, số lượng, ngày giao hàng, địa
điểm giao hàng cũng như phương thức thanh toán.
Kiểm soát tín dụng và phê chuẩn phương thức bán hàng
Trước khi hàng hoá được chuyển đi thì người có đủ thẩm quyền (trưởng
phòng kinh doanh, giám đốc tiêu thụ, bộ phận kiểm soát tín dụng) phải xem xét
khả năng thanh toán của khách hàng rồi mới phê chuẩn phương thức bán hàng
trả chậm và phương thức thanh toán để hạn chế đến mức tối đa các khoản nợ
khó đòi phát sinh sau này. Thông thường với mỗi khách hàng thường xuyên
thường có hồ sơ theo dõi riêng về khả năng thanh toán để xác định một mực tín
dụng hạn mức cho phép, nếu vượt quá mức giới hạn đó thì không được chấp
nhận. Đối với khách hàng mới thì bộ phận tín dụng hoặc người giám sát tín dụng

của phòng bán hàng phải có trách nhiệm tìm hiểu và xác định giới hạn tín dụng
để lưu vào hồ sơ khách hàng.
Vận chuyển thành phẩm và hàng hoá
Chức năng vận chuyển thành phẩm, hàng hoá phản ánh tài sản của doanh
nghiệp được chuyển cho khách hàng và quyền sở hữu Tài sản được chuyển cho
khách hàng. Nó là công cụ để ghi nhận Doanh thu bán hàng của doanh nghiệp.
Chứng từ vận chuyển được lập tại thời điểm hàng hoá thành phẩm xuất ra khỏi
doanh nghiệp và phải phù hợp với số lượng sản xuất thực tế.
Nhóm SV thực hiện Trang : 8
Tiểu luận kiểm toán
Gửi hoá đơn và ghi sổ doanh thu
Chức năng này do bộ phận kế toán thực hiện. Khi thực hiện các nghiệp vụ
bán hàng cần đảm bảo rằng tất cả các đợt giao hàng đều phải được lập hoá đơn
và chỉ được lập hoá đơn đối với các nghiệp vụ giao hàng thực sự xảy ra. Nghiệp
vụ giao hàng phải được lập hoá đơn theo giá chuẩn được phê duyệt. Số tiền ghi
trên hoá đơn phải được tính toán chính xác, các hoá đơn bán hàng phải được ghi
sổ doanh thu đúng thời điểm mà nghiệp vụ đó phát sinh.
Xử lí ghi sổ các khoản phải thu
Tiền mặt phải được ghi vào sổ Nhật kí thu tiền, còn các khoản phải thu từ
khách hàng thì theo dõi trên sổ chi tiết theo dõi các khoản phải thu theo đúng số
tiền và đúng thời kì.
Xử lí các khoản giảm trừ doanh thu
Các khoản giảm giá hàng bán hoặc hàng bán bị trả lại phải được phê
chuẩn bởi người có thẩm quyền trước khi chính thức ghi sổ và phải ghi sổ kịp
thời, đầy đủ.
Thẩm định và xóa sổ các khoản phải thu nhưng không thu được
Công việc này thực hiện trong trường hợp khách hàng không có khả năng
thanh toán. Việc xoá sổ phải được thực hiện theo đúng quy định vè chế độ tài
chính kế toán hiện hành.
Lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi

Để đảm bảo nguyên tắc thận trọng trong kinh doanh, trước khi khoá sổ tài
khoản và chuẩn bị lập BCTC, doanh nghiệp phải tiến hành đánh giá các khoản
phải thu có khả năng không thu hồi được, lập dự phòng các khoản này và đưa
vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Lập dự phòng các khoản phải thu khó
đòi nhằm mục đích đề phòng những tổn thất khi có rủi ro xảy ra, hạn chế những
đột biến về kết quả kinh doanh của một kỳ kế toán.
Với những chức năng trên, mỗi bộ phận trong doanh nghiệp sẽ đảm nhận
từng phần việc cụ thể. Thông qua việc phân chia nhiệm vụ, người quản lí doanh
nghiệp có thể nắm bắt được các thông tin về nghiệp vụ bán hàng.
Nhóm SV thực hiện Trang : 9
Tiểu luận kiểm toán
Vì thế với các nhiệm vụ xác minh và bày tỏ ý kiến về các thông tin tài
chính nói chung và các thông tin về chu trình bán hàng- thu tiền nói riêng thì
KTV không thể không xem xét những đặc điểm cơ bản của chu trình và ảnh
hưởng của nó tới việc lập kế hoạch và sử dụng các kỹ thuật kiểm toán sao cho
cú hiệu quả.
1.5. Thử nghiệm kiểm soát đối với chu trình bán hàng và thu tiền trong
kiểm toán BCTC
1.5.1.Thử nghiệm kiểm soát đối với nghiệp vụ bán hàng
+ Đối với mục tiêu các khoản bán hàng đã được ghi sổ có hiệu lực KTV
thực hiện thủ tục:“ Chọn một dãy liên tục các hoá đơn bán hàng đối chiếu khoản
bán hàng đã ghi sổ từng hoá đơn và xem xét các chứng từ bán hàng đi kèm”
KTV thực hiện xác minh tính có thật của các thông tin bằng phương pháp đối
chiếu (overstatement và understatement).
+ Đối với mục tiêu các nghiệp vụ bán hàng đã được phê chuẩn hoặc cho
phép thì KTV thực hiện thủ tục: “Xem xét bảng kê hoặc sổ chi tiết về bán hàng,
thu tiền đối với từng người mua sau đó đối chiếu với hợp đồng mua bán, lệnh
vận chuyển hoặc hoá đơn vận chuyển và các chứng từ phê chuẩn việc xuất kho
hàng hoá theo phương thức bán hàng”
Ngoài ra, đối chiếu các chứng từ đã được duyệt với quyền hạn và chức

