Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Tài liệu ôn thi đại học môn văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.13 KB, 81 trang )

Tài liệu ôn thi đại học môn văn
1.Hoàn cảnh sáng tác của “ Tiếng hát con tàu ” :
1. Tiếng hát con tàu (in trong tập Ánh sáng và phù sa , xuất bản năm 1960) được gợi cảm
hứng từ một chủ trương lớn của Nhà nước vận động nhân dân miền xuôi lên xây dựng kinh tế
miền núi vào những năm 1958 - 1960 ở miền Bắc. Nhưng xét sâu hơn, bài thơ ra đời chủ yếu
vì nhu cầu giãi bày tình cảm ân nghĩa của tác giả đối với nhân dân, đối với cuộc đời và cách
mạng.
2. Bài thơ ra đời khi chưa có đường tàu lên Tây Bắc. Hình ảnh con tàu thực chất là hình ảnh
biểu tượng, thể hiện khát vọng lên đường và niềm mong ước của nhà thơ được đến với mọi
miền đất nước. Tiếng hát con tàu , như vậy, là tiếng hát của tâm hồn nhà thơ - một tâm hồn
tràn ngập niềm tin vào lý tưởng, vào cuộc đời. Tâm hồn nhà thơ đã hóa thân thành con tàu,
hăm hở làm cuộc hành trình đến với Tây Bắc, đến với cuộc sống lớn của nhân dân. Đến với
đất nước, nhân dân cũng là đến với cội nguồn của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, trong đó có
thơ ca.
2.Hoàn cảnh sáng tác của Tây Tiến (Quang Dũng)
1. Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đây là
một đơn vị thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới
Lào - Việt, đồng thời đánh tiêu hao địch và tuyên truyền đồng bào kháng chiến.
2. Địa bàn hoạt động của đoàn khá rộng: từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng
về qua miền tây Thanh Hóa. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc
nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có nhiều học sinh, trí thức (như Quang Dũng). Sinh
hoạt của họ vô cùng thiếu thốn, gian khổ: trèo đèo, luồn rừng, lội suối, ăn uống kham
khổ, ốm đau không có thuốc men (đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều). Tuy vậy,
họ sống rất vui và chiến đấu rất dũng cảm. Lòng yêu nước khiến họ có thể hy sinh tất
cả - "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh ". Vì thế đoàn quân sốt rét vẫn khiến kẻ địch
phải khiếp sợ " Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
3. Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về thành lập trung đoàn
52. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị ít lâu, ngồi ở Phù
Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), ông viết bài thơ Nhớ Tây Tiến . (Năm
1957, khi in lại Quang Dũng bỏ chữ "nhớ", có lẽ vì cho là thừa). Bài Tây Tiến rút trong
tập Mây đầu ô (NXB Tác phẩm mới, 1986).


3. Hoàn cảnh sáng tác của Bên kia sông Đuống
1. Bài Bên kia sông Đuống ra đời năm 1948. Sông Đuống còn gọi là sông Thiên Đức, là một
nhánh của sông Hồng nối với sông Thái Bình, chia tỉnh Bắc Ninh ra làm hai phần: nam (hữu
ngạn) và bắc (tả ngạn). Quê hương, gia đình Hoàng Cầm ở nam phần tỉnh Bắc Ninh, ngay
bên bờ sông Đuống. Khi giặc Pháp chiếm nam phần Bắc Ninh thì Hoàng Cầm đang công tác
ở Việt Bắc. Một đêm giữa tháng 4 năm 1948, Hoàng Cầm trực tiếp nghe tin giặc đánh phá
quê hương mình, ông xúc động và ngay đêm ấy viết bài Bên kia sông Đuống - "bên này" là
đất tự do, hướng về "bên kia" là vùng bị giặc chiếm đóng và giày xéo.
2. Bài thơ đăng lần đầu tiên trên báo Cứu quốc tháng 6 năm 1948. Nó được phổ biến nhanh
chóng từ Việt Bắc tới khu Ba, khu Bốn, vào miền Nam và ra tận Côn Đảo. Bản thảo gốc của
bài thơ không còn nữa. Vì thế có nhiều dị bản và không có bản nào hoàn toàn đúng với bản
gốc. Tất cả đều chỉ dựa theo trí nhớ "mang máng" của tác giả như chính ông đã thú nhận, và
trí nhớ của những ngời biên soạn sách hay biên tập báo. Trong SGK này, văn bản Bên kia
sông Đuống được chỉnh lí lại dựa trên sự đối chiếu nhiều văn bản khác nhau và trí nhớ được
khôi phục đầy đủ hơn của nhà thơ. Văn bản này được tác giả xác nhận là gần với bản gốc hơn
cả.
4.Hoàn cảnh sáng tác của Mới ra tù tập leo núi
1
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
1. Bài thơ này Chủ tịch Hồ Chí Minh làm sau khi ra tù (khoảng giữa tháng 9 năm 1943), nó
không nằm trong Nhật kí trong tù nhưng thường được đặt ở cuối bản dịch tập thơ này như
bài kết thúc. Về mặt phong cách nghệ thuật, " Mới ra tù, tập leo núi " không khác gì các bài
thơ trong tập Nhật kí trong tù.
2. Trong tập hồi ký Những chặng đường lịch sử (NXB Văn học, Hà Nội, 1976), Đại tướng
Võ Nguyên Giáp cho biết về ý nghĩa ngụ ý nhắn tin (về nước) của bài thơ như sau: "Bữa ấy,
tôi về cơ quan hội báo tình hình thì thấy anh Đồng, anh Vũ Anh và anh Lã đang xúm xít
quanh một tờ báo. Các anh chuyển tờ báo và hỏi tíu tít: - Anh xem có đúng là chữ của Bác
không ? Đó là một tờ báo ở Trung Quốc mới gửi về, bên mép trắng có một hàng chữ Hán viết
tay. Tôi nhận ngay ra đúng là chữ Bác, Bác viết: "Chúc chư huynh ở nhà mạnh khỏe và cố
gắng công tác. Ở bên này bình yên". Phía dưới lại có một bài thơ ". Trong cuốn Vừa đi

đường vừa kể chuyện, T.Lan lại cho biết hoàn cảnh cảm hứng của bài thơ như sau: "Khi được
thả ra, mắt Bác nhìn kém, chân bước không được, Bác quyết tâm tập đi, mỗi ngày 10 bước,
dù đau mà phải bò, phải lết cũng phải được 10 bước mới thôi. Cuối cùng Bác chẳng những đi
vững mà còn trèo được núi. Lần đầu tiên lên đỉnh núi, Bác cao hứng làm một bài thơ chữ
Hán ".
5. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tâm tư trong tù
Đầu năm 1939, tình hình thế giới trở nên căng thẳng, cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai
có nguy cơ bùng nổ, thực dân Pháp trở lại đàn áp phong trào cách mạng ở Đông Dương. Cuối
tháng Tư năm ấy, Tố Hữu bị chính quyền thực dân bắt ở Huế trong một đợt khủng bố Đảng
Cộng sản. Tâm tư trong tù được viết tại xà lim số 1 nhà lao Thừa Thiên (Huế) trong những
ngày đầu tiên nhà thơ bị bắt giam. Bài thơ này mở đầu cho phần "Xiềng xích" của tập thơ Từ
ấy (1946).
6.Hoàn cảnh sáng tác của Việt Bắc
1. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương được ký kết (tháng
7 năm 1945), hòa bình trở lại, miền Bắc nớc ta được giải phóng. Một trang sử mới của đất
nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra.
2. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt
Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện thời sự có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt
Bắc. Phần đầu bài thơ tái hiện một giai đoạn khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở
chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỷ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau nói
lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất
nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng với dân tộc.
Việt Bắc là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của văn học
Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
7. Hoàn cảnh sáng tác của Vi hành
1. Giữa năm 1922, thực dân pháp đưa Vua bù nhìn Khải Định sang Pháp dự cuộc triển lãm
thuộc địa Vecxây. Đây là một âm mưu của chúng nhằm lừa gạt nhân dân Pháp: Vị quốc
vương An Nam này đại diện cho 1 dân tộc lớn nhất ở Đông Dương, sang Pháp để tỏ thái độ
hoàn toàn quy phục "mẫu quốc" và để cảm tạ công ơn "khai hóa" của mẫu quốc. Như vậy
tình hình Đông Dương là ổn định và tốt đẹp, nhân dân Pháp nên nhiệt tình ủng hộ cuộc đầu

