Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi nhánh tỉnh Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.81 KB, 47 trang )

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự nghiệp đổi mới và những thành tựu của phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những bước
phát triển quan trọng.
Trong thời gian hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư phát triển là rất lớn mà
thị trường chứng khoán vẫn còn non trẻ, các công cụ tài chính còn quá
nghèo nàn và đơn điệu nên thị trường tài chính kém phát triển. Do đó Ngân
hàng trở thành trung gian tài chính quan trọng đáp ứng mọi nhu cầu của
nền kinh tế. Nhận thức rõ được tầm quan trọng cũng như vị trí của doanh
nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, hệ thống NHCT Việt Nam
nói chung và NHCT Sông Nhuệ chi nhánh tỉnh Hà Tây nói riêng đã luôn
tạo điều kiện đáp ứng mọi nhu cầu tín dụng cho sản xuất kinh doanh, đổi
mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng ưu thế cạnh tranh
trên thị trường… cho các DNNN nhằm phục vụ cho công cuộc đổi mới đất
nước.
Trong quá trình cung ứng tín dụng cho các DNNN thì một thực tế
nẩy sinh là đối với khu vực kinh tế này đang có những dấu hiệu bất ổn thể
hiện qua số diễn biến phức tạp của nợ quá hạn, sự gia tăng nợ quá hạn…,
đã làm giảm đáng kể chất lượng cũng như hiệu quả tín dụng của Ngân hàng
trong quá trình cho vay. Như ta đã biết các khách hàng của NHCT Sông
Nhuệ chủ yếu là các DNNN, họ mang lại nguồn thu lớn cho Ngân hàng,
đặcb iệt họ là những" đầu tầu" quan trọng trong công cuộc xây dựng và
phát triển Tỉnh Hà Tây. Do đó làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng
đối với các DNNN là vấn đề rất được quan tâm bởi nó liên quan đến hiệu
quả hoạt động không những của DNNN mà còn tác động trực tiếp đến lợi
nhuận sự an toàn trong hoạt động của ngân hàng.
Chính vì vậy trong quá trình thực tập tại NHCT Sông Nhuệ em đã
chọn đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNNN
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn


Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi nhánh tỉnh Hà Tây". với
mong muốn thông qua những hiểu biết và kiến thức đã học tại nhà trường
đưa ra được những giải pháp có căn cứ khoa học phù hợp với thực tiễn, góp
phần giải quyết vấn đề nêu trên.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề chỉ đề cập đến công
tác cho vay đối với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi
nhánh Tỉnh Hà Tây.
Mục đích nghiên cứu:
Chuyên đề nghiên cứu những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng
chất lượng tín dụng đối với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông
Nhuệ Chi nhánh Tỉnh Hà Tây xuất phát từ những số liệu thực tế, để từ đó
rút ra những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân để đưa ra những kiến nghị
giải pháp thích hợp.
Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp dựa trên số liệu thực tế,
kết hợp với phương pháp duy vật biện chứng để đưa ra được những đánh
giá chính xác khách quan.
Kết cấu chuyên đề:
Chương I: Tín dụng Ngân hàng đối với các DNNN
Chương II: Thực trạng cho vay và chất lượng tín dụng đối với các
DNNN ở NHCT Sông Nhuệ Chi nhánh tỉnh Hà Tây.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối
với các DNNN tại Ngân hàng công thương Sông Nhuệ chi nhánh Tỉnh Hà
Tây.
Chuyên đề này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của
thầy Th.S Bùi Anh Tuấn cùng với các cô chú, công tác tại Ngân hàng công
thương Sông Nhuệ chi nhánh Tỉnh Hà Tây. Trong quá trình viết chuyên đề
do hạn chế về trình độ cũng như thiếu kinh nghiệm thực tế n ên không
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
tránh được những sai sót. Em kính mong các thầy, cô trong Khoa và các cô,
chú tại NHCT Sông Nhuệ góp ý kiến để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm và bản chất TDNH
a. Khái niệm
Kho có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng vì vậy tuỳ theo
góc độ nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Tín dụng (cvedit) xuất phát từ chữ la tinh là Credo (tin tưởng tín
nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ
thể mà thuật ngữ tín dụng có 1 nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín
dụng có thể hiểu theo nghĩa sau:
- Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết
kiệm sang chủ thể thiếu hụt tích kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp
chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
- Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài
sản trên cơ sở có hoàn trả giữa 2 chủ thể.
- Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài
chính cung cấp cho khách hàng.
- Trong một số ngữ cảnh cụ thể thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với
thuật ngữ cho vay.
Từ như định nghĩa trên thì tín dụng được hiểu như sau:
(Tín dụng là 1 giao dịch về tài sản) (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên
cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá
nhân, và các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi

vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay
khi đến hạn thanh toán).
b. Bản chất TDNH
Từ khái niệm trên bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm 2 hình
thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong
những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của Ngân hàng chỉ có cho
vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lục thuật ngữ tín dụng
và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại
đây, dịch vụ cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các Ngân
hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là 1
sản phẩm kinh doanh của ngân hàng 1 hình thức tín dụng bằng tài sản thực
(ở nhà văn phòng làm việc, máy móc thiết bị).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển
giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi
vay sẽ trả đúng hạn. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt
cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà
lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng. Cần lưu ý rằng các bậc tiền bối đã bằng từ "Cvedo"
hoặc "Tín" để đặt tên cho "Cvedit" hoặc tín dụng không phải là vấn đề
ngẫu nhiên.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay
nói cách khách là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để
thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ
lệ lạm phát, hay nói cách khách phải xác định lãi suất thực dượng (lãi suất
= lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên, vì lãi phải chịu ảnh
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
hưởng của nhiều yếu tố khác nhau nên trong một số trường hợp cụ thể lãi

suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoài tệ này chỉ tồn tại trong một
giai đoạn ngắn.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở
cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác
định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước…. thực chất là lệnh
phiếu trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay
khi đều hạn thanh toán.
1.2. VAI TRÒ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Tín dụng là một lĩnh vực khá rộng, bao quát một không gian nhiều
chiều (ngang, dọc, trên, dưới, trong ngoài) của chính sách tiền tệ quốc gia.
Hệ quả của hoạt động tín dụng có quan hệ biện chứng với tiến trình vận
hành chiến lược phát triển kinh tế xã hội và xã hội nhập thị trường quốc tế.
Xét về tầm quản lý vĩ mô, tín dụng là một phạm trù gắn chặt với xu hướng
"tạo tiền" sự tạo tiền này sẽ được xoá đi khi hoàn trả tín dụng đến hạn.
Chính vì vậy, tín dụng Ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong nền
kinh tế thị trường.
+ Tín dụng NH là công cụ tài trợ có hiệu quả
+ Tín dụng NH là công cụ của Nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ
lưu thông trong nền kinh tế.
+ Tín dụng NH thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của
nền kinh tế.
+ Tín dụng NH góp phần bình ổn giá cả trong nền kinh tế.
+Tín dụng NH là đòn bẩy kinh tế quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, mở rộng quan hệ thông hàng hoá quốc tế.
+ Tín dụng NH tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động,
thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế.
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
+ Tín dụng NH là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho ngân
hàng thương mại.

Với những đóng góp vô cùng to lớn ấy, có thể nói hoạt động tín dụng
là một trong những hoạt động to lớn, chủ yếu của Ngân hàng và trên thực tế
chỉ ra rằng hoạt động tín dụng đã mang lại cho Ngân hàng số lợi nhuận
khổng lồ, tạo điều kiện do chính Ngân hàng đó phát triển. Song bất cứ hoạt
động nào cũng tồn tại hai mặt, tín dụng là điều kiện để Ngân hàng phát
triển nhưng chính nó cũng có thể đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản, gặp
những rủi ro lớn. Do do đó việc xem xét rủi ro tín dụng trở nên vô cùng
quan trọng và cần thiết.
Tín dụng Ngân hàng với thành phần kinh tế Nhà nước.
1.2.1. Khái niệm và vai trò DNNN trong nền kinh tế thị trường
a Khái niệm
Thực tế cho thấy ở bất kỳ nước nào trên thế giới dù đã phát triển hay
đang phát triển, TBCN hay XHCN tuy ở mức độ can thiệp khác nhau song
đều cần thiết sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước có thể can thiệp khác
nhau song đều cần đến sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước có thể can thiệp
vào nền kinh tế bằng nhiều công cụ vĩ mô khác nhau, trong đó phải kể đến
công cụ vật chất của khu vực kinh tế Nhà nước bao gồm nhiều công ty độc
quyền chiếm gĩư các ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn mà Nhà nước đầu
tư 100% vốn hay chiếm giữ một tỷ lệ vốn chi phối thông qua chế độ tham
dự. Theo thời gian, khu vực kinh tế Nhà nước từng bước hình thành, điều
tiết và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ở nước ta, thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần lấy sở hữu
Nhà nước về tư liệu sản xuất làm cơ sở cho sự ra đời, tồn tại và phát triển
vì lợi ích xã hội mà bộ máy Nhà nước là đại biểu. Căn cứ vào tiền đề xuất
phát là sở hữu quyền lực chính trị Nhà nước, có thể xem thành phần kinh tế
Nhà nước là khu vực rộng lớn có tầm quan trọng đặc biệt, bao gồm hệ
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
thống các DNNN hệ thống tài chính - ngân hàng, các nguồn dự trữ, lợi ích
từ tài nguyên đất đai, khoáng sản, kết cấu hạ tầng… trong đó bộ phận các

doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận kinh tế giữ vai trò quan trọng đặc biệt
trong việc định hướng phát triển cho đất nước.
Vậy doanh nghiệp Nhà nước được định nghĩa như thế nào?
Từ quan niệm kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế dựa trên chế độ
sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất với hai hình thức chính là sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể, nền kinh tế XHCN có hai thành phần kinh tế chính là
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Theo sắc lệnh 104/SL do Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 01/01/1948 các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế Nhà nước được gọi là các doanh nghiệp quốc gia. Theo điều 2
của sắc lệnh "Doanh nghiệp quốc gia là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu
quốc gia và do quốc gia điều khiển" Tuỳ theo ngành mà được gọi là xí
nghiệp quốc doanh, lâm trường quốc doanh, cửa hàng quốc doanh.. Thuật
ngữ doanh nghiệp Nhà nước được sử dụng chính thức trong nghị định
388/HĐBT ngày 20/11/1991 ban hành về quy chế thành lập và giải thể
doanh nghiệp Nhà nước. Theo điều 1 của Nghị định "Doanh nghiệp Nhà
nước là một tổ chức do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư
cách là chủ sở hữu".
Hiện nay, theo điều 1 của Luật doanh nghiệp thì " DNNN là một tổ
chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách
là chủ sở hữu, đồng thời là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật,
bình đẳng trước pháp luật".
Trải nhiều giai đoạn song tựu chung lại các doanh nghiệp thuộc loại
hình kinh tế Nhà nước đều là những doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước,
do Nhà nước quản lý, mục tiêu hoạt động do Nhà nước quyết định.
b. Vai trò DNNN trong nền kinh tế
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì vai trò
của DNNN có hai mặt.
Thứ nhất, Nhà nước là chủ thể đại diện cho sự phát triển ổn định và

bền vững của một quốc gia, có chức năng hoạch định mục tiêu định hướng
phát triển, tạo môi trường chính trị kinh tế xã hội pháp luật.
Thứ hai, Nhà nước với tư cách là chủ thể đại diện cho lợi ích của
toàn xã hội cần một tiềm lực kinh tế nhất định trong những lĩnh vực ngành
trọng yếu liên quan đến môi trường xã hội duy trì khả năng ổn định chính
trị, kinh tế xã hội. Như vậy, trên khía cạnh kinh tế thì DNNN là lực lượng
sẵn sàng tạo thế cân đối cho sự phát triển, trên khía cạnh chính trị xã hội
DNNN là lực lượng chủ đạo cho ổn định chính trị xã hội.
1.2.2 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước
Nghị định 338/HĐBT cho ra đời hàng loạt các DNNN năm 1991 có
9832 DNNN thì đến năm 2004 đến nay chỉ còn 3724 DNNN. Tuy nhiên
chất lượng hoạt động của các DNNN đạt hiệu quả thấp thể hiện qua tình
hình thua lỗ ngày một tăng năm 2000 là 25%, năm 2001 là 23% năm 2002
là 2,7% năm 2004 là khoảng 30%.
Hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN ngày càng giảm.
DNNN vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân song còn
nhiều việc cần giải quyết như: Sức cạnh tranh còn quá yếu kém, quy mô
nhỏ, thiếu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
a. Về sở hữu vốn:
Chủ sở hữu vốn của các DNNN là Nhà nước. DNNN là tổ chức kinh
tế do Nhà nước thành lập, bởi lẽ tất cả các DNNN đều do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền trực tiếp ký quyết định thành lập khi cần thết. Tài sản
trong doanh nghiệp là một bộ phận của Nhà nước bởi Nhà nước đầu tư vốn
nên nó thuộc sở hữu của Nhà nước. Sau khi thành lập nó là một chủ thể
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
kinh doanh nhưng DNNN do Nhà nước đầu tư vốn nên nó chỉ có quyền
quản lý tài sản mà không có quyền sở hữu đây chính là nhược điểm của
loại hình doanh nghiệp này. Ngoại bộ phận tài sản thuộc sở hữu Nhà nước,
DNNN còn các tài sản riêng và phải chịu trách nhiệm độc lập về số tài sản