trách của người duyệt.
+ Đối với mục tiêu mọi nghiệp vụ bán hàng đều đã được ghi số, KTV
thực hiện thủ tục:“Chọn một dãy các hoá đơn vận chuyển hoặc các hoá đơn bán
hàng và đối chiếu các hoá đơn đó vào nhật ký bán hàng, nhật ký thu tiền và các
sổ kế toán tương ứng”
+ Đối với mục tiêu số hàng bán đã được định giá đúng thì KTV thực hiện
thủ tục đối chiếu số tiền ghi trên hoá đơn với bảng giá qui định hoặc với hợp
đồng kinh tế.
+ Đối với mục tiêu các nghiệp vụ bán hàng đã được phân loại đúng đắn
KTV thực hiện đầy đủ thủ tục:“Đối chiếu chứng từ giữa các quan hệ đối ứng
Nhóm SV thực hiện Trang : 10
Tiểu luận kiểm toán
trong tài khoản để khẳng định tính đúng đắn trong phân loại các nghiệp vụ theo
nội dung kinh tế vào tài khoản liên quan”
+ Đối với mục tiêu nghiệp vụ bán hàng được ghi sổ kip thời KTV thực
hiện thủ tục:“Xem xét các chứng từ vận chuyển chưa lập hoá đơn để tìm ra các
khoản lập hoá đơn nhưng chưa được ghi sổ”.
Đối với mục tiêu các nghiệp vụ bán hàng được ghi sổ và được ghi một
cách chính xác. KTV tiến hành đối chiếu các nghiệp vụ bán hàng từ sổ nhật ký
bán hàng vào sổ chi tiết các khoản doanh thu các khoản phải thu của khách
hàng. Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản thuế đầu ra. Bên cạnh đó, KTV
cũng tiến hành cộng dồn các con số trên sổ chi tiết và đối chiếu Nhật ký bán
hàng và sổ cái.
1.5.2. Thử nghiệm kiểm soát đối với nghiệp vụ thu tiền
+ Đối với mục tiêu các khoản tiền thu vào được ghi sổ đầy đủ, KTV cần
thực hiện:
Kiểm tra, quan sát sự cách ly trách nhiệm giữa người giữ tiền và ghi sổ.
Kiểm toán tính liên tục trên các giấy báo nhận tiền phiếu thu hoặc bảng kê
tiền mặt có đánh số trước.
Rà soát quan hệ giữa séc thanh toán và bảng kê.

+ Các khoản thu tiền được ghi sổ thực tế đã nhận (tính hiệu lực). KTV
tiến hành kiểm tra việc cách ly trách nhiệm giữa người ghi sổ và người giữ tiền,
tiến hành đối chiếu từ sổ sách kế toán xuống chứng từ gốc.
+ Các khoản chiết khấu đã được phê duyệt đúng đắn, phiếu thu được đối
chiếu và phê duyệt tính được phép: KTV tiến hành xem xét các chính sách tín
dụng bán hàng, thu tiền. KTV tiến hành kiểm tra các giấy báo nhận tiền trước
hạn và xem xét trình tự lập phiếu thu tiền.
+ Các khoản thu tiền đã ghi sổ và đã nộp phù hợp với chính sách giá bán
đã quy định. KTV tiến hành kiểm tra việc hạch toán chi tiết, đối chiếu số tiền
thu được với sổ chi tiết tài khoản 112, 111 và đối chiếu với chính sách giá bán
+ Các khoản phải thu đều được phân loại. KTV kiểm tra việc hạch toán
các khoản phải thu và quan hệ đối ứng và xem xét dấu hiệu của KSNB
Nhóm SV thực hiện Trang : 11
Tiểu luận kiểm toán
+ Các khoản phải thu ghi đúng thời gian (tính kịp thời): KTV tiến hành
quan sát việc ghi theo chế độ và xem xét dấu hiệu của KSNB về việc thu tiền.
+ Các khoản thu tiền ghi đúng vào sổ quỹ, sổ cái và được tổng hợp đúng
(Mục tiêu chính xác cơ học): KTV tiến hành xem xét việc phân cách các nhiệm
vụ giữa người giữ sổ quỹ và người giữ sổ thanh toán. Xem xét các bảng cân đối
thu tiền và dấu hiệu của KSNB.
+ Đối với mục tiêu về tính được phép, KTV thực hiện việc xem xét quy
chế thu tiền hàng, trao đổi với Giám đốc phụ trách tài chính hoặc kinh doanh,
xem xét giấy báo nhận tiền trước hạn và khảo sát trình tự lập phiếu thu.
1.5.3.Thử nghiệm cơ bản đối với chu trình bán hàng- thu tiền trong kiểm
toán BCTC
1.5.3.1. Phân tích đánh giá tổng quát
Khâu phân tích đánh giá tổng quát thường thực hiện các bước sau:
+ So sánh doanh thu bán hàng từng loại của hàng hoá hoặc dịch vụ giữa
kỳ này với kỳ trước.
+ So sánh tỷ lệ lãi gộp của năm nay và năm trước