tư lớn vào Đông Dương để khai thác tài nguyên giàu có ở xứ này và tiếp tục đem văn minh
tiến bộ đến cho những người dân được nước Pháp bảo hộ.
2. Nguyễn Ái Quốc viết "Vi hành" vào đầu năm 1923 để cùng với vở kịch "Con rồng tre"
truyện ngắn "Lời than vãn của bà Trưng Trắc" bài báo "Sở thích đặc biệt" (viết năm 1922)
lật tẩy âm mưu nói trên của thực dân Pháp. Đồng thời vạch trần tính chất bù nhìn tay sai dơ
dáy của Khải Định và tố cáo tính chất điêu trá của những danh từ "văn minh, khai hóa" của
chủ nghĩa thực dân.
2
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
8.Hoàn cảnh sáng tác của Nhật ký trong tù
1. Nhật ký trong tù là một tập nhật ký bằng thơ viết trong nhà tù. Sau một thời gian về n-
ước và công tác tại Cao Bằng, tháng 8 năm 1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh
lên đường trở lại Trung Quốc với danh nghĩa đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh và
Phân ban quốc tế phản xâm lược của Việt Nam để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế. Sau nửa
tháng trời đi bộ, đến Túc Vinh, Quảng Tây (29-8), Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch
bắt giam. 14 tháng ở tù (từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943), tuy bị đày ải vô cùng cực khổ
("Sống khác loài người vừa bốn tháng, Tiều tụy còn hơn mười năm trời"), lại bị giải đi quanh
quẩn qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc Quảng Tây, Người vẫn làm thơ. Người đã sáng
tác 133 bài thơ bằng chữ Hán ghi trong một cuốn sổ tay mà Người đặt tên là Ngục trung nhật
ký (tức Nhật ký trong tù).
2. Tập Nhật ký trong tù, vì thế, vừa ghi lại được một cách chân thực - chân thực nhiều khi
đến chi tiết - bộ mặt đen tối và nhem nhuốc của chế độ nhà tù cũng như của xã hội Trung
Quốc thời Tưởng Giới Thạch, vừa thể hiện được tâm hồn phong phú, cao đẹp của người tù vĩ
đại. Về phương diện này, có thể xem Nhật ký trong tù như một bức chân dung tự họa con ng-
ười tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: vừa kiên cường bất khuất -"Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao"- vừa mềm mại, tinh tế, hết sức nhạy cảm với mọi biến thái của thiên
nhiên và lòng người; vừa ung dung tự tại, hết sức thoải mái, như bay lượn ở ngoài tù, vừa
nóng lòng sốt ruột như lửa đốt, khắc khoải ngóng về tự do, mòn mắt nhìn về Tổ quốc; vừa
đầy lạc quan tin tưởng; luôn luôn hướng về bình minh và mặt trời hồng, vừa trằn trọc lo âu,
không bao giờ nguôi nỗi đau lớn của dân tộc và nhân loại, nhiều đêm một mình đối diện đàm

tâm với vầng trăng lạnh. Tất cả bắt nguồn từ bản chất của một tâm hồn yêu nước lớn, một
tấm lòng nhân đạo lớn, một cốt cách nghệ sĩ lớn.
9.Hoàn cảnh sáng tác của Tuyên ngôn độc lập
1. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân, Ngày 26 tháng 8
năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn
nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2.9.1945, tại
quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào.
2. Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: tuyên bố chấm dứt chế độ
thực dân, phong kiến ở nước ta và mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc. Tuyên
ngôn Độc lập là một bài văn chính luận ngắn gọn, lập luận chặt chẽ đanh thép, lời lẽ hùng
hồn và đầy sức thuyết phục.
10. Tác giả Nam Cao:
1. Tiểu sử và con người
Tiểu sử: Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri. Ông sinh năm 1915 tại làng Đại Hoàng,
tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc xã Hòa Hậu, huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam).
Học xong bậc thành chung ông ước mơ đi xa nhưng không thành vì sức khỏe, trở lại quê
hương sau đó ông lên Hà Nội dạy học giữa lúc tình hình có nhiều biến động: quân Nhật đảo
chính Pháp ở Đông Dương
Năm 1943, Nam Cao tham gia hội văn hóa cứu quốc do Đảng cộng sản tổ chức và lãnh
đạo, tham gia cướp chính quyền ở địa phương. Sau cách mạng tháng Tám, ông tham gia
nhiều công tác khác nhau: công tác ở Hội văn hóa cứu quốc, Nam tiến, làm tuyên truyền,
tham gia chiến dịch biên giới
Tháng 11 năm 1951, Nam Cao đã bị địch phục kích và bắt được trên đường vào công tác
vùng sau lưng địch thuộc Liên khu III và bị chúng bắn chết ở gần Hoàng Đan (thuộc tỉnh
Ninh Bình).
3
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
Con người: Trớc cách mạng, Nam Cao mang nặng tâm sự u uất của một người trí thức

giàu tâm huyết phải chịu cảnh bị xã hội bóp nghẹt sự sống con người. Ông luôn giữ cho mình
một tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương, một lối sống gắn bó với con người, đặc biệt là
những người nông dân nghèo khổ. Là một trí thức, Nam Cao đôi lúc không tránh khỏi việc bị
ảnh hưởng lối sống của tầng lớp tiểu tư sản, nhưng ông luôn nghiêm khắc tự đấu tranh với
bản thân để vượt qua những cám dỗ của lối sống thoát li, hưởng lạc, tầm thường, nhỏ nhen.
2. Sự nghiệp văn học
Sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: cuộc sống người trí
thức tiểu tư sản nghèo và cuộc sống người nông dân.
- Đề tài người trí thức tiểu tư sản: Tập trung ở tiểu thuyết Sống mòn và các truyện ngắn:
Những chuyện không muốn viết; Trăng sáng; Mua nhà; Nước mắt; Đời thừa Nội dung chủ
yếu nhằm miêu tả chân thực tình cảnh nghèo khổ, bế tắc tù túng của tầng lớp này, đồng thời
các tác phẩm cũng thể hiện bi kịch tinh thần đau đớn và dai dẳng của người trí thức: những
con người có ý thức sâu sắc về sự sống, sống có hoài bão, có nhân cách nhưng cứ bị gánh
nặng cơm áo hàng ngày làm cho chết mòn về tâm hồn. Ở đề tài này, nhiều sáng tác của Nam
Cao cũng đã diễn tả cuộc đấu tranh trong bản thân người trí thức nhằm đạt tới một lẽ sống
cao đẹp hơn.
- Ở đề tài về cuộc sống tăm tối thê thảm của người nông dân đương thời, Nam Cao có các
tác phẩm đáng chú ý: Lão Hạc; Chí Phèo; Một đám cưới, Dì Hảo; Một bữa no Nội dung
của các tác phẩm tập trung làm rõ cuộc đời khốn cùng, thê thảm của ngời nông dân: bị ức
hiếp, chịu nhiều bất công, bị hắt hủi, xúc phạm về nhân phẩm. Nhà văn đã kết án sâu sắc cái
xã hội tàn bạo huỷ diệt cả nhân tính của những con người vốn có bản tính lương thiện. Trong
nhiều tác phẩm viết về đề tài người nông dân nhà văn luôn đi sâu phát hiện và khẳng định
bản chất lương thiện đẹp đẽ cao quí trong tâm hồn họ, ngay cả khi những người nông dân này
bị vùi dập tới mất cả nhân hình, nhân tính.
Không chỉ là một đại diện tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực trước cách mạng tháng
Tám, Nam Cao còn là cây bút tiêu biểu nhất của chặng đầu nền văn học mới. Sau cách mạng
tháng Tám, Nam Cao sáng tác để phục vụ công cuộc kháng chiến. Truyện ngắn "Đôi
mắt'”(1948); Nhật ký ở rừng (1948) và tập bút ký Chuyện biên giới (1950) là những sáng tác
thành công của Nam Cao góp phần vào nền văn học mới còn rất non trẻ của chúng ta.
Là một tài năng độc đáo, lại có một tấm lòng nhân đạo rất sâu sắc. Nam Cao xứng đáng đ-