này cũng như chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong
phạm vi vốn.
DNNN có tư cách pháp nhân, là đơn vị kinh tế độc lập trong hạch
toán kinh doanh, song là đối tượng quản lý trực tiếp của Nhà nước nên phải
thực hiện các mục tiêu mà Nhà nước giao cho. Nghiên cứu rõ đặc điểm này
sẽ thấy được c ho vay đối với các DNNN sẽ có độ an toàn cao, song NH
cũng cần nghiên cứu chủ trương chính sách của Nhà nước đối với thành
phần kinh tế này để hoạt động tín dụng đạt hiệu quả cao hơn.
b. Về hoạt động sản xuất
* Những mặt làm được
Trong những năm qua KTQD không ngừng phát triển và thực sự giữ
vai trò chủ đạo trong nền KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam. Các
DNNN có mức tăng trưởng khá, đảm bảo được những cân đối chủ yếu của
nền kinh tế đáp ứng yêu cầu dịch vụ công cuôc, giải quyết công ăn việc
làm… Mức đóng góp của kinh tế quốc doanh vào GDP nhìn chung tăng về
số tuyệt đối, ổn định về số tương đối, năm 2003 số tương đối là 40,2%. các
DNNN chiếm tỷ trọng cao trong các ngành xuất khẩu, tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu bình quân đạt 20% hệ thống các DNNN chiếm tới hơn
90% các dự án liên doanh với nước ngoài, bên cạnh đó DNNN chiếm vị trí
quan trọng trong nguồn thu của Nhà nước. Qua gần 15 năm thực hiện đổi
mới. Đảng và Chính Phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm tăng
cường, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế Nhà
nước. Ban đầu là Nghị định 217 của HĐBT, quyết định 325/HĐBT, Nghị
định 388, quyết định số 90, 91 và chỉ thị 500/Ttg..
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Các doanh nghiệp được cổ phần hoá đang từng bước khẳng định
đúng đắn và hiệu quả kinh doanh của mình. Tiếp theo việc thí điểm CPH
một số DNNN theo quyết định số 202/CT ngày 08/06/1992. Chính phủ ban
hành Nghị định số 44/1998/NĐ- CP toàn quốc có 116 DNNN đã được cổ

phần hoá trong đó có 19 DN Trung Ương, 90 DN địa phương và 7 DN
thuộc tổng công ty. Đến năm 2003 cả nước đã cổ phần được 670 DNNN so
với trước khi CPH thì các chỉ tiêu Kinh tế cơ bản ở các DN này đều tăng,
vốn tăng 183%, doanh thu tăng 133,5% lợi nhuận sau thuế tăng 131%, các
khoản nộp NSNN tăng 153,5% lao động tăng 9%, thu nhập bình quân tăng
29% và giá trị cổ tức đạt bình quân 2,6% tháng.
Hiệu quả sử dụng vốn được cải thiện nhất định, cơ cấu kinh tế chung
và trong kinh tế quốc doanh đang có chuyển biến có lợi cho sản xuất công
nghiệp và dịch vụ, tổng sản phẩm trong nước của toàn bộ DNNN từ
45,54% năm 1991 lên 71,41% năm 2000. Tỷ trọng dịch vụ quốc doanh có
các số liệu tương ứng là 51,3% và 45,9%. Mặc dù đạt được một số những
thành tựu đáng kể song vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định.
* Những khó khăn còn tồn tại
- Về máy móc công nghệ thiết bị cho sản xuất kinh doanh còn thiếu
thốn, dây chuyền sản xuất và công nghệ còn lạc hậu. Do đó hàng hoá sản
xuất ra có chất lượng kém, mẫu mã đơn điệu, thiếu tính cạnh tranh, không
đáp ứng nhu cầu thị trường. Trong đó phải kể đến một số doanh nghiệp xây
dựng phương án đầu tư kém hiệu quả, không hợp lý dẫn đến khả năng thu
hồi vốn kém.
- Về thị trường đây là vấn đề nan giải mà các doanh nghiệp gặp phải
khi tìm chỗ đứng cho sản phẩm của mình.
+ Thị trường trong nước bị sức ép của hàng ngoại, hàng nhập lậu và
sự lũng đoạn của kinh tế tư nhân (buôn lậu, trốn thuế, hàng giả hay hàng
kém phẩm chất) đã thực sự giảm tính cạnh tranh của các sản phẩm do
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
DNNN sản xuất ra. Hơn nữa giá thành của các sản phẩm thường là rất cao
so với hàng hoá cùng chủng loại khác. Bên cạnh việc nộp thuế đầy đủ,
DNNN phải đầu tư một số tiền lớn để đổi mới công nghệ song sản phẩm
tung ra thị trường chưa kịp thu hồi vốn thì đã mất chỗ đứng trên thị trường