+ Thu thập những bằng chứng để đánh giá, so sánh tỷ lệ doanh thu hàng
bán bị trả lại, các khoản chiết khấu giảm giá trên tổng doanh thu của kỳ này với
kỳ trước
+ So sánh số dư cá biệt của các khách hàng với giá trị lớn giữa các kỳ để
phát hiện doanh thu và các khoản phải thu bị khai khống
+ So sánh tỷ lệ chi phí lập dự phòng nợ phải thu khó đòi trên tổng doanh
thu hoặc trên tổng các khoản phải thu giữa kỳ này với các kỳ trước.
+ Đối chiếu các khoản phải thu lớn chưa thanh toán hoặc các khoản phải
thu đến hạn hoặc quá hạn mà chưa thanh toán giữa các kỳ kế toán.
Ngoài ra, KTV còn xem xét mối quan hệ của các thông tin phi tài chính
khác.
1.5.3.2. Thử nghiệm cơ bản đối với nghiệp vụ bán hàng
Nhóm SV thực hiện Trang : 12
Tiểu luận kiểm toán
Việc kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ bán hàng được tiến hành trên cơ sở
kết quả việc đánh giá hệ thống KSNB và việc phân tích đối với nghiệp vụ bán
hàng (chỉ thực hiện khi phát hiện những yếu kém về KSNB trong khâu bán
hàng).
Việc lựa chọn các thử nghiệm cơ bản đòi hỏi KTV phải có kinh nghiệm
và khả năng phán đoán tốt.
1.5.3.3. Các khoản bán hàng đã ghi sổ đều có thực
Nhìn chung, việc ghi sổ các khoản bán hàng vô thực thường ít xảy ra vì
đó là các căn cứ để tính thuế. Tuy nhiên, tình huống đó vẫn có thể xảy ra khi có
những thay đổi trong chính sách thuế nói chung hay mức thuế suet nói riêng
giữa các kỳ kinh doanh. Hơn nữa, doanh thu hay thu nhập không chỉ xem là căn
cứ tính thuế mà có thể là cơ sở xem xét bổ sung vốn lưu động, vay vốn hoặc thu
hút thêm vốn. Vì vậy, với mục tiêu này có thể chú ý tới những sai phạm theo
hướng sau:
+ Sai sót do sơ xuất hoặc do hạn chế khác của người ghi sổ chưa được
phát hiện, điều chỉnh hết qua KSNB.

+ Cố ý ghi nghiệp vụ bán hàng không nhất quán với kỳ quyết toán.
+ Có khoản bán hàng đã ghi vào Nhật ký nhưng thực tế chưa vận chuyển.
+ Vận chuyển cho người mua “ma” vẫn được ghi như khoản bán hàng
Với xu hướng chung và những đặc thù riêng trong từng cuộc kiểm toán,
thử nghiệm cơ bản cho những nghiệp vụ vô thực theo ý nghĩa trên tuỳ theo khả
năng có sai sót và gian lận. Trong trường hợp thông thường thử nghiệm này chỉ
thực hiện khi phát hiện những yếu kém về KSNB trong khâu bán hàng.
1.5.3.4. Các nghiệp vụ bán hàng được phê chuẩn đúng đắn
Mục tiêu được phép trong bán hàng thường liên quan trực tiếp đến quyết
định về bán chịu, về vận chuyển và giá cả. Thử nghiệm cơ bản chính là việc rà
soát các quyết định về chính sách chung cùng những thay đổi cụ thể trong từng
thương vụ. Các thử nghiệm này có quan hệ và tác động tích cực đến việc triển
khai các mục tiêu khác có liên quan đặc biệt là thử nghiệm về định giá. Thử
Nhóm SV thực hiện Trang : 13
Tiểu luận kiểm toán
nghiệm về định giá là so sánh giá thực tế của hàng bán bao gồm cả phí vận
chuyển, khoản bớt giá đã được duyệt.
1.5.3.5. Các nghiệp vụ bán hàng được ghi sổ đầy đủ
Trong một số các trường hợp, các doanh nghiệp, hoặc các chính sách tài
chính của doanh nghiệp thường có 2 xu hướng: một là xu hướng khai tăng, hai
là xu hướng dấu diếm doanh thu. Thông thường, thì xu hướng thứ nhất xảy ra
nhiều hơn vì nó liên quan đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy
nhiên, không loại trừ các trường hợp tạo “lỗ giả”, có xu hướng giấu diếm hoặc
không phản ánh đầy đủ doanh thu bán hàng theo đó, KTV có thể kiểm tra chi
tiết nếu:
Kết quả của thử nghiệm kiểm soát cho thấy KSNB của doanh nghiệp
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các thủ tục kiểm soát đối với việc
phản ánh các khoản bán hàng trong năm.
Thủ tục thực hiện: để khẳng định có nghiệp vụ bỏ sót thì các hướng chủ
đạo trong kiểm toán nghiệp vụ bán hàng là soát xét lại chứng từ theo 1 dãy số

