Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Đề tài dạy thơ Hồ Chí Minh ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.45 KB, 10 trang )

Nghiên cứu - giảng dạy thơ hồ chí minh
ở trờng trung học cơ sở
A - Đặt vấn đề
I Cơ sở lý luận
Sinh thời Hồ Chí Minh không xem mình là một nhà thơ. Ngời không xem thơ
văn là phơng tiện để lập thân, để "lu danh hậu thế". Ngời đã từng tán thởng câu
thơ của Viên Mai :
" Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chơng ."
Câu thơ đợc Phạm Trọng Điềm dịch nh sau :
" Khuya sớm những mong ghi sử sách
Lập thân hèn nhất ấy văn chơng ."
Không những thế, Ngời lại càng không muốn xem thơ, văn nh là chuyện thù
tạc, ngâm vịnh nhàn tản, đợc mất ở một tấc lòng của một thiểu số ngời cầm bút.
Mở đầu tập Nhật ký trong tù, Bác viết :
" Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhng mà trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do "
( Mở đầu tập nhật ký)
Xuất phát từ nhu cầu, nhiệm vụ cách mạng, Ngời làm thơ là để tuyên truyền
cho công cuộc giải phóng dân tộc. Vì thế những gì ngời để lại cho đời là những
ghi chép, những bài học, những kinh nghiệm đợc rút ra từ quá trình đấu tranh
bảo vệ đất nớc. Ngời làm thơ, viết văn nhằm thực hiện một trách nhiệm cao quí,
một mục tiêu cao cả là tuyên truyền cho nhiệm vụ cách mạng và cổ vũ toàn dân
chiến đấu giải phóng dân tộc. Với Ngời, thơ - văn phải là thứ vũ khí sắc bén và
nhà thơ phải luôn mang tinh thần cách mạng tiến công. Ngời am hiểu sâu sắc
những đặc trng và quy luật của sự sáng tạo nghệ thuật, lấy quan điểm cách mạng
của hệ t tởng vô sản làm phơng hớng nhận thức và sáng tạo. Với một vốn học
vấn uyên bác, tiếp thu sâu sắc tinh hoa của nhiều nền văn hoá lớn trên thế giới,
với một tâm hồn giàu cảm xúc yêu thơng và luôn bừng sáng vẻ đẹp của trí tuệ,


lại luôn tha thiết với cái đẹp của cuộc sống và nghệ thuật. Vì thế những bài viết
của Ngời là những tác phẩm vô giá trong kho tàng văn học Việt Nam, thể hiện
một phong cách nghệ thuật độc đáo. Có thể nói rằng, trong thế kỷ XX này cha
có một nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp nào có thể vợt qua đợc.

II Cơ sở thực tiễn
Nghiên cứu, tìm hiểu, học tập thơ ca Hồ Chí Minh luôn là niềm ớc mong, khao
khát cháy bỏng của mọi ngời, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bởi vì thơ Ngời có sự kết
hợp kỳ diệu giữa nội dung và hình thức; t tởng và nghệ thuật; chất anh hùng ca
và chất trữ tình sâu lắng; nét bình dị trong sáng và sự hàm súc uyên thâm; chất
cổ điển truyền thống và hiện đại mới mẻ. Thơ Ngời thể hiện cốt cách lớn của
một tâm hồn nghệ sĩ lớn - một nhà văn, nhà thơ, một danh nhân văn hoá thế giới.
Đặc biệt, nghiên cứu, tìm hiểu, học tập thơ văn của Ngời là để giúp học sinh làm
quen với chính con ngời Bác, hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp Cách mạng
của ngời anh hùng dân tộc vĩ đại .
B - Giải quyết vấn đề

I - Nội dung nghiên cứu - giảng dạy
1) Dạy thơ Hồ Chí Minh ở chơng trình THCS, trớc hết giáo viên cần bồi d-
ỡng phẩm chất đạo đức cách mạng của Ngời cho học sinh qua các bài dạy cụ
thể. Đó là lòng yêu nớc, thơng dân, ý chí, nghị lực kiên định vợt qua khó khăn
thử thách, vợt qua thiếu thốn, bệnh tật, vợt lên mọi hoàn cảnh khổ đau với một
phong thái ung dung, tự chủ, tinh thần lạc quan cách mạng, tin tởng vào thắng
lợi cuối cùng.
Vậy lòng yêu nớc, thơng dân của Bác đợc thể hiện nh thế nào ?
Qua những tác phẩm Ngời để lại và qua những tác phẩm viết về Ngời, học sinh
dễ dàng nhận ra rằng Bác là ngời chiến sĩ cách mạng đã cống hiến trọn vẹn cuộc
đời hoạt động trên nửa thế kỷ cho quyền lợi thiêng liêng của dân tộc và nhân
dân. Từ thuở thiếu thời, Ngời đã từng trăn trở trớc cảnh nớc mất, nhà tan, nhân
dân cực khổ. Ngay cả trong lúc bị tù đày gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật, Ngời