sản phẩm không tiêu thụ được dẫn đến tình trạng thua lỗ.
+ Thị trường nước ngoài của các DNNN cũng gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt đối với các DNNN làm hàng xuất khẩu, hàng thủ công mỹ nghệ,
nông lâm sản xuất khẩu trong việc tìm thị trường tiêu thụ do không còn
xuất sang thị trường Đông Âu gần đây trong năm 2002 giá một số mặt hàng
này giảm mạnh kể..
- Về yếu tố nội tại của doanh nghiệp đây là yếu tố được tranh cãi
nhiều nhất bởi khả năng quản lý điều hành còn nhiều yếu kém chưa thích
ứng được trong điều kiện mới. Các chế độ tuyển chọn, đào tạo và bồi
dưỡng nguồn nhân lực còn chưa được chú ý quan tâm, chưa phát huy hết
tiềm lực nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình quản lý và sản xuất kinh
doanh. Người quản lý không có quyền linh hoạt đối phó với những điều
kiện thay đổi của thị trường ví dụ trong thời kỳ suy thoái họ không thể
giảm bớt số công nhân thừa để giảm bớt gánh nặng tiền lương, việc quyết
định các mặt hàng sản xuất kinh doanh nhiều khi còn phụ thuộc vào Chính
Phủ. Vai trò của Giám đốc có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của
Doanh nghiệp nhưng cơ chế tuyển chọn chưa công bằng hợp lý.
Do quyền sở hữu thuộc về Nhà nước nên nhiệm vụ các DNNN đều
không rõ ràng, trong khi các doanh nghiệp tư nhân lấy mục tiêu là lợi
nhuận tối đa thì các DNNN phải hướng tới rất nhiều mục tiêu: Lợi nhuận,
lợi ích, quốc gia, phúc lợi xã hội thậm chí các mục tiêu này mâu thuẫn với
nhau. Bên cạnh đó, sự kiểm soát lỏng lẻo trong hoạt động kinh doanh vì sở
hữu Nhà nước là sở hữu toàn dân, tức là tuy ai cũng là chủ song tài sản lại
rơi vào tình trạng vô chủ, sự thua lỗ của các DNNN không liên quan tới
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
nhiều đến lợi ích của người lao động vì vậy không có một cá nhân nào cảm
thấy cần phải có sự giám sát theo dõi điều hành quản lý.
c. Về khả năng tài chính
Thứ nhất: Nguồn vốn kinh doanh theo báo cáo của Cục thống kê