liên tục đặt biệt ở các thời điểm đầu kỳ kế toán sau trên cơ sở thực hiện đối chiế
giữa 3 loại sổ sách:
+ Chứng từ vận chuyển
+ Hoá đơn bán hàng
+ Nhật ký bán hàng (Nhật ký thu tiền và sổ hạch toán chi tiết các
khoản phải thu).
1.5.3.6. Các khoản bán hàng ghi sổ đã được định giá đúng
Việc định giá đúng các nghiệp vụ bán hàng có liên quan với việc duyệt
bán, vận chuyển hàng hóa, việc lập hoá đơn đúng đắn cho số hàng được vận
chuyển và việc ghi đúng số tiền đã lập hoá đơn vào sổ kế toán. Thử nghiệm cơ
bản là khẳng định mức tin cậy của việc định giá qua mỗi công việc cụ thể trên
và xác minh lại thông tin trên sổ sách kế toán. Thông thường bắt đầu từ việc rà
soát các bút toán trong Nhật ký bán hàng đến so sánh số cộng của các nghiệp vụ
đã chọn ra với sổ phụ theo dõi thu và liên thứ hai của hoá đơn bán hàng. Và giá
Nhóm SV thực hiện Trang : 14
Tiểu luận kiểm toán
cả trên liên thứ hai thường được đối chiếu với bảng giá đã được phê duyệt, chế
độ bán hàng và việc phê chuẩn các yếu tố đó.
Hiệu quả của cuộc kiểm toán phụ thuộc vào tính trọng điểm của các thử
nghiệm này.
1.5.3.7. Các nghiệp vụ bán hàng được phân loại thích hợp
Đối với nghiệp vụ bán hàng, phân loại đúng các nghiệp vụ vào các tài
khoản, tiểu khoản thích hợp thường không phát sinh những vấn đề phức tạp như
nhiều loại nghiệp vụ khác. Tuy nhiên, những nghiệp vụ liên quan trực tiếp đến
các khoản thu tiền mặt hoặc đến những mặt hàng tương tự nhưng giá cả khác
nhau hoặc các nghiệp vụ bán tài sản hoạt động không thuộc hàng hoá thường có
nhiều khả năng tiềm ẩn trong việc vi phạm mục tiêu phân loại. Việc kiểm tra
quá trình phân loại các nghiệp vụ bán hàng thường được gắn liền quá trình kiểm
tra định giá và đánh giá.
Thông qua nhật ký bán hàng, nhật ký thu tiền, sổ hạch toán chi tiết các

khoản phải thu và hoá đơn bán hàng.
1.5.3.8. Các khoản bán hàng được ghi sổ kịp thời
Để ngăn ngừa việc bỏ sót các nghiệp vụ, việc ghi sổ các nghiệp vụ
bán hàng được thực hiện theo nguyên tắc cập nhật. Vì vậy, đồng thời với việc
kiểm toán theo mục tiêu định giá, mục tiêu trọn vẹn, cần đối chiếu ngày ghi trên
các chứng từ vận chuyển đã chọn với ngày ghi trên hoá đơn bán hàng, nhật ký
bán hàng, sổ quỹ. Những chênh lệch lớn về thời gian ghi sổ có thể chứa đựng
khả năng gian lận trong sử dụng tiền bán hàng hoặc kê khai hàng hoá hay doanh
1.5.3.9. Các nghiệp vụ bán hàng được ghi đúng vào sổ thu tiền và cộng dồn
chính xác
Ghi sổ đúng tất cả nghiệp vụ bán hàng vào sổ quỹ và các sổ theo dõi thu
tiền có thể là đòi hỏi chính xác cơ học của việc chuyển sổ, phản ánh tương quan
giữa bán hàng với thu tiền, quan hệ giữa hàng- tiền đã thu và còn phải thu, đặc
biệt với các khoản tồn đọng.
Nhóm SV thực hiện Trang : 15
Tiểu luận kiểm toán
Tương tự như vậy, tất cả các nghiệp vụ bán hàng phải được cộng sổ,
chuyển sổ chính xác tuyệt đối về mặt số học. Việc đối chiếu sổ nhật ký bán hàng
với các sổ phụ theo dõi thu tiền thường được thực hiện kết hợp với các mục tiêu
khác nhưng việc cộng lại nhật ký và đố chiếu với sổ cái là một thủ tục riêng biệt
của mục tiêu này.
Thử nghiệm cơ bản đối với nghiệp vụ thu tiền
Cách thức và trình tự kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ thu tiền cũng tương
tự như cách thức và trình tự kiểm tra đối với các nghiệp vụ bán hàng cụ thể
tương ứng với mỗi mục tiêu kiểm toán thì cần có những công việc KSNB chủ
yếu và theo đó KTV thực hiện thử nghiệm kiểm soát để đánh giá hệ thống
KSNB và căn cứ vào kết quả thử nghiệm kiểm soát KTV thực hiện kiểm tra chi
tiết.
Công việc trọng tâm ở đây là việc định dạng những yếu kém trong hệ
thống KSNB làm tăng khả năng gian lận trong thu tiền. Do đó, những trình tự