ược coi là một nhà văn lớn, một nhà văn có vị trí hàng đầu của nền văn học Việt Nam thế kỷ
XX.
3. Quan điểm nghệ thuật
Nam Cao thường không phát biểu một cách trực tiếp quan điểm về nghệ thuật mà ông thể
hiện nó rải rác trong các sáng tác của mình: Trăng sáng (1943); Đời thừa (1943); Đôi mắt
(1948).
Trước cách mạng, quan điểm nghệ thuật của Nam Cao thể hiện ở mấy nét lớn như sau:
- Nam Cao phủ nhận nghệ thuật lãng mạn thoát li, khẳng định nghệ thuật chân chính phải
là nghệ thuật hiện thực gắn bó với đời sống, phản ánh chân thực đời sống. Người cầm bút
không được trốn tránh sự thực, dù cho sự thực ấy chẳng nên thơ chút nào.
- Quan điểm hiện thực và nhân đạo: tác phẩm văn học có giá trị không chỉ phản ánh sự
thực đời sống mà còn phải có giá trị nhân đạo sâu sắc.
- Nam Cao coi lao động nghệ thuật là một hoạt động nghiêm túc, công phu; người viết văn
phải là người có trách nhiệm, có lương tâm; ông lên án gay gắt sự cẩu thả trong nghề văn.
- Văn chương đồng nghĩa với sáng tạo tìm tòi không ngừng cả về hình thức nghệ thuật và
nội dung.
4
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
Sau cách mạng tháng Tám, trong truyện ngắn Đôi mắt, Nam Cao đặt ra vấn đề cách nhìn
của nhà văn đối với hiện thực đời sống và con người để viết ra những tác phẩm có ích cho
cuộc đời.
4. Đặc điểm nghệ thuật viết truyện của Nam Cao
- Cách viết rất chân thực, có tầm khái quát cao, người đọc có cảm tưởng nhà văn không hề
hư cấu. Tất cả đều thật, nhưng từ những chuyện xoàng xĩnh đời thường tưởng như không có
ý đáng nói đó, nhà văn làm nổi bật những vấn đề có ý nghĩa to lớn về xã hội, nhân sinh -
nhiều truyện của Nam Cao có màu sắc triết lí sâu xa.
- Xây dựng nhân vật sống động, chân thực, trong đó có những điển hình bất hủ như Chí
Phèo, Bá Kiến, lão Hạc Sở trường miêu tả, phân tích tâm lí, có khả năng đi sâu vào những
ngõ ngách tâm tư sâu kín cùng những diễn biến phức tạp trong nội tâm con người (Đời thừa,
Chí Phèo, Một đám cưới).

- Cách kể chuyện, kết cấu rất linh hoạt, mới mẻ, nhà văn vào chuyện, dẫn chuyện tự nhiên,
lôi cuốn, kết cấu thoải mái, có vẻ tùy tiện mà hình thức chặt chẽ, truyện nhiều khi được kể
theo quan điểm nhân vật nên giàu sắc thái chân thực. Ngôn ngữ hết sức tự nhiên sinh động,
gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng, lời kể của tác giả, lời nhân vật thường đan
xen biến hóa → giọng điệu biến hóa linh hoạt.
⇒ "Nam Cao là một trong những nhà văn đem lại cái mới nhất, có đóng góp nhiều nhất
cho sự phát triển của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam hiện đại" (Nguyễn Hoành Khung)
C.Định h ớng ra đề và gợi ý giải:
Đề 1: Anh (chị) hãy trình bày những hiểu biết của mình về sự nghiệp văn học của
Nam Cao. Kể tên những tác phẩm đợc xem nh là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn tr-
ớc và sau cách mạng 8/1945, ghi rõ năm xuất bản.
Sử dụng kiến thức mục II về sự nghiệp văn học và mục III về quan điểm nghệ thuật của
Nam Cao trong phần kiến thức cơ bản về tác giả.
Đề 2. Nếu "Trăng sáng" (1943) và "Đời thừa" (1943) được xem như là tuyên ngôn
nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám, thì Đôi mắt (1948) chính là tuyên
ngôn nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng. Hãy phân tích các truyện ngắn đó để nêu
lên sự phát triển của tư tưởng nghệ thuật Nam Cao trong các tuyên ngôn nghệ thuật nói
trên.
Gợi ý:
- Trong quá trình phân tích ba tác phẩm của Nam Cao không nên đi vào việc phân tích tính
cách nhân vật mà nên bám sát những quan điểm ý nghĩ của nhân vật để qua đó phát hiện đ-
ược những tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn; sắp xếp chúng lại một cách có hệ thống để thể
hiện rõ bước đường phát triển trong tư tưởng nghệ thuật của Nam Cao.
- Những nội dung chính cần có:
+ Trong truyện ngắn "Trăng sáng", qua những suy nghĩ của Điền - một văn sĩ có cuộc đời
gieo neo, vất vả, Nam Cao khẳng định nghệ thuật chân chính phải bắt rễ trong đời sống hiện
thực, không được thoát li đời sống để trở thành lừa dối: "Nghệ thuật không cần phải là ánh
trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát
ra từ những kiếp lầm than , "ánh trăng lừa dối" ở đây là hình ảnh tiêu biểu cho văn chương
lãng mạn, thoát li, thi vị hòa cuộc sống như ánh trăng thơ mộng và huyền ảo nhưng "làm đẹp