hiện nay vẫn còn 25% DNNN có quy mô vốn ít hơn 1 tỷ đồng, nên năng
lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị hạn chế: Qua số liệu thực tế
cho thấy 80% vốn do ngân sách Nhà nước cấp thì nhỏ giọt. Hiệu quả sử
dụng vốn của các DNNN còn thấp, không bảo toàn chứ chưa nói gì đến
phát triển vốn. Số DNNN làm ăn có lãi qua các năm 2000 đến 2002 giảm
dần 72,69, 66%. Tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến và
nghiêm trọng, có tới 60% số DNNN không đủ vốn pháp định theo quy định
tại nghị định số 50CP. Vốn thực tế hoạt động chỉ đạt 80%. Riêng vốn lưu
động chỉ có 50% được huy động.
1.2.3. Tín dụng NH vối dnnn
Ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng đối với các DNNN
trong giai đoạn hiện nay giai đoạn CNH -HĐH đất nước. Xây dựng nền
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, vốn
tín dụng Ngân hàng sẽ tài trợ đắc lực cho các DNNN trong hoạt động ngoại
thương, hoạt động theo các hiệp định giữa Chính Phủ nước ta với Chính
Phủ các nước khác. Hệ thống các Ngân hàng cũng rất coi trọng đầu tư vốn
cho các DNNN, đặc biệt là đầu tư vốn cho các DNNN chủ lực. , chiếm trên
25% tổng dư nợ của toàn ngành NH đối với nền kinh tế. Tập trung vào
những ngành kinh tế mũi nhọn như sản xuất kinh doanh lương thực thực
phẩm, kinh doanh xuất nhập khẩu, sản xuất xi măng, cà phê.. Trong thời
gian gần đây, NH đã tăng tỷ trọng vốn cho vay trung dài hạn để đầu tư vào
xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới thiết bị sản xuất…Ngoài các khoản vốn
huy động trong nước, các Ngân hàng còn đứng ra bảo lãnh cho các DNNN
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
vay vốn nước ngoài. Số vốn bảo lãnh ước tính năm 2002 là 760 triệu USD,
chủ yếu là nhập khẩu những mặt hàng cần thiết và đầu tư đổi mới thiết bị.
Mặc dù vậy nổi cộm một số vấn đề sau:
Thứ nhất, DNNN có vốn được cấp quá nhỏ, theo quy chế cho vay thì
doanh nghiệp không thể vay vốn NH gấp nhiều lần vốn tự có. Do đó, đây

cũng là khó khăn của Ngân hàng trong quá trình cung cấp tín dụng cho các
DNNN.
Thứ hai, sự yếu kém trong quản lý tình hình tài chính và sự lạc hậu
trong công nghệ đã dẫn một số các DNNNtới sự thua lỗ hàng hoá nên các
Ngân hàng thương mại còn "ngần ngại" trong quá trình cung cấp tín dụng
cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó tình trạng nợ quá hạn và nợ khó đòi của các
DNNN ngày càng tăng cũng là một trong những nguyên nhân gây ra trở
ngại trong quan hệ tín dụng giữa DNNN với ngân hàng. Mặc dù đứng trước
những khó khăn đó song ngành ngân hàng vẫn xác định tiếp tục tập trung
đầu tư vốn cho các DNNN thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Đồng thời,
Ngân hàng cũng nỗ lực khai thác thêm nguồn vốn từ bên ngoài qua việc
bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư vào thực hiện các dự án
trọng điểm của Nhà nước, cùng với các DNNN trong việc thiết kế xây
dựng các dựe án kinh tế để đảm bảo việc đầu tư đúng hiệu quả.
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG CHO VAY VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
ĐỐI VỚI CÁC DNNN TẠI NHCT SÔNG NHUỆ
2.1. Khái quát hình thành và phát triển của NHCT Sông Nhuệ
chii nhánhTỉnh Hà Tây
2.1.1. Sự hình thành và phát triển của NHCT Sông Nhuệ.
* Hoàn Cảnh ra đời và sự phát triển
Trước đây hệ thống NH của nước ta là một cấp chỉ có NHNN,
NHNT và NHĐT & PT. Nghị định 53/CP của Chính phủ đã cho phép thành
lập các Ngân hàng chuyên doanh. Hệ thống Ngân hàng Công thương và
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn ra đời. Từ năm 1988 đến
nay, nước ta đã tồn tại nhiều NH nhưng có bốn NHTM lớn nhất đó là các
NHTM Quốc doanh: Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng ngoại thương Việt