chủ yếu thường được áp dụng vào việc xác định khả năng bỏ sót các khoản thu
tiền trong phương thức thanh toán trực tiếp, phương thức thanh toán qua ngân
hàng, các khoản thanh toán kéo dài, và các khoản không thu được tiền hàng.
Trong phương thức thu tiền mặt trực tiếp rất khó phát hiện các khoản tiền
mặt bị biển thủ trước khi ghi sổ và biện pháp tốt nhất để phát hiện các sai phạm
đó là dựa vào hệ thống KSNB của doanh nghiệp. Theo đó, KSNB phải phân tích
giữa người ghi sổ và người thu tiền. Trong trường hợp việc phân ly trách nhiệm
không được thực hiện thì KTV phải kiểm kê tiền mặt thu được và kiểm kê hàng
hoá hoặc lấy xác nhận của người mua hàng.
Thủ tục KSNB hữu hiệu với các khoản thu tiền bán hàng là quy định rõ
việc chuyển tiền thu trực tiếp tại công ty vào tài khoản ngân hàng. Theo đó, trình
tự kiểm toán cũng đặt ra cả việc đầy đủ các khoản thu này vào ngân hàng. Khi
đó, thử nghiệm cơ bản có thể bắt đầu từ việc đối chiếu tổng số đã thu được và
ghi vào nhật ký thu tiền, vào sổ quỹ trong một kỳ nhất định với số thực tế nộp
vào ngân hàng trong cùng kỳ đó. Trình tự này không phát hiện được khoản thu
không ghi sổ hoặc chuyển vào ngân hàng không kịp thời nhưng có thể khám phá
Nhóm SV thực hiện Trang : 16
Tiểu luận kiểm toán
ra những khoản tiền thu không nộp, hoặc các khoản nộp không vào sổ và những
sai phạm tương tự.
Trong phương thức thanh toán qua ngân hàng cùng các khoản thu trực
tiếp nộp vào ngân hàng cần chú ý tới các giấy báo của ngân hàng. Kế toán giao
dịch vào ngân hàng cần đính kèm chứng từ minh chứng cho nghiệp vụ đó vào
giấy báo. Sau đó, cần phân loại giấy báo theo từng ngân hàng giao dịch và sắp
xếp giấy báo theo số thứ tự liên tục ghi giấy báo.
Trên cơ sở đó, thực hiện các phép đối chiếu giữa số phát sinh trên giấy báo với
chứng từ gốc đính kèm, giữa các số thứ tự liên tục của các giấy báo, giữa số dư
đầu kỳ của giấy báo với số dư cuối kỳ của giấy báo trước liền đó, giữa số dư của
giấy báo cuối kỳ với số dư của tài khoản trên sổ cái. Theo đó, việc kiểm tra chi
tiết được thực hiện như sau:

+ Mục tiêu về tính hiệu lực: đối với mục tiêu kiểm toán các khoản thu tiền
thực tế đã nhận, đã ghi sổ KTV kiểm tra nhật ký thu tiền, sổ chi tiết các khoản
phải thu đối với các nghiệp vụ thu tiền có quy mô lớn hoặc bất thường đối chiếu
các khoản thu tiền đã ghi sổ với phiếu thu hoặc giấy báo nợ của ngân hàng.
+ Mục tiêu về tính trọn vẹn: đối với mục tiêu tiền mặt thu được đã ghi vào
sổ quỹ và các nhật ký thu tiền KTV tiến hành đối chiếu giấy báo nhận tiền hoặc
bảng kê tiền nhận được. Các khoản mục đã ghi vào nhật ký thu tiền, đối với tiền
gửi ngân hàng thì đối chiếu giấy báo ngân hàng với sổ sách tương ứng của Công
ty.
+ Mục tiêu về định giá: đối với mục tiêu các khoản tiền thu được đã ghi
sổ và đã nộp đều đúng giá hàng bán thì KTV thực hiện soát xét các chứng từ về
thu tiền đối chiếu các khoản phải thu với mức giá đã duyệt trên các chứng từ bán
hàng.
+ Mục tiêu phân loại: đối với mục tiêu các khoản thu tiền đều được phân
loại đúng thì KTV kiểm tra các chứng từ thu tiền và đối chiếu với thực tế phân
loại trên các tài khoản các cấp.
Nhóm SV thực hiện Trang : 17
Tiểu luận kiểm toán
+ Mục tiêu về tính kịp thời: đối với mục tiêu các khoản tiền thu được đều
phản ánh đúng tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ KTV chọn một chuỗi các
chứng từ và đối chiếu ngày vào sổ kế toán với ngày thực tế thu được tiền.
+ Mục tiêu tính chính xác cơ học: đối với mục tiêu các khoản thu tiền
được ghi đúng vào sổ quỹ, sổ cái và tổng hợp đúng. KTV tiến hành dễ dàng đối
chiếu các bút toán ở sổ quỹ với sổ theo dõi thanh toán tiền hàng với các báo cáo
thu tiền hoặc bảng kê tiền nhận được.
Ngoài ra, KTV tiến hành cộng các khoản phải thu trên tài khoản 131 và
cộng dồn lại sổ quỹ rồi đối chiếu với tài khoản 111.
Đặc điểm kiểm toán nợ phải thu khách hàng
Các khoản phải thu khách hàng phát sinh từ quá trình bán hàng nên có
quan hệ chặt chẽ với quá trình bán hàng- thu tiền. Tuy nhiên, do “độ trễ” của

quá trình thu tiền so với qúa trình bán hàng nên số tiền ghi trên khoản mục này
của bảng cân đối tài sản, cũng là số dư của các tài khoản phải thu khách hàng là
số luỹ kế từ các quá trình kinh doanh trước đến cuối kỳ kinh doanh này. Cùng
với thời điểm phát sinh, thời hạn thanh toán khác nhau, các khoản phải thu còn
liên quan đến nhiều khách hàng có đặc điểm, điều kiện kinh doanh, quản lý và
khả năng thanh toán khác nhau. Vì vậy, việc theo dõi, trình bày và thuyết minh
rõ các khoản phải thu là công việc được thực hiện thường xuyên của KSNB.
Để kiểm soát được các khoản phải thu và bảo đảm thu được tiền, các
công ty phải theo dõi, giám đốc thường xuyên trên các bảng kê, nhật ký, cuối kỳ
cần lập bảng cân đối giữa doanh thu với các khoản đã thu tiền và các khoản phải
thu còn lại, bảng cân đối giữa các khoản nợ quá hạn với các thời hạn khác nhau
nhằm bảo đảm hiệu quả kinh doanh.
Trong quá trình kiểm toán các khoản phải thu, phương pháp điều tra
thông qua chọn mẫu và lấy xác nhận các khoản phải thu quan trọng nhất theo
thông lệ cùng với việc kiểm kê tài sản là hai yêu cầu phổ biến nhất trong kiểm
toán và có thể coi là đặc thù riêng trong việc thực hiện các mục tiêu và thủ tục
kiểm toán các khoản phải thu.
Nhóm SV thực hiện Trang : 18
Tiểu luận kiểm toán
Xác nhận các khoản phải thu
Là thủ tục quan trọng nhất để đáp ứng các mục tiêu hiệu lực, định giá và
kịp thời. Các xác nhận này xác minh và phát hiện những sai phạm liên quan đến
những khoản thu không có thật, số tiền còn chưa rõ ràng hoặc đã trở thành các
khoản nợ khó đòi hay không đòi được. Đây là loại bằng chứng do bên thứ ba
ngoài đơn vị cung cấp do đó có độ tin cậy nhất định. Tuy nhiên, xác nhận này ít
có khả năng phát hiện hết các khoản bỏ sót do nó dựa vào bảng kê các khoản
phải thu. Khi áp dụng thủ tục xác nhận cho khoản phải thu, KTV phải quyết
định về loại xác nhận, ngày thực hiện, kích cỡ mẫu chọn và những khoản mục
phải chọn.
Về loại hình xác nhận có hai hình thức: xác nhận khẳng định và xác nhận