những cái thật ra chỉ tầm thường xấu xí, phê phán tính chất thoát li, quay lưng lại với đời
sống nhân dân của thứ "nghệ thuật vị nghệ thuật”, Nam Cao đòi hỏi văn học phải bắt rễ từ
hiện thực, phải trở về với cuộc sống của hàng triệu con người đau khổ, phải vị nhân sinh,
5
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
phải là "tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than" và vị trí của nhà văn phải là
“đứng trong lao khổ mà mở hồn ra đón lấy tất cả những vang vọng của đời ”
+ Với "Trăng sáng", Nam Cao đã thể hiện một quan điểm nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ.
Nhưng Nam Cao không dừng lại ở đấy. Đến "Đời thừa", ông lại gửi gắm những suy tư và
những quan niệm sâu sắc của mình về nghề văn và sứ mệnh chân chính của người cầm bút
qua nhân vật Hộ. Qua nhân vật Hộ, Nam Cao cho rằng: "Văn chương không cần đến những
người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đã cho. Văn chương chỉ dung nạp được những
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa
có". Câu nói ngắn gọn nhưng nó đã thâu tóm những yêu cầu thật gắt gao, nghiêm túc đối với
người sáng tác văn chương. Nghệ thuật đồng nghĩa với sự sáng tạo, nhưng đó cũng không
phải là đi tìm cái lạ một cách màu mè, hình thức mà phải là khám phá cho được sự thật. Cũng
trong tác phẩm này, qua những quan niệm hết sức đúng đắn và nghiêm túc của Hộ về nghề
văn, Nam Cao cho rằng: Nghề văn là một thứ lao động xã hội nghiêm túc đòi hỏi cao về trách
nhiệm và lương tâm: "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự
cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện" và mục đích của văn chương là nhân đạo: "Một
tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi Nó phải chứa đựng một cái gì lớn
lao, mạnh mẽ, bác ái, sự công bình Nó làm cho người gần người hơn".
+ Truyện ngắn "Đôi mắt" được viết trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp (1948),
là thời điểm "tìm đường" và "nhận đường" của lớp văn nghệ sĩ thuộc thế hệ trước Cách
mạng tháng Tám . Qua cách nhìn người và nhìn đời của hai nhà văn Hoàng - con người có cái
nhìn phiến diện, sai lệch và Độ - con người có cách nhìn đúng đắn, toàn diện, độ lượng và
thông cảm với người lao động; Nam Cao đã đặt ra trong tác phẩm của mình một vấn đề hết
sức quan trọng đối với hoạt động sáng tạo nghệ thuật: Đó là cách nhìn của nhà văn đối với
hiện thực đời sống, con người để viết ra những tác phẩm có ích cho đời.
Đề 3: Trình bày quan điểm nghệ thuật của Nam Cao. Chứng minh rằng Nam Cao đã

thực hiện một cách triệt để quan điểm ấy trong các sáng tác của mình (dựa vào các tác
phẩm của Nam Cao có trong chơng trình THPT).
Gợi ý: Bài làm phải giải quyết 2 vấn đề lớn. Nội dung thứ nhất: Trình bày quan điểm nghệ
thuật của Nam Cao. Phân tích chủ yếu là quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước cách
mạng (xem phần III quan điểm nghệ thuật và đề 2 ở trên).
Nội dung thứ hai: Chứng minh sự thể hiện của những quan điểm nghệ thuật đó trong sáng
tác của Nam Cao:
+ Phủ nhận nghệ thuật lãng mạn thoát li đời sống, chống lại quan điểm nghệ thuật vị nghệ
thuật, tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh chân thực bộ mặt của đời sống xã hội Việt Nam
những năm trước cách mạng. Đó là: Bộ mặt của giai cấp thống trị (nhân vật Bá Kiến - tác
phẩm Chí Phèo); Đời sống cực khổ của những ngời nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh
hóa (Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức ); Những tấn bi kịch tinh thần đau đớn và dai dẳng của
người trí thức tiểu tư sản (Điền - Tác phẩm Trăng sáng; Hộ - Tác phẩm Đời thừa).
+ Tác phẩm của Nam Cao chứa chan tinh thần nhân đạo: Nhà văn lên án một cách mạnh
mẽ những thủ đoạn bóc lột của giai cấp thống trị; ông phát hiện những nét đẹp trong tâm hồn
con người, bênh vực và bảo vệ nhân phẩm cho người lao động ngay cả khi họ bị huỷ hoại cả
nhân hình, nhân tính (Chí Phèo), ông ca ngợi những tình cảm đẹp đẽ cao thượng của con ng-
ười (Hộ).
+ Trong sáng tác, Nam Cao là một cây bút có lương tâm, có ý thức cao về nghề nghiệp.
Ông viết không nhiều, nhưng công phu và kỹ lưỡng; không ngừng tìm tòi sáng tạo để có một
con đường cho riêng mình. Bước chân vào làng văn khi đề tài về người nông dân và người trí
thức đã trở nên quen thuộc, Nam Cao vẫn tìm được những hướng khai thác mới mẻ: vấn đề
6
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
lưu manh hóa ở một bộ phận nông dân trước cách mạng; bi kịch tinh thần đau đớn dai dẳng ở
người trí thức tiểu tư sản
11. Tác giả Xuân Diệu
1. Cuộc đời - con người
Xuân Diệu họ Ngô, cha người huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, mẹ người Tuy Phước, Bình Định.
Thủa nhỏ Xuân Diệu học chữ Nho, chữ quốc ngữ với cha - ông đồ xứ Nghệ đỗ tú tài kép Hán

học vào dạy học ở tỉnh Bình Định lấy bà hai sinh ra Xuân Diệu - Xuân Diệu học được ở cha
đức tính cần cù, kiên nhẫn trong rèn luyện tài năng và lao động nghệ thuật.
Sinh ra và lớn lên ở quê mẹ: Biển Qui Nhơn với những cơn "gió nồm thổi lên tươi mát" và
những con sóng biển muôn đời dào dạt đã tác động không nhỏ đối với hồn thơ nồng nàn sôi
nổi của ông.
Là con vợ lẽ, phải xa mẹ từ nhỏ và thường bị hắt hủi thiệt thòi lúc còn ấu thơ, cùng với
những nỗi niềm khuất kín của một người cả đời một mình với thơ Hoàn cảnh ấy khiến
Xuân Diệu luôn khao khát tình thương và sự cảm thông của người đời.
2. Sự nghiệp
Xuân Diệu là một tài năng nhiều mặt, nhưng trước hết ông là một nhà thơ lớn của nền văn
học Việt Nam: "người đã đem đến cho thơ ca nhiều cái mới nhất" (Vũ Ngọc Phan - Nhà văn
hiện đại). Như số đông các nhà thơ Mới đi theo cách mạng, Xuân Diệu có 2 giai đoạn sáng
tác chủ yếu trước và sau cách mạng.
a) Trước cách mạng: Với các tập : "Thơ thơ" 1938, "Gửi hương cho gió" (1945) Xuân
Diệu trở thành nhà thơ "mới nhất trong những nhà thơ mới", thơ ông luôn rạo rực tình yêu,
vội vàng, giục giã mọi người hưởng thụ vẻ đẹp thiên nhiên, tình yêu, cuộc sống. Say đắm
nồng nàn vồ vập nhưng vẫn đơn côi bơ vơ. Đó là 2 mặt đối lập mà thống nhất trong tiếng thơ
Xuân Diệu thời kỳ này.
Thơ Xuân Diệu đổi mới nhiều trong cảm nhận và diễn đạt. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của thơ
lãng mạn phương Tây từ cảm hứng đề tài, đến tứ thơ, nhịp điệu cú pháp cùng ý thức cái tôi cá
nhân. Đồng thời Xuân Diệu vẫn học hỏi ở thơ Phương Đông cổ xưa. Nhờ vậy thơ ông thể
hiện được những nét tinh vi tế nhị của lòng người, của cảnh sắc thiên nhiên, được đông đảo
độc giả say mê ngưỡng mộ.
b) Sau cách mạng: Nhiều tập thơ ra đời tiếp tục khẳng định năng lực và bút lực của Xuân
Diệu: Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau - Cầm tay (1962) Một khối hồng (1964) Tôi giàu đôi
mắt (1970).
Khắc phục tâm trạng buồn bã cô đơn thời trước, thơ Xuân Diệu giờ ca ngợi cuộc sống mới
xây dựng và chiến đấu, thể hiện sự gắn bó hòa hợp giữa cái riêng và cái chung, giữa cá thể thi
sĩ và tập thể nhân dân. Nhà thơ khẳng định:
Tôi cùng xương cùng thịt với nhân dân tôi

Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao
Ngoài giọng điệu trữ tình chủ đạo thơ Xuân Diệu thời kỳ sau cách mạng còn thể hiện giọng
chính luận, trào phúng, đả kích có lúc do khuynh hướng "Đại chúng hóa" khiến thơ Xuân
Diệu sa vào dông dài nhưng đồng thời cũng đã có những sáng tạo đặc sắc do khai thác nghệ
thuật của ca dao dân ca tục ngữ.
Tóm lại: Non nửa thế kỷ sáng tác, Xuân Diệu thật sự là nhà thơ lớn của dân tộc ta. Riêng
về mặt thơ tình, ông xứng đáng với lời thơ của Khương Hữu Dụng: "Một thế hệ yêu - tỏ tình
qua thơ Xuân Diệu”.
Định hướng đề - gợi ý giải:
7
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
Đề 1. Những nhân tố ảnh hưởng đến con người và thơ Xuân Diệu ? (xem phần I : Cuộc
đời - con người).
Đề 2. Trình bày những nét chính trong sự nghiệp văn học của nhà thơ Xuân Diệu
(xem phần II: Sự nghiệp).
Đề 3. Về thơ Lãng mạn của Xuân Diệu, Hoài Thanh trong thi nhân Việt Nam có nhận
xét: "Thơ Xuân Diệu còn là nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ
này".
Hãy bình luận ý kiến trên.
Gợi ý:
a) Mở bài:
+ Giới thiệu phong trào thơ mới - vị trí của Xuân Diệu
+ Đưa ý kiến của Hoài Thanh - Vấn đề cần bình luận.
b) Thân bài:
+ Khẳng định ý kiến của Hoài Thanh: "Nguồn sống rạt rào là sức hấp dẫn đặc biệt của
tiếng thơ Xuân Diệu".
+ Biểu hiện qua những đặc sắc về nội dung: Thơ Xuân Diệu lôi cuốn đông đảo bạn đọc bởi
một niềm ham sống bồng bột.

Thơ Xuân Diệu bộc lộ niềm ham muốn vô biên tuổi trẻ và tình yêu. Ông luôn hối hả giục
giã kêu gọi mọi người hưởng thụ tình yêu và tuổi trẻ.
+ Biểu hiện qua những cách tân về nghệ thuật:
Nguồn sống rạt rào chưa từng thấy của thơ Xuân Diệu còn xuất phát từ giọng điệu thơ mới
mẻ, cuốn hút, từ lối xây dựng hình ảnh, sử dụng ngôn từ độc đáo hấp dẫn.
+ Lý giải : Nguồn sống rào rạt của thơ Xuân Diệu nằm trong không khí chung của trào lưu
thơ mới đương thời.
+ Ý nghĩa: Thơ lãng mạn Xuân Diệu là một trong những luồng gió mới lạ nhất thời trên thi
đàn dân tộc thời kỳ này. Nó mang đến cho bạn đọc niềm vui sống, một triết lý sống mới mẻ,
tích cực cho đến hôm nay vẫn chưa hề xưa cũ.
c) Kết luận: Khẳng định sức sống trường tồn của thơ Xuân Diệu
TỐNG BIỆT HÀNH
Thâm Tâm
A.Yêu cầu
- Thấy được vẻ đẹp nhân tính, bi hùng của hình tượng li khách
- Nắm được những đặc sắc nghệ thuật: Đề tài, thể loại, ngôn ngữ.
- Bình giảng được một số đoạn thơ
B.Kiến thức cơ bản
I. Về tác giả - tác phẩm
1. Tác giả:
Thâm Tâm (1917 - 1950) tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh tại thị xã Hải Dương (thuộc
tỉnh Hải Dương ngày nay) trong một gia đình nhà giáo nghèo. Từ năm 1938, Thâm Tâm cùng
gia đình lên sống ở Hà Nội và bắt đầu sáng tác thơ văn. Giá trị nhất trong sự nghiệp của
Thâm Tâm vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có chất giọng riêng - nhất là ở những bài hành, giọng
thơ thường phảng phất hơi thơ cổ. Một số bài thơ của Thâm Tâm cho thấy tâm sự u uất, lòng
yêu nước kín đáo và khát vọng lên đường vì lí tưởng. Kháng chiến bùng nổ, Thâm Tâm làm
công tác văn nghệ trong quân đội, ốm và qua đời năm 1950.
2. Tác phẩm :
8
Tài liệu ôn thi đại học môn văn

Tống biệt hành là bài thơ duy nhất của Thâm Tâm được tuyển trong thi nhân Việt Nam của
Hoài Thanh và Hoài Chân. Có nhà phê bình thơ đã xếp "Tống biệt hành" là một trong mười
bài thơ hay nhất của thơ mới Việt Nam (1932 - 1941).
II. Phân tích:
1. Cảnh đưa tiễn
- Trong thơ cổ và ca dao, các tác giả thường lấy không gian dòng sông để thể hiện cảnh
chia li (Thơ Lý Bạch; ca dao )
- Mở đầu bài thơ Thâm Tâm nhấn mạnh :
Đưa người, ta không đưa qua sông
Như vậy là trong bài thơ Thâm Tâm đã không sử dụng không gian nghệ thuật quen thuộc
là dòng sông. Nhà thơ nói "không đưa qua sông" nhưng kì thực trong tâm trí người đưa tiễn
vẫn thể hiện một dòng sông tâm tưởng. Đó chính là dư âm của những cuộc chia li trong thơ
cổ, rất gần gũi thân thuộc với tâm trạng, cảm xúc của người Việt. "Không đưa qua sông" mà
vẫn "có tiếng sóng" vẫn "đầy hoàng hôn". "Tiếng sóng ở trong lòng" là để chỉ tâm trạng xao
xuyến; "đầy hoàng hôn trong mắt” để chỉ những nỗi niềm nhớ thương mênh mang, vời vợi
trong lòng người đưa tiễn.
- Cuộc chia ly, đưa tiễn có kẻ ở và người đi. Kẻ ở xứng đáng là tri kỷ, thấu hiểu người đi:
có nỗi niềm bâng khuâng xao xuyến (tiếng sóng ở trong lòng), có tình cảm vẹn toàn dành cho
người đi ("Đưa người ta chỉ đưa người ấy " - người tiễn chỉ biết có người đi, xung quanh vô
nghĩa); người tiễn thấu hiểu nỗi lòng người ra đi (Ta biết người buồn chiều hôm trước. Ta
biết người buồn sáng hôm nay). Có nỗi lòng bàng hoàng thảng thốt sững sờ khi người quyết
dứt áo ra đi (người đi, ừ nhỉ người đi thực ).
- Ấn tượng nhất ở Tống biệt hành là bài thơ đã thể hiện tư thế, hoàn cảnh riêng tư và tâm
trạng để tạo nên vẻ đẹp bi hùng của người lên đường ra đi vì chí lớn.
2. Vẻ đẹp bi hùng của hình ảnh người lên đường vì chí lớn:
- Ôm chí lớn, ly khách (khách ra đi, người đi xa) quyết tâm lên đường hướng theo tiếng gọi
của lí tưởng:
"Ly khách ! Ly khách ! con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại !

Ba năm mẹ già cũng đừng mong"
Người ra đi nói bằng một giọng điệu khảng khái, quyết tâm cao độ, thể hiện tinh thần hăng
hái, quyết chí ra đi vì nghĩa lớn. Các từ phủ định: "chưa về", "không bao giờ", "đừng mong"
thể hiện một ý chí sắt đá, một quyết tâm không gì lay chuyển nổi. Quyết thực hiện đến cùng
chí lớn, nếu chí lớn chưa thành thì không trở về. Tư thế một đi không trở lại của ly khách có
thể so sánh với hình ảnh Kinh Kha sang Tần; hình ảnh người chiến sĩ trong bài thơ Tây Tiến
(Quang Dũng):
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Hoặc hình ảnh người ra đi trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
- Trong cách nói của người ra đi thể hiện hùng khí của những người tráng sĩ xưa, những
con người sẵn sàng ra đi xả thân vì nước, không vướng bận một chút riêng tư, kiên quyết gạt
bỏ những tình riêng nhỏ nhặt. Nhưng đây không phải là con người thời xưa, Thâm Tâm là
một nhà thơ lãng mạn thế kỷ XX, ông tất phải thể hiện trong thơ mình tư tưởng, tình cảm của
9
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
con người thời đại. Chính vì vậy, người ra đi hôm nay vừa có điểm giống với người xưa (ý
chí sắt đá, quyết tâm cao) vừa có những điểm khác so với người tráng sĩ ngày xưa: Ra đi
trong muôn vàn nhớ thương của người thân, người ly khách mang một nỗi niềm bâng khuâng
thương nhớ.
- Hoàn cảnh người ra đi: Mẹ già bóng ngả về chiều, hai chị gái như sen cuối mùa, em còn
bé thơ Bổn phận của người con trai lớn phải là phụng dưỡng, chăm sóc mẹ già; chăm sóc
chị, bảo ban em nhỏ thơ ngây. Người ra đi trong muôn vàn nhớ thương của mẹ của chị, của
em. Tình cảm những ngời thân thật quyến luyến, nhất là chị và em:
- Một chị hai chị cũng như sen
Khuôn nốt em trai dòng lệ sót

- Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay
Một chị, hai chị cũng khuyên nốt em trai bằng những lời cuối, những giọt nước mắt cuối
cùng. Đứa em nhỏ ngây thơ tội nghiệp với chiếc khăn tay chắc hẳn để lại cho người ra đi
những tâm trạng xao xuyến đến nao lòng. Ba vần thơ (vần lưng): "biếc - tiếc - chiếc", gợi tả
nhiều vấn vương trong lòng kẻ ở lại.
- Trong hoàn cảnh ấy, một người bình thường khó có thể dửng dưng, người ra đi nói "Một
giã gia đình một dửng dưng" cốt để che giấu một nỗi buồn riêng khó giấu. Người ra đi không
hoàn toàn dửng dưng. Nhà thơ đã dùng những cách thức khác nhau để kiểm nghiệm điều ấy:
+ "Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong": Trong đôi mắt trong khảng khái ấy đã thấy dâng
ngập một màu hoàng hôn, màu của chia li, cách biệt".
+ "Một giã gia đình một dửng dưng" - người ra đi dường như đã bị phân thân làm hai nửa.
Một nửa "kiên quyết dứt áo ra đi, một nửa còn dùng dằng chưa dứt "một giã gia đình".
+ "Ta biết người buồn chiều hôm trước"
"Ta biết người buồn sáng hôm nay"
Bằng sự cảm thông sâu sắc của một người bạn, ta biết người ra đi rất nặng tình, chính vì
nặng tình nặng nghĩa nên người ra đi mới có một nỗi buồn da diết: Chiều hôm trước buồn,
sáng hôm nay cũng vẫn tình cảm ấy. Người ra đi không dễ dàng khi quyết định rời xa những
tình cảm ruột thịt.
+ Các câu thơ trong đoạn diễn tả tình cảm người ra đi rời rạc, chuyển cảnh liên tục cũng
góp phần thể hiện nỗi xao xuyến, những xáo động trong nỗi lòng người đi. Anh không dám
nhìn lâu vào một ai, nhìn sâu vào một vật gì : Ngước nhìn trời, rồi chuyển sang nhìn chị, quay
mặt nhìn đầm sen, cúi mặt nhìn em Nếu dừng lại lâu ở một người, một vật chắc chắn
chuyến ra đi có thể sụp đổ, không thành.
- Hình ảnh người ra đi hiện lên hấp dẫn trong một vẻ đẹp mạnh mẽ, ngang tàng, anh hùng
của một người mang chí lớn nhưng vẫn dành cho người thân những tình cảm đằm thắm trong
sâu kín cõi lòng. Con người ấy vừa biết hiến thân cho nghĩa lớn, vừa biết buồn thương trong
phút chia ly. Ngoài thì dửng dưng, kiêu bạc lạnh lùng nhưng trong lòng thì quyến luyến ngậm
ngùi buồn bã. Mâu thuẫn nội tâm này có được giải quyết trong khổ thơ cuối ?
- Khổ thơ cuối:

Người đi ? Ừ nhỉ, cùng đi thực !
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say
Cách diễn tả trùng điệp, có nhiều cách hiểu khác nhau:
+ Những người ở lại (Mẹ, chị, em) coi người ra đi là chiều lá bay, là hạt bụi, là hơi rượu
say như một chị, em là chiếc lá bay, là hạt bụi, là hơi rượu say Những cách hiểu này có
phần không phù hợp với tình cảm kẻ ở người đi.
10
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
+ Người ra đi xin người ở lại (mẹ, chị, em ) hãy coi mình như chiếc lá, như hạt bụi, như
hơi rượu say Cách hiểu này có phần hợp lý, nó phù hợp với tâm trạng và hoàn cảnh người
ra đi vì một nghĩa lớn, một chí lớn nhưng trong cõi lòng người đi vẫn chan chứa những đớn
đau dằn vặt và cào xé
3. Những đặc sắc về nghệ thuật
- Bài thơ có những nét trang trọng cổ kính: Sử dụng đề tài, thể loại quen thuộc của thơ cổ,
sử dụng từ Hán Việt nhưng vẫn mang dấu ấn của thơ mới: Tâm trạng đa dạng, phong phú
phức tạp với những giằng xé nội tâm
- Giọng thơ vừa rắn rỏi gân guốc, vừa tha thiết bâng khuâng. Ví dụ trong 4 câu thơ đầu có
sự đan xen giữa các câu thơ nhiều thanh bằng và câu thơ nhiều thanh trắc vừa góp phần diễn
tả vẻ ngoài bình thản, dửng dưng của người ra đi và người ở lại vừa diễn tả những tâm trạng
xao xuyến rối bời của người ở, người đi.
C.Định h ướng đề, gợi ý giải
Đề 1. Phân tích bài thơ "Tống biệt hành" của Thâm Tâm để thấy được vẻ đẹp của
hình tượng ly khách.
Gợi ý: Sử dụng nội dung kiến thức mục 2 phần kiến thức cơ bản, chú ý làm rõ 2 nét chính
trong hình tượng ly khách.
- Dứt khoát kiên quyết lên đường theo tiếng gọi của lý tưởng.
- Nỗi niềm bâng khuâng thương nhớ.
Qua việc phân tích mâu thuẫn trong tâm trạng người đi làm nổi rõ vẻ đẹp bi hùng của hình