Nam, Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, với vai trò là động lực cho sự
phát triển, hệ thống NH Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực căn bản đó
là chuyển từ hệ thống NH một cấp sang hệ thống NH hai cấp. Trong đó.
+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với tư cách là Ngân hàng của các
Ngân hàng, cùng với chi nhánh ở các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương
thực hiện các chức năng về quản lý Nhà nước thông qua các công cụ chính
sách về tiền tệ tín dụng.
+ Các NHTM bao gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân
hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài, các hợp tác xã tín dụng… Chuyên doanh trên n hiều lĩnh vực
hoạt động theo phương thức hạch toán độc lập. Như vậy, trong hệ thống
Ngân hàng hai cấp đã phân chia rõ vai trò nhiệm vụ của các Ngân hàng. Đó
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
là nhiệm vụ quản lý hê thống tài chính, tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước và
nhiệm vụ kinh doanh của Ngân hàng thượng mại, tránh được sự xen kẽ,
chồng chéo vai trò nhiệm vụ của nhau,
Ngân hàng Công thương Sông Nhuệ chi nhánh Tỉnh Hà Tây là một
chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam có trụ sở chính đặt tại
Thị Xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây, thành lập từ tháng 2 - 2001 với nhiệm vụ
huy động vốn trong xã hội và thực hiện những dịch vụ Ngân hàng nhằm
mục đích thu lợi nhuận, ổn định và phát triển kinh tế trong vùng.
NHCT Sông Nhuệ chi nhánh Tỉnh Hà Tây là một thành viên thuộc
NHCT Việt Nam hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng và
dịch vụ NH đối với mọi thành phần kinh tế mà chủ yếu là ngành công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, thương mại dịch vụ, du
lịch, xây dựng cơ bản… Trong giai đoạn đầu, Ngân hàng gặp nhiều khó
khăn như: Số lượng KH mở tài khoản và có quan hệ tín dụng còn chưa
nhiều, khả năng thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế

còn chưa cao, chất lượng tín dụng còn thấp.
Nhận rõ điều đó, Ban giám đốc và tập thể cán bộ công nhân viên
Sông Nhuệ đã học hỏi kinh nghiệm của các NH khác nhằm khắc phục
những mặt chưa đạt được, tận dụng các lợi thế về vốn, về KHKT của toàn
hệ thống, về lợi thế nằm ngay tại thị xã Hà Đông, nơi tập trung phần lớn
các doanh nghiệp và cơ quan đầu não của chính quyền địa phương, cách
không xa Hà Nội - Trung tâm KT - VH - CT của cả nước, tìm được hướng
phát triển phù hợp từ đó có những bước đột phá quan trọng trong hoạt động
kinh doanh và đứng vững trong cơ chế thị trường.
Khác hẳn với đó các NH khác NHCT Sông Nhuệ không có chi
nhánh ở các huyện.
Tính đến thời điểm hiện nay tháng 5 -2005 NHCT sông Nhuệ có tất cả.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng công thương Sông Nhuệ
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Bộ máy tổ chức của NHCT Sông Nhuệ được áp dụng theo phương
thức quản lý trực tuyến, tức là giám đốc quản lý.
Các phòng ban
Sơ đồ bộ máy tổ chức của NHCT sông Nhuệ
Giám đốc bao gồm: Giám đốc và 1phó giám đốc.
Ban Giám đốc trực tiếp và quyết định thi hành, quản lý hoạt động
của tất cả các phòng ban trong chi nhánh. Giám đốc là người trực tiếp ra
quyết định kinh doanh, ký các văn bản, các hợp đồng liên quan đến hoạt
động của NHCT Sông Nhuệ.
Với tổng số công nhân viên toàn chi nhánh NHCT Sông Nhuệ hiện
nay là 48 người.
a. Phòng tổ chức hành chính
Có chức năng tham mưu cho giám đốc các lĩnh vực như tổ chức, đào
tạo, tuyển dụng cán bộ, công tác quản lý lao động tiền lương, công tác văn
phòng tổng hợp thi đua khen thưởng công tác hành chính quản trị.

b. Phòng kinh doanh
Phòng gồm 2 bộ phận: Đó là bộ phận làm thống kê tổng hợp thông
tin phòng ngừa rủi ro và bộ phận làm công tác tín dụng chức năng của
phòng là làm tham mưu cho giám đốc.
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Giám đốc
Phòng
tổ chức
h nh à
chính
Phòng
kinh
doanh
Phòng
tiền tệ
kho quỹ
Phòng
kế toán
t i à
chính
Quỹ tiết
kiệm
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Về việc xây dựng chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch kinh doanh
hàng năm, quý, tháng của NH. Cung cấp thông tin phòng ngừa rủi ro, quản
lý vốn kinh doanh hàng ngày thống kê tổng hợp kết quả kinh doanh hàng
thông hướng dẫn nghiệp vụ tín dụng. Cho vay là nghiệp vụ chủ yếu của
phòng kinh doanh. Nhiệm vụ của các cán bộ tín dụng thực hiện việc thu
nợ, thu lãi, kiểm tra sử dụng tiền vay, xử lý các món nợ quá hạn khó đòi.
Phòng kế toán tài chính