phủ định
Xác nhận khẳng định: (positive confirmation) đòi hỏi thông báo một cách
chắc chắn của khách hàng trên mọi giấy yêu cầu xác nhận về khoản nợ: hoặc
đúng, hoặc sai, hoặc có phần lưu ý.
Trong trường hợp này mọi giấy yêu cầu xác nhận của KTV đều được trả
lời.
Xác nhận phủ định: (negative confirmation) chỉ đòi hỏi thông báo của
khách hàng khi họ đồng tình với số tiền ghi trên giấy yêu cầu xác nhận và có
đính kèm báo cáo hàng tháng.
Với xác nhận khẳng định, khi chưa nhận được thông tin phản hồi thì
thường phải làm thêm những trình tự xác minh. Do đó, xác nhận này là bằng
chứng đáng tin cậy hơn xác nhận phủ định. Ngược lại, với xác nhận phủ định,
việc không trả lời cũng không coi là phủ định ngay cả khi khách hàng không
biết có yêu cầu xác nhận. Mặt khác, xác nhận phủ định có ít chi phí hơn nên với
chi phí như nhau có thể thực hiện nhiều xác nhận phủ định hơn.
Về thời gian (định ngày): giấy xác nhận được gửi đến người mua để trắc
nghiệm số dư của các tài khoản phải thu ghi trên bảng cân đối tài sản. Do đó,
ngày gửi giấy xác nhận cần gần với ngày lập bảng. Tuy nhiên, trong trường hợp
thời gian thực hiện kiểm toán gấp thì phải gửi trước lập bảng. Trong trường hợp
Nhóm SV thực hiện Trang : 19
Tiểu luận kiểm toán
này KTV có thể chấp nhận nếu hệ thống KSNB hữu hiệu và không có những rủi
ro dẫn đến khả năng mất thanh toán.
Về kích cỡ mẫu chọn: Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới số lượng các thư
xác nhận. Theo đó, KTV phải lưu ý những yếu tố sau:
+ Tính trọng yếu: nếu số dư của các khoản phải thu có qui mô lớn so với
số dư các tài sản khác thì kích cỡ mẫu chọn lớn hơn.
+ Số lượng: số xác nhận gửi đi sẽ nhiều với đơn vị bán hàng với qui mô
lớn, chủng loại hàng hoá nhiều và quan hệ mua bán rộng rãi và ngược lại.
+ Mức đồng đều về qui mô: nếu các khoản phải thu có qui mô xấp xỉ thì

số xác nhận sẽ ít hơn và xác nhận phủ định được gửi đi nhiều hơn.
+ Kết quả đánh giá hệ thống KSNB.
+ Kết quả xác nhận năm trước.
+ Khả năng phá sản của khách hàng và những nhân tố ảnh hưởng đến rủi
ro kiểm toán dự kiến.
Về khoản mục phải chọn để xác nhận: thông thường thì căn cứ vào số dư
và độ dài thời gian của các khoản phải thu, trọng yếu là những số dư lớn và kéo
dài, ngoài ra cần kết hợp chọn mẫu ngẫu nhiên.
Duy trì việc kiểm soát của KTV trong xác nhận: để đảm bảo tính khách
quan và chất lượng của bằng chứng kiểm toán, KTV phải giữ quyền kiểm soát
từ đầu đến khi nhận được giấy xác nhận. Địa chỉ nhận giấy xác nhận là địa chỉ
của công ty kiểm toán, giấy xác nhận được gửi qua đường bưu điện, cần xem xét
lý do khi giấy nhận bị trả lại.
Theo dõi và xử lý các khoản không trả lời: thường được thực hiện theo
trình tự chặt chẽ. Thông thường nếu không nhận được giấy xác nhận gửi lần thứ
nhất cần gửi tiếp lần thứ hai. Nếu sau lần thứ hai vẫn không nhận được cần có
cách hỗ trợ để xét tính hiệulực của số dư tài khoản. Theo đó, với mọi xác nhận
khẳng định không được phản hồi từ người mua có thể thực hiện các cách hỗ trợ
sau:
Nhóm SV thực hiện Trang : 20
Tiểu luận kiểm toán
Có thể giấy xác nhận không được phản hồi là do khoản phải thu không có
hiệulực hoặc đã có thoả thuận trả tiền vào thời gian xác nhận. Do đó, việc xem
xét các bằng chứng thu tiền mặt tiếp theo sau, đối chiếu các chứng từ nhận tiền
và sổ chi tiết các khoản phải thu là một cách thức hỗ trợ tích cực cho cả các giấy
xác nhận khoản phải thu chưa được phản hồi và cả các khoản không ăn khớp
giữa nghiệp vụ bán hàng không thu được tiền với số tiền đã thu với bằng chứng
cụ thể.
Thẩm tra các chứng từ bán hàng và thu tiền như: Hoá đơn bán hàng để
định rõ bên mua và ngày lập hoá đơn để tính tiền cho người mua, chứng từ vận