ảnh người lên đường vì chí lớn.
Đề 2. Anh (chị) hãy phân tích tâm trạng của người ra đi trong bài thơ Tống biệt hành
của Thâm Tâm.
Gợi ý: Đề không yêu cầu phân tích toàn bộ bài thơ. Phân tích tâm trạng ở đây chủ yếu là
phân tích tâm trạng mâu thuẫn của ly khách: một mặt quyết chí ra đi, mặt khác đầy đớn đau,
dằn vặt cào xé, trong lòng khi chia xa mẹ già, chị gái, em nhỏ thơ ngây
Qua phân tích làm rõ cái hay của bài thơ là đã miêu tả và thể hiện thành công vẻ đẹp của
cái cao cả trong mối quan hệ với thế giới nội tâm sâu kín, chân thật của con người đầy nhân
ái, thể hiện một cách nhìn nhân ái và nhiều, chiều về con người.
Chủ yếu sử dụng kiến thức phần 2 và 3 mục kiến thức cơ bản ở trên.
Đề 3 : Bình giảng đoạn thơ sau trong bài "Tống biệt hành" của Thâm Tâm:
"Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong"
Gợi ý :
Các ý chính cần có:
- "Tống biệt hành" được Thâm Tâm viết theo thể hành, một thể thơ cổ. Không có những
quy định chặt chẽ về số câu, số chữ, vần điệu nhờ đó bài thơ thể hiện cảm xúc được dễ dàng
hơn.
- Bốn câu thơ đầu bài thơ thể hiện cảnh biệt ly của hai người bạn qua hồi tưởng của người
ở lại.
+ Hai câu đầu như một nghịch lý: Không đưa qua sông mà trong lòng có sóng? Một dòng
sông tưởng tượng: "tiếng sóng" trong lòng là nỗi niềm chia ly trào dâng trong mỗi người kẻ ở
người đi. Dòng sông tượng trưng cho ly biệt. Câu đầu toàn thanh bằng. Câu thứ hai có bốn
thanh trắc liên tiếp và từ "sao" nghi vấn tạo sự day dứt trong tâm trạng.
11
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
+ Hai câu tiếp theo: Lại một nghịch lý nữa. Buổi chiều tiễn đưa không có gì đặc biệt mà
sao hoàng hôn lại đầy "trong mắt trong"

+ Hàng loạt từ "không" được sử dụng không làm át được cái "có" hiển hiện trong lòng
người: nhớ thương, bồi hồi xao xuyến, buồn.
- Đoạn thơ trên và cả bài thơ "Tống biệt hành" có một giọng điệu riêng: bâng khuâng, rắn
rỏi, quyết liệt. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, hình ảnh ở đây rất tài hoa, tác giả dùng vần bằng,
phụ âm vang tạo nên sự lan toả, các câu hỏi tu từ, những điệp từ làm tăng thêm chất nhạc và
độ sâu cảm xúc làm "sống lại cái không khí của nhiều bài thơ cổ. Nhưng vẫn đượm chất bâng
khuâng, khó hiểu của thời đại" (Hoài Thanh).
ĐÂY MùA THU TớI
Xuân Diệu
A.Yêu cầu
Nắm được những kiến thức cơ bản:
1. Đặc sắc mùa thu Việt Nam trong cảm nhận của Xuân Diệu
2. Đặc sắc trong cách thể hiện của Xuân Diệu
B.Kiến thức cơ bản
I. Tìm hiểu về tác giả và bài thơ
a) Xuân Diệu (1916 - 1985) là một trong những nhà thơ xuất sắc của thơ ca lãng mạn Việt
Nam 30 - 45. Thơ ông là tiếng nói của một tâm hồn thiết tha yêu đời, khát khao giao cảm với
đời mãnh liệt. Hồn thơ Xuân Diệu luôn nhạy cảm với mọi biến thái của tạo vật và lòng người.
b) "Đây mùa thu tới" trích trong tập thơ "Thơ thơ" (1938) cả bài thơ là niềm cảm xúc dạt
dào của thi nhân trước cảnh đất trời mới chớm vào thu. Đây là bức tranh thu buồn nhưng rất
đẹp, rất nên thơ. Bức tranh thu được tác giả miêu tả ở nhiều khung cảnh, nhiều thời điểm
khác nhau và được cảm nhận từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến mơ hồ, bằng mọi
giác quan bén nhạy, tinh tế cùng toàn bộ linh hồn của cái tôi cô đơn. Bởi vậy cảnh thu hiện ra
vừa đa dạng về đường nét vừa phong phú về màu sắc.
c) Về cảm hứng cũng như về ý tứ, bài thơ dường như không có gì mới lạ. Mùa thu hiện
diện trong văn chương xưa và trong thơ mới khá nhiều. Trong chương trình văn học bậc
THPT đã có chùm thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Trong văn thơ trước phong trào thơ
mới đã có bài "Giọt lệ thu" của nữ sĩ Tương Phố và bài "Cảm thu, tiễn thu" của thi sĩ Tản Đà,
"Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư Những hình ảnh liễu rủ, hoa rụng, cành khô, trăng, mây,
chim cũng đã thường được sử dụng nhiều.

d) Xuân Diệu nhiều lần đưa mùa thu vào trong thơ: có thu buồn (ý thu) có thu vui, rất vui
"Lá không vàng, lá không rụng, lá lại thêm xanh; ấy là mùa thu đã về; mùa thu đã về, yểu
điệu thục nữ. Trời bớt nồng mà thêm mát. Có ai thổi cơm mà khói nhẹ mơ hồ đâu đây chưa
có sương mù, chưa có hẳn sương mờ, chỉ là đôi thoáng mờ, mỏng như chiêm bao không
biết có phải sương thu mới nhóm, hay đó chỉ là sự huyền ảo của chính hồn tôi" (Trường ca -
Thu) Mùa thu trong "Đây mùa thu tới" thì khác hẳn. Trong "Đây mùa thu tới", Xuân Diệu
nhìn theo giác độ: Thu đã tới và sẽ sang đông. Cái viễn cảnh mùa đông tiêu điều khiến Xuân
Diệu thấy thu buồn mà đẹp.
II. Phân tích bình giảng
1. Khổ 1: Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới ! Mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt áo vàng.
Thu ở trạng thái khởi sự.
Nhà thơ đã đón nhận trực khởi bằng thị giác cái dáng vẻ thật tiêu biểu, thật đắm mướt của
mùa thu: rặng liễu. Động từ "Đứng" đi liền với danh từ "Rặng liễu" tạo cho liễu một dáng
12
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
hình cụ thể và từ "chịu tang" đem đến cho liễu một điệu hồn cụ thể. Không phải đây là lần
đầu tiên liễu đi vào thơ nhưng đem đến cho liễu một dáng hình cụ thể, một điệu hồn cụ thể thì
có lẽ chỉ Xuân Diệu mới có.
"Đìu hiu" là tính từ gợi cảm lên sự vắng lặng, hiu hắt, hoang vắng. Dù cho có cả một rặng
liễu đấy mà vẫn đìu hiu. Tâm trạng của chủ thể trữ tình là tâm trạng buồn cô đơn. Sự buồn
vắng của lòng người đứng trước cảnh đã lên tới cực điểm, không gì có thể khỏa lấp được. Nỗi
buồn không dừng lại mà biến thành nỗi sầu như trong cảnh tang tóc. Đây cũng là căn bệnh xã
hội của một thời thi nhân. Chẳng thế mà Chế Lan Viên cũng từng thốt lên:
"Trời ơi chán nản đương vây phủ
"Ý tưởng hồn tôi giữa cõi ta"
Chỉ có điều Chế lan Viên nói thẳng cái buồn của mình còn Xuân Diệu gửi nỗi buồn vào
dáng liễu. Liễu chính là hóa thân nỗi buồn của thi nhân. Bằng hình thức nhân hóa, tác giả vừa