vẫn canh cánh bên lòng nỗi niềm nhớ nớc, thơng dân :
" Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh
Nội thơng đất Việt cảnh lầm than ."
( ốm nặng)
Phải nói rằng lòng yêu nớc, thơng dân ở Bác luôn da diết, thờng trực ngày
đêm nhất là những năm tháng Ngời ở xa Tổ Quốc. Tấm lòng của Ngời luôn. h-
ớng về quê hơng để lắng nghe tin tức và không sao nguôi đợc nỗi nhớ mong
Nhiều đêm Bác trằn trọc không sao ngủ đợc. Phải chăng vì đêm lạnh ? vì đói,
rét, thiếu thốn, bệnh tật ? Hay chính là vì nỗi lo lắng, xót xa trớc tình cảnh nô lệ
của dân tộc. Trong những phút giây chợp mắt ít ỏi, Ngời lại tìm đến một giấc mơ
giải thoát, hình ảnh Tổ Quốc chiến thắng lại hiện về lộng lẫy một ngôi sao
vàng :
" Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh ."
( Không ngủ đợc)
Cũng nh sau này, khi đã đợc tự do trở về lãnh đạo kháng chiến ở chiến khu
Việt Bắc, Ngời vẫn thờng mất ăn, mất ngủ vì đất nớc. Trớc khung cảnh, nớc
trong, trăng thanh, gió mát, Ngời càng nghĩ nhiều đến trách nhiệm với giang sơn
gấm vóc :
" Cảnh khuya nh vẽ ngời cha ngủ
Cha ngủ vì lo nỗi nớc nhà ."
( Cảnh khuya )
Bác lo cho nớc, lo cho dân, lo cho giang sơn gấm vóc. Với Bác, giấc ngủ chỉ
có thể đến khi mọi trăn trở lo toan đã đợc giải quyết, khi việc chung của đất nớc
đã bàn bạc xong :
" Việc quân việc nớc bàn xong
Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm ."
( Đối trăng )
Trong một lần trả lời phỏng vấn các nhà báo, Ngời đã nói :" Tôi chỉ có một
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho đất nớc đợc hoàn toàn độc lập, dân

tộc đợc hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng đợc học
hành."
Để thực hiện tâm nguyện khát khao cháy bỏng đó, cuộc đời của Ngời đã hoà
và gắn làm một với cuộc sống chung của dân tộc, không dành cho mình một
chút hạnh phúc riêng t nào, tất cả vì dân, vì nớc :" Vì nớc cha nên nghĩ đến nhà".
Ngời đã gắn lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, gác bỏ tình nhà để lo
nghĩa nớc. Trong th " Gữi họ Nguyễn Sinh " ngày 09/11/1950 Bác viết : "Nghe
tin anh cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nớc nặng nhiều, đờng sá xa cách,
lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.
Than ôi ! Tôi chịu tội bất đệ trớc linh hồn anh và xin bà con nguyên lợng cho
một ngời con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nớc."
Về vấn đề này, Giáo s Hà Minh Đức từng nói : " Đọc thơ văn Hồ Chí Minh
tâm hồn ta nh đứng trớc tấm gơng trong, những suy nghĩ chật hẹp, những lo toan
nhỏ nhặt nh tạm lắng xuống và đợc quên đi. Ngời càng ít chú ý và không nói tới
mình, càng trở nên vị tha và cao thợng biết bao. Ngời càng giản dị, gần gũi, th-
ơng yêu mọi ngời, tấm lòng Ngời càng bao trùm mở rộng Ngời chiến sĩ cộng
sản mang tinh thần thép nhng cũng chứa chan và đằm thắm tình ngời, cảm thông
và chia sẽ tận cùng nỗi đau khổ của quần chúng lao động". Đã nhiều lần nhà
thơ Tố Hữu nhắc đến hình ảnh một trái tim, trái tim lớn chia sẻ, trái tim giàu
tình yêu thơng con ngời:
" Ôi phải chi lòng đợc thảnh thơi
Năm canh bớt nặng nỗi thơng đời
Bác ơi , tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp ngời ".
( Bác ơi )
2) Giảng dạy thơ Hồ Chí Minh cho học sinh ở trờng THCS là giúp các em
cảm nhận sâu sắc hơn về ý chí, nghị lực vợt qua mọi khó khăn, thử thách, thiếu
thốn, vợt lên mọi hoàn cảnh với một phong thái ung dung, tự chủ, tinh thần lạc
quan cách mạng tin tởng vào thắg lợi cuối cùng của Bác.
Dới chế độ nhà tù Tởng Giới Thạch, Ngời bị đày đoạ hết sức khổ cực về vật