chuyển để xác định hiệu lực của nghiệp vụ vận chuyển.
Việc thực hiện các cách hỗ trợ là tuỳ thuộc vào tính trọng yếu của những
khoản xác nhận không được phản hồi, vào loại sai lầm phát hiện được trong xác
nhận đã được trả lời cùng đánh giá của KTV về hệ thống KSNB. Tuy nhiên,
trong điều kiện bình thường nên thực hiện để xác minh bổ sung.
Khi có kết qủa xác nhận, nếu có chênh lệch giữa sổ sách và thực tế thì
phải xem xét:
+ Khoản tiền phải thu ghi sổ được thanh toán: do tiền đang chuyển, tiền
đã tới nhưng chưa ghi sổ, bỏ sót không ghi sổ, gian lận, biển thủ
+ Người mua chưa hoặc không nhận được hàng: do độ trễ của ghi sổ với
thời điểm bán hàng như: bên bán ghi sổ vào ngày vận chuyển, bên mua ghi sổ
vào ngày nhận hàng.
+ Hàng bán bị trả lại: chênh lệch giữa sổ sách với xác nhận.
+ Sự lệch trong quá trình ghi sổ hoặc bán hàng.
Kết thúc việc xác nhận: Sau khi thu thập và xử lý xác nhận, kể cả các thủ
tục hỗ trợ, cần thẩm tra lại hệ thống KSNB trên cơ sở phân tích sự phù hợp giữa
những sai lệch vừa phát hiện với đánh giá ban đầu về hệ thống kiểm soát này.
Đồng thời cần thực hiện khoa học việc suy rộng từ mẫu chọn đến quần thể
Nhóm SV thực hiện Trang : 21
Tiểu luận kiểm toán
khoản phải thu ngay cả khi chênh lệch từ xác minh không ảnh hưởng nhiều đến
khoản mục phải thu.
Trắc nghiệm các khoản phải thu đã xoá sổ và khoản thu không ghi sổ
Các khoản tiền bán hàng không thể thu được tiền cần xoá sổ và là tổn thất
tài chính do rất nhiều nguyên nhân khác nhau kể cả khả năng xảy ra thiếu sót
trong thủ tục bán hàng đến khả năng gian lận, biển thủ Do vậy, cần trắc nghiệm
toàn diện các khoản đã xoá sổ thông qua việc thẩm tra, xét duyệt của người có
trách nhiệm xoá sổ.
Kiểm tra các chứng từ: giấy báo hoặc báo cáo thu tiền, chú ý tới tên người
nhận, số tiền nhận và ngày ghi trên giấy báo. Từ đó, đối chiếu giữa các chứng từ

với sổ nhật ký thu tiền và giấy biên nhận tiền.
Đối với những khoản phải thu không có khả năng thu hồi căn cứ vào khả
năng tài chính thực tế và căn cứ vào các quy định hiện hành để kiểm tra việc lập
dự phòng nợ phải thu khó đòi.
3.3. Kết thúc kiểm toán
Sau khi hoàn các công việc của giai đoạn thu thập bằng chứng kiểm toán
thông qua áp dụng các thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản, KTV tiến
hành tổng hợp các kết quả kiểm toán để có sự đánh giá toàn diện đối với chu
trình bán hàng- thu tiền. Kết thúc kiểm toán chu trình bán hàng- thu tiền trong
kiểm toán BCTC, KTV phải tổng hợp các kết quả kiểm toán của các phần hành
và công bố Báo cáo kiểm toán. Khi đó, KTV phải chú trọng những bước sau:
Soát xét các sự kiện phát sinh sau ngày lập BCTC
Phần lớn các công việc quan trọng của một cuộc kiểm toán được tiến hành
sau ngày kết thúc niên độ kế toán. Vì vậy, các sự kiện sau ngày lập BCTC được
KTV hết sức chú trọng.
Thông thường có các sự kiện sau xảy ra:
+ Những sự kiện có ảnh hượng trực tiếp đến BCTC và cần điều chỉnh
như các sự kiện về dự phòng bổ sung.
Nhóm SV thực hiện Trang : 22
Tiểu luận kiểm toán
+ Những sự kiện không ảnh hưởng trực tiếp đến BCTC nhưng cần được
công khai và lấy giải trình của các nhà Quản lí.
Để nhận định được các sự kiện trên thì KTV phải sử dụng các thủ tục
kiểm toán như thẩm vấn Ban Quản Trị, xem xét lại sổ sách, các biên bản sau
ngày lập BCTC, rà soát lại các biện pháp mà các nhà Quản lí đã thiết lập để
khẳng định rằng các sự kiện sau quan trọng đã được xác định. Nếu cần thiết thì
tiến hành điều chỉnh hoặc công bố trên BCTC.
Các vấn đề liên quan sau ngày kết thúc niên độ đặc biệt tác động đến
kiểm toán chu trình bán hàng- thu tiền vì thường sau ngày lập BCTC, những
khoản phải thu có thể được thanh toán. Nhất là các khoản trong thư xác nhận