thể hiện được vẻ đẹp của cây lá, lại vừa thể hiện được chiều sâu của tâm trạng. Liễu chẳng
khác nào thiếu nữ buồn xóa tóc đẫm lệ:
"Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:"
Vẫn là lá liễu đấy khi nhìn qua con mắt của niềm vui sẽ trở thành "liễu buông tơ" khi nhìn
qua con mắt của nỗi buồn sẽ trở thành "tóc buồn" buông xuống khi nhìn qua con mắt của nỗi
sầu trở thành "lệ ngàn hàng" tuôn chảy. Đây là ẩn dụ kép diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng.
Như vậy cảnh đã được khúc xạ qua tâm trạng. Nỗi buồn không chỉ thể hiện ở hình ảnh mà
toát ra trong từng âm thanh âm "iu" (đìu, hiu, chịu) âm "ang (tang, ngân, hàng) phụ âm "b"
(buồn, buông) tạo nhạc điệu buồn, du dương, mơ màng. Vì vậy buồn mà vẫn đẹp, vẫn yểu
điệu, tha thướt một vẻ đẹp quí phái trang nhã. Như ban đầu ta đã xác định thu đang ở trạng
thái khởi sự nghĩa là đây là cảnh giao mùa nên sự tàn tạ của mùa hè cha đi hết còn để lại
trong dáng hình của liễu. Cái vui của mùa sau chưa đến nên cảnh lộ rõ vẻ đìu hiu hoang vắng.
Bởi vậy liễu ở trong trạng thái nửa chia li, nửa đợi chờ.
"Đây mùa thu tới ! Mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng"
Ở hai câu trên Xuân Diệu đã khéo chọn một khoảnh khắc thời gian đặc biệt để qua đó thể
hiện một tâm trạng cố hữu: Nỗi buồn mang tính u hoài. Câu thơ thứ 3 có sự chuyển đổi: Liễu
đang buồn bã như mong đợi điều gì bỗng cất lên:
"Đây mùa thu tới ! Mùa thu tới"
Câu thơ 2 vế: Vế một điệp lại toàn bộ tiêu đề bài thơ. Vế 2 điệp lại nhưng bỏ đại từ chỉ thị
"Đây". Sự điệp lại ấy nhấn mạnh sự chào đón. Dấu hai chấm ở cuối dòng thơ trên cùng từ chỉ
định "Đây" khiến lời giới thiệu thêm trang trọng. Sự điệp này diễn đạt một cách tinh tế bớc đi
của thời gian. Điệp ngữ "mùa thu tới" khiến cho giọng thơ gấp gáp hơn, vội vã hơn thể hiện
tâm trạng náo nức có chút gì thảng thốt bâng khuâng:
"Với áo mơ phai dệt lá vàng"
Chữ "dệt" thần diệu đặt giữa câu thơ xôn xao một màu vàng, cái màu vàng của lá vừa tách
khỏi cành lặng lẽ trong hành trình về với đất mẹ. Trước khi tan rữa vào bùn đất, đã giải tỏa
tất cả năng lượng tích lũy trong suốt đời lá dệt vào đất trời tấm áo thu lộng lẫy kiêu xa.
Cảm nhận về màu sắc của Xuân Diệu thật tinh tế. Bằng hình thức so sánh thi nhân đã cảm
nhận được cái kỳ diệu của đất trời trong giây phút đổi thay. Đây đúng là mùa thu trong thơ

lãng mạn. Thi nhân đã vượt lên khỏi công thức cổ điển ở chỗ không chọn hoa cúc hay cây
trúc mà chọn liễu, vốn là biểu trưng cho tuổi trẻ, tình yêu và chia li.
"Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay"
(Nguyễn Du)
13
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
Lấy chất liệu mùa xuân để miêu tả mùa thu, mùa thu Xuân Diệu bởi thế đẹp buồn nhng
không tàn tạ thê lơng mà lên hơng phơi phới tràn đầy xuân sắc xuân thì.
Toàn bộ khổ thơ là cảnh thu đang đến với bớc chân huyền dịu làm xao động đất trời và hồn
ngời.
Khổ 2:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vờn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thu trong trạng thái vận động.
Đặc sắc của khổ thơ ở chỗ tác giả sử dụng nhiều động từ liên tiếp: rụng, rủa, run rẩy, rung
rinh để chỉ ra sự vận động khách quan của thời gian, để tái hiện trạng thái thu sau kỳ khởi sự
(khổ 1). Trạng thái này vốn chỉ diễn ra trong khoảnh khắc chốc lát, mơ hồ, mong manh. Tác
giả dùng bút pháp chuyển đổi cảm giác lấy thị giác thay thế cho xúc giác nhằm hữu hình hóa,
cụ thể hóa một hiện tượng vô hình và trừu tượng: trạng thái vận động của mùa thu. Những
động từ và phép chuyển đổi cảm giác không chỉ đem lại ý nghĩa chính xác gợi cảm mà còn
nhằm chỉ sự bào mòn của thời gian đối với tạo vật, sự thay đổi thiên nhiên từ hạ sang thu. Sự
thay đổi này ở hai phương diện thể xác và tâm hồn.
Có thể nói Xuân Diệu có biệt tài huy động cảm giác trong thơ, khả năng quan sát sự thay
đổi của thiên nhiên tạo vật và khả năng diễn đạt cũng thật mới và đầy ấn tượng.
Hồn thơ Xuân Diệu khi mới xuất hiện trên thi đàn người ta kêu thơ ông Tây quá ! có lẽ
cũng tại cách hành văn "hơn một loài hoa" hay động từ "rủa". Ngay cái đầu bài cũng như dịch
nguyên từ tiếng Pháp. Đây là một cách diễn đạt mới của thơ Việt Nam. Thơ xưa thiên về ước

lệ tượng trưng còn Xuân Diệu thiên về diễn đạt thật chính xác cái mơ hồ mong manh "Hơn
một" nghĩa là không còn một hoặc không biết bao nhiêu. Nếu viết mấy loài hoa thì ít quá.
Câu thơ này được Thế Lữ chữa lại là "Đã mấy loài hoa rụng dưới cành". Nếu là "rụng dưới
cành" diễn tả một cái gì đó ổn định tĩnh lặng. Dụng ý của tác giả là diễn tả thu trong trạng
thái vận động, bởi vậy sau này Xuân Diệu phục hồi lại khi in bài thơ để xuất bản.
Động từ "rủa" ở câu sau cho ta thấy một sự quan sát tinh vi của thi sĩ. Có người cho rằng
đây là màu đỏ "rủa" màu xanh nghĩa là màu đỏ và màu xanh không hòa hợp. Xuân Diệu
không tán đồng ý kiến này mà xem "rủa" là lấn dần, ăn mòn dần. Sắc đỏ cứ lấn dần sắc xanh
từng tý một khó nhận thấy đến một sáng nào đấy nhìn ra cả vườn thu đã đỏ rực. Xuân Diệu
diễn tả tinh vi thanh nhã sự phôi pha trên màu lá, sự phôi pha trên từng hạt diệp lục. Ta không
chỉ thấy thu đến trên từng vòm lá, những dòng sông, những chân trời, những tầng nắng ta còn
thấy thu đến trong từng hạt diệp lục tàn phai màu. Nếu màu xanh thuộc về mùa hạ, thì màu
đỏ là mùa thu. Trên từng chiếc lá, người ta thấy thu về và đang tranh chấp với mùa hạ. Màu
đỏ lấn tới đâu, màu xanh phôi pha tới đó. Mùa thu lan đến đâu mùa hạ lùi bước đến đó.
"Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh" câu thơ khác nào như đã thu nhỏ cả cuộc đổi mùa lớn lao
vào một góc vườn, một chiếc lá đang phai. Màu lá đỏ chỉ ứng với một vài cây như cây bàng
nhưng có lẽ cần một sự tương phản nên Xuân Diệu chọn đỏ đối với xanh. Hai câu dưới của
khổ thơ đợc xem là tuyệt bút.
"Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh"
Mùa thu tới những cơn gió lạnh đầu mùa làm cho cỏ cây run rẩy. Trong thơ cổ điển cũng
đã có những câu thơ sử dụng nghệ thuật láy âm láy ý đầy hấp dẫn:
"Đầu tường lửa lựu lập lập lòe đơm bông" (Nguyễn Du)
"Làn ao lóng lánh bóng trăng loe" (Nguyễn Khuyến)
14
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
Ở đây Xuân Diệu sử