chất lẫn tinh thần : thiếu ăn, thiếu ngủ, thiếu thuốc men, bị bệnh tật hành hạ
Bài thơ "Bốn tháng rồi" ghi lại một cách chân thực cuộc sống gian khổ của Ngời
:
" Bốn tháng cơm không no
Bốn tháng đêm thiếu ngủ
Bốn tháng áo không thay
Bốn tháng không giặt giũ ."
( Bốn tháng rồi )
Điều kiện vật chất thiếu thốn là một nhẽ, Ngời còn bị đày đoạ về tinh thần.
Trong 14 tháng bị bắt giam, Ngời bị chuyển gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc
tỉnh Quảng Tây, có ngày phải đi 53 cây số, mũ áo ớt đẫm, giày rách hết thế mà
tối đến phải " Ngồi trên hố xí đợi ngày mai". Trong cuốn"Những mẫu chuyện về
đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch", Trần Dân Tiên đã ghi lại điều đó :
"Tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích, có sáu ngời lính mang súng
giải đi một buổi sáng, gà gáy đầu, ng ời ta giải Cụ Hồ đi. Một buổi chiều, khi
chim về tổ, ngời ta dừng lại một địa phơng nào đó, giam cụ lại trong xà lim, trên
một đống rạ bẩn, không cởi trói cho Cụ nghỉ "
Trong cảnh địa ngục trần gian, sống khác loài ngời ấy, Bác vẫn vợt lên trên
hoàn cảnh với một phong thái ung dung, tự chủ ; vợt qua mọi gian khổ của xiềng
xích nhà tù. Ngời luôn đứng ở thế cao, thế đứng của con ngời bất khuất "tiếng
xích" nh "tiếng ngọc", "bị nghi là gián điệp " mà nh "khanh tớng vẻ ung dung".
Trớc hiện thực đen tối đó, Ngời luôn có cảm hứng nồng nàn với tơng lai, Ngời
dự đoán và tin tởng vào ngày mai, chính Ngời là hiện thân cho tơng lai:
" Trong ngục giờ đây còn tối mịt
ánh hồng trớc mắt đã bừng soi ."
( Buổi sớm )
3) Bên cạnh đạo đức Cách mạng của ngời chiến sĩ, Chủ Tịch Hồ Chí Minh
luôn ngời sáng một tâm hồn nghệ sĩ. Đó là một tâm hồn phong phú, nhạy cảm,
khoáng đạt, dễ rung động trớc những biến đổi của cuộc sống, đặc biệt là thiên
nhiên ở mỗi thời kỳ, thiên nhiên có một ý nghĩa, một sắc thái riêng. Trăng

trong rừng Việt Bắc những năm 1946-1947 mang vẽ đẹp vừa kỳ vĩ, vừa mơ
màng, huyền ảo, cảnh trời mây sông nớc tràn trề sắc xuân :
" Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nớc lẫn màu trời thêm xuân"
( Rằm tháng giêng )
ánh trăng viên mãn trong đêm rằm, "lồng lộng" chiếu sáng bao trùm cảnh vật,
không gian nh đợc phủ đầy trăng, cảnh vật đợc mặc bằng trăng. ánh trăng chiếu
qua kẽ lá, in hình xuống mặt đất tạo thành những đoá hoa khổng lồ " Trăng lồng
cổ thụ bóng lồng hoa "( Cảnh khuya ). ở đây không phải là vầng trăng thơng nhớ
năm xa mà là trăng kháng chiến, ánh trăng du kích, ánh trăng soi vào mùa chiến
dịch :
" Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền "
( Rằm tháng giêng )
Ngay cả thời gian bị giam cầm, Bác vẫn dành cho thiên nhiên một vị trí tốt
đẹp trong thơ mình. Ngày ngày Bác vẫn trân trọng đón vầng dơng mọc mỗi buổi
sớm, đêm về Ngời vẫn lắng nghe tiếng " Dế kêu khoan nhặt đón mừng thu ",
lắng nghe tiếng "Oanh hót xóm gần ". Buổi chiều Bác say sa ngắm cảnh " Chim
mỏi về rừng tìm chốn ngủ ". Chân bị trói và treo ngợc lên mui thuyền, Bác vẫn
say sa ngắm cảnh làng mạc sông nớc :
"Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh"
( Giữa đờng đáp thuyền đi Ung Ninh)
Cảnh với ngời, sự vật khách quan và cái tôi chủ thể trữ tình soi bóng vào nhau,
hoà quyện, khăng khít với nhau :
" Ngời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ "
( Ngắm trăng )
Thi nhân thả hồn với trăng, giao hoà giao cảm với trăng. Trăng ngắm ng ời, ng-
ời ngắm trăng trong vẽ đẹp giao cảm và đã trở thành ngời bạn tri âm, tri kỷ. Nên