Phòng có chức năng nhiệm vụ là tổ chức tốt các nghiệp vụ thanh
toán, tài chính hạch toán kế toán theo quy định của NHCT Việt Nam nói
riêng và theo luật các tổ chực tín dụng nói chung.
d. Phòng tiền tệ kho quỹ
Phòng có chức năng tham mưu cho giám đốc chỉ đạo, điều hành hoạt
động ngân quỹ theo quy định quy chế của NHNN Việt Nam. Tổ chức tốt
việc thu chi tiền cho khách hàng giao dịch tại trụ sở, đảm bảo an toàn tài
ản.
2.1.3. Khái quát tình hình hoạt động của NHCT Sông Nhuệ chi
nhánh tỉnh Hà Tây.
* Khái quát tình hình hoạt động của NHCT Sông Nhuệ
Quá trình đổi mới và phát triển của NHCT Sông Nhuệ gắn liền với
sự đổi mới của hệ thống NH Việt Nam, là hệ quả của quá trình đổi mới và
phát triển kinh tế đất nước do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng và tổ chức
thực hiện. Chuyển từ một chi nhánh NHNN sang một chi nhánh NHTM,
NHCT Sông Nhuệ đã hoà nhập kịp thời với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường. Tập thể cán bộ và nhân viên NHCT Sông Nhuệ đã phấn đấu thực
hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao với mục tiêu kinh tế then chốt ổn
định, an toàn, hiệu quả và phát triển.
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, Ngân hàng chú trọng đổi mới
trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội ngày
càng cao. Trong hoạt động, ngân hàng đã từng bước không những thực
hiện tốt các nghiệp vụ ngân hàng truyền thống mà còn mở rộng các nghiệp
vụ kinh doanh khác.
Cùng trên địa bàn còn có sự cạnh tranh gay gắt từ phía các NHNN &
PTNT, NH Đầu tư và phát triển nên NHCT Sông Nhuệ luôn cố gắng tạo
lập uy tín tốt với các khách hàng bằng trình độ nghiệp vụ và cơ sở vật chất
trang thiết bị của mình. Ngân hàng luôn chủ động mở rộng mạng lưới giao

dịch, đa dạng hoá các loại hình kinh doanh tiền tệ, không ngừng nâng cao
công tác huy động và sử dụng vốn cả về số lượng và khối lượng, thay đổi
cơ cấu đầu tư, phục vụ sự phát triển của kinh tế tỉnh Hà Tây nói riêng và sự
nghiệp CNH - HĐH ở nước ta nói chung. Có được kết quả như vậy là do
trong năm qua, NHNN Việt Nam, NHCT Việt Nam đã có nhiều biện pháp
trong quản lý điều hành, có nhiều cởi mở trong cơ chế tín dụng, cùng với
sự giúp đỡ của UBND tỉnh Hà tây và các cơ quan có liên quan, đã tạo điều
kiện thuận lợi thực hiện tốt những mục tiêu mà NHCT sông Nhuệ đã đặt ra.
Những thành tựu ấy thể hiện rất rõ qua một số công tác sau:
.a. Công tác huy động vốn
Đây là một trong hai công tác chính của bất kỳ một Ngân hàng nào.
Với tư cách là Trung gian tài chính, Ngân hàng là nơi tập trung mọi nguồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều hình thức huy động đa dạng nhằm
mục tiêu là xây dựng được nguồn vốn tối ưu vừa đáp ứng nhu cầu tín dụng
với một chi phí hợp lý. Ngân hàng chỉ có thể cho vay được khi có nguồn
vốn dồi dào do đó nó luôn là điều kiện tiên quyết, là tiền đề của mọi hoạt
động kinh doanh tiền tệ trong Ngân hàng. Trong những năm qua, NHCT
Sông Nhuệ Tận dụng được lợi thế địa hình… Bên cạnh đó Ngân hàng cũng
đã chú trọng tới đổi mới tác phòng làm việc, sử dụng các biện pháp
Sinh viªn thùc hiÖn: Qu¸ch Anh TuÊn

×