chưa được trả lời thì đây là những bằng chứng thuyết phục về tình hình thanh
toán công nợ.
Đánh giá kết quả kết quả kiểm toán
Việc đánh giá kết quả kiểm toán của một cuộc kiểm toán hay một chu
trình kiểm toán như bán hàng và thu tiền là tất yếu, cần thiết. Và cũng nhằm
khẳng định việc áp dụng thủ tục phân tích, đánh giá sự đầy đủ của bằng chứng,
đánh giá tổng hợp các sai sót phát hiện được, rà soát lại hồ sơ kiểm toán, yêu
cầu đơn vị cung cấp thư giải trình của các nhà Quản lý, kiểm tra lại các khai báo
trên BCTC, xem xét các thông tin khác trong báo cáo của doanh nghiệp.
Lập Báo cáo kiểm toán
Căn cứ vào kết quả kiểm toán mà KTV phát hành Báo cáo kiểm toán, bày
tỏ ý kiến về BCTC đã được lập. KTV sử dụng một trong bốn hình thức Báo cáo
Kiểm toán: Báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn bộ, Báo cáo chấp nhận từng phần,
Báo cáo kiểm toán không chấp nhận, Báo cáo kiểm toán từ chối cho ý kiến.
Nhóm SV thực hiện Trang : 23
Tiểu luận kiểm toán
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN
HÀNG VÀ THU TIỀN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH
2.1. Quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán
Bảng khai tài chính
Sau khi kiểm toán viên đã xác nhận các mục tiêu kiểm toán đặc thù cho
chu trình bán hàng và thu tiền thì công việc tiếp theo là tập hợp bằng chứng
kiểm toán. Để đảm bảo cho công việc diễn ra theo đúng tiến độ, khoa học và
hiệu quả thì việc tập hợp và thu thập bằng chứng, đánh giá phải diễn ra theo một
quy trình.
Chu trình Bán hàng và thu tiền là một bộ phận cấu thành của Báo cáo tài
chính, vì vậy để cho toàn bộ cuộc kiểm toán diễn ra một cách thống nhất thì khi
kiểm toán chu trình này phải tuân theo quy trình kiểm toán của một cuộc kiểm
toán báo cáo tài chính. Mỗi một cuộc kiểm toán nào cũng phải tuân theo các

bước cơ bản sau:
Bước 1: Chuẩn bị kiểm toán.
Bước 2: Thực hiện kiểm toán.
Bước 3: Kết thúc kiểm toán.
Do Kiểm toán nội bộ có những đặc thù nhất định nên quy trình kiểm toán
báo cáo tài chính không phải chỉ là ba bước như Kiểm toán độc lập thực hiện mà
là 4 bước. Cụ thể kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán do Kiểm toán nội
bộ thực hiện gồm 4 bước sau :
Bước 1 : Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán.
Bước 2 : Thực hiện kiểm toán.
Bước 3 : Kết thúc kiểm toán.
Bước 4 : Theo dõi sau kiểm toán.
2.2. Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
Nhóm SV thực hiện Trang : 24
Tiểu luận kiểm toán
Chất lượng của kiểm toán nội bộ phụ thuộc và kế hoạch kiểm toán. Chất
lượng này có thể đánh giá một cách dễ dàng tuỳ theo tính chất khách quan của
các kết luận, những giá trị mang lại cho ban lãnh đạo doanh nghiệp và bộ phận
được kiểm toán hay là quá mức độ đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Đây là bước đầu tiên trong quá trình kiểm toán, nó chiếm một vị trí quan
trọng trong toàn bộ cuộc kiểm toán do mục đích của giai đoạn này là tạo ra cơ sở
pháp lý, trí tuệ, vật chất cho công tác kiểm toán. Bộ phận kiểm toán nội bộ lập
kế hoạch kiểm toán sao cho đảm bảo được rằng tất cả các lĩnh vực của đơn vị
đều được xem xét thường xuyên và tiến hành làm kiểm toán đột xuất trong
trường hợp cần thiết một. Một trong những chuẩn mực kiểm toán đươc IPAC
phê duyệt và ban hành vào tháng 10/ 1980 đòi hỏi kiểm toán viên phải lập kế
hoạch kiểm toán để trợ giúp cho công việc kiểm toán được tiến hành có hiệu
quả, đúng thời gian.
Giai đoạn này bao gồm các bước chủ yếu sau:
2.2.1. Xác định mục tiêu và phạm vi kiểm toán

Mục tiêu và phạm vi kiểm toán cần được xác định cụ thể cho từng cuộc
kiểm toán. Mục tiêu kiểm toán là cái đích cần đạt tới đồng thời là thước đo kết
quả kiểm toán cho mỗi cuộc kiểm toán cụ thể. Mục tiêu chung phải gắn chặt với
mục tiêu riêng, yêu cầu của quản lý. Do vậy mục tiêu của kiểm toán phải tuỳ
thuộc vào quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm toán, tuỳ thuộc vào loại hình
kiểm toán.
Phạm vi kiểm toán là sự giới hạn về không gian và thời gian của đối
tượng kiểm toán thường được xác định đồng thời với mục tiêu kiểm toán và là
một hướng cụ thể xác định mục tiêu này. Với một khách thể kiểm toán cần xác
định rõ đối tượng cụ thể của kiểm toán: Bảng cân đối tài sản hay toàn bộ các bản
khai tài chính
Còn đối với kiểm toán nội bộ thì sẽ dễ dàng hơn thuộc sự điều hành của
Công ty.
2.2.2. Chỉ định người phụ trách công việc kiểm toán và chuẩn bị các điều
kiện vật chất cơ bản
Nhóm SV thực hiện Trang : 25

×