mặc dù " Chẳng đợc tự do mà thởng nguyệt " nhng Bác vẫn " Lòng theo vời vợi
mảnh trăng thu " .
4) Một vấn đề rất quan trọng và không thể thiếu khi học tập, nghiên cứu và
giảng dạy thơ Bác là tìm hiểu nghệ thuật thơ. Nh đã trình bày ở trên, thơ Bác có
sự kết hợp kỳ diệu giữa nội dung và hình thức ; chất cổ điển truyền thống và nét
hiện đại mới mẻ. Khi tìm hiểu vấn đề này, giáo viên hớng dẫn học sinh nhận xét
về thể thơ, cách gieo vần, ngắt nhịp, tìm hiểu về con ngời và thiên nhiên trong
thơ. Học sinh dễ dàng nhận rằng những bài thơ đợc trích học trong chơng trình
THCS ( SGK Thí điểm) đều đợc sáng tác theo thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt. Cách
gieo vần, ngắt nhịp đều tuân thủ một cách chặt chẽ thơ Đờng. Ngôn ngữ trong
thơ rất mẫu mực, khuôn vàng thớc ngọc. Các chi tiết, hình ảnh cũng đều mang
màu sắc cổ điển : Hang, Suối, Bàn đá là cảnh lâm tuyền, nơi dạo chơi, câu cá,
bầu bạn cùng Tùng, Cúc, Trúc, Mai; Cháo bẹ, Rau măng là thức ăn thanh đạm
của các bậc hiền giả phơng Đông nhng đó chính là cuộc sống kham khổ của
Bác, nơi Bác ẩn náu để hoạt động cách mạng.
Thơ xa thờng đề cập đến cái to lớn của thiên nhiên, cái bao la của vũ trụ, cái
vĩnh hằng của đất trời. Con ngời ở đây không đóng vai trò chủ thể, thậm chí có
lúc dờng nh mất hút đi, tan biến đi trong cái thiên nhiên vĩnh cửu, trớc cái mênh
mông của không gian và cái xa thẳm của thời gian.
" Trên đồi có thông , muôn dặm biếc mông lung
Ta thảnh thơi nằm ngủ bên trong .
Trên rừng có trúc, nghìn màu xanh chen chúc
Ta đủng đỉnh ca ngâm dới gốc ".
( Nguyễn Trãi - Bài ca Côn Sơn )
Con ngời trong thơ Hồ Chí Minh là ngời chiến sĩ, là con ngời hành động để
chinh phục thiên nhiên, cải tạo xã hội nên là chủ thể của thiên nhiên :
" Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nớc non ."
( Đi đờng )
Hình ảnh ngời chiến sĩ vĩ đại đang ung dung dạo bớc trên đỉnh núi cao lồng

lộng, hớng mặt về phía trời Nam - một hình ảnh hết sức đẹp đẽ, hoành tráng :
" Bồi hồi dạo bớc Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời Nam nhớ bạn xa ."
( Mới ra tù , tập leo núi )
Trong những trờng hợp này, thiên nhiên chỉ là cái nền làm tôn thêm vẽ đẹp cho
một hình tợng đợc đặt ở trung tâm, ở cận cảnh là một ngời chiến sĩ :
" Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang ."
( Tức cảnh Pác Bó )
Đọc thơ Bác, Hoàng Trung Thông nhận xét : " Thơ Bác rất Đờng mà lại không
Đờng một tí nào " . Đúng vậy, thơ Hồ Chí Minh rất xa mà cũng rất mới, cái
phong thái ung dung tự tại của Ngời chiến sĩ rất gần gũi và cũng rất khác xa với
cái ung dung của bậc hiền triết phơng Đông. Các nhà nho xa ung dung, thanh
thản khi đã ở bên lề cuộc đời, thây kệ mọi cuộc thăng trầm của thế sự (Nguyễn
Trãi về Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm ở am Bạch Vân). Còn Hồ Chí Minh là
phong thái ung dung thanh thản của một ngời chiến sĩ dày dạn, đứng giữa sóng
to gió lớn vẫn bình tĩnh, tự tin vì đã nắm đợc những quy luật của cuộc sống, của
lịch sử.
II - So sánh - Đối chiếu kết quả
Thơ Hồ Chí Minh ở trờng THCS đợc trích học ở hai lớp 7 và 8 (SGK Thí
điểm). Là một giáo viên đợc phân công giảng dạy theo chơng trình này, đối
chứng với trớc và sau khi áp dụng đề tài, tôi thấy việc cảm nhận thơ Hồ Chí
Minh của các em học sinh đã có những chuyển biến rõ rệt. Trớc khi đề tài đợc
áp dụng, qua khảo sát thực tế ở lớp 7 ( năm trớc) thì hầu nh các em cha nắm đợc
gì về sự nghiệp thơ văn và cuộc đời hoạt động cách mạng của Ngời. Đa số học
sinh chỉ biết Bác là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Những hiểu biết của học
sinh về Bác chỉ là những gì đã ăn sâu trong tiềm thức các em qua những câu
chuyện đợc kể lại, qua một số cuốn sách, bài báo hoặc qua những thông tin đợc
bố cáo rộng rãi Số học sinh hiểu về Bác và sự nghiệp các mạng của Ngời chỉ
chiếm khoảng 20 % Nắm đợc tình hình đó, tôi đã kiên trì bồi dỡng cho học

sinh những kiến thức, những hiểu biết về Bác qua một số tác phẩm cụ thể. Vì thế
cuối năm chất lợng đã đợc nâng cao. Số học sinh nắm đợc vấn đề lên tới 55%.
Thấy đợc mức độ thành công nhất định của đề tài, tôi đã không ngừng nghiên
cứu, tìm hiểu những tài liệu viết về Ngời để củng cố, mở rộng và khắc sâu kiến
thức cho học sinh lớp 8. Tôi đã tổ chức những buổi ngoại khoá để học sinh tự su
tầm những bài thơ của Bác về các nội dung mà đề tài đã trình bày. Qua kết quả
cuộc khảo sát nhỏ cho thấy các em hiểu và nắm bắt vấn đề với tỷ lệ nh sau :
- Lòng yêu nớc, thơng dân của Bác : 82 %
- ý chí, nghị lực, vợt qua mọi khó khăn, thử thách : 69 %
- Tình yêu thiên nhiên bao la rộng lớn của Bác : 75 %
- Sự kết hợp hài hoà giữa chất cổ điển và nét hiện đại trong thơ Bác : 60%
C - Kết thúc vấn đề
Nghiên cứu, tìm hiểu, học tập thơ Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu thêm về
con ngời Bác - Một hình mẫu cao đẹp của con ngời mới trong thời đại mới, một
trái tim bao la tràn đầy cảm xúc, một tấm lòng yêu nớc, thơng dân tha thiết ; một
trí tuệ uyên bác đợc tiếp thu từ những tinh hoa của nhân loại ; một biểu tợng của
chủ nghĩa nhân văn với đầy đủ ý nghĩa của nó ; một tấm gơng tuyệt vời về ngời
cộng sản. Hồ Chí Minh là một con ngời mẫu mực của thế kỷ, có sự kết hợp hài
hoà trong bản thân mình những phẩm chất khác nhau : Dân tộc và quốc tế, ph-
ơng Đông và phơng Tây, anh hùng và nghệ sỹ, chất trữ tình và chất thép, vừa rất
mực nhân hậu lại vừa triệt để cách mạng, vừa vô cùng bình dị lại vừa kiệt xuất vĩ
đại
Học tâp và giảng dạy thơ Chủ Tịch Hồ Chí Minh trong trờng THCS là dịp học
tập noi gơng đạo đức cách mạng trong sáng của Bác, học tập nghệ thuật thơ
uyên bác và bình dị của Ngời.
Giảng dạy thơ văn Hồ Chí Minh ở trờng THCS đòi hỏi sự phấn đấu kiên trì,
không mệt mỏi của ngời dạy, ngời học để cảm thụ hết cái hay cái đẹp trong thơ
văn Bác, để không ngừng hoàn thiện mình.
D - Kiến nghị đề xuất



- Nên đa một số bài thơ Bác viết về thiếu nhi vào chơng trình.
- Tổ chức các buổi chuyên đề về Thơ Hồ Chí Minh .
- Cấp một số băng hình, tranh ảnh về Bác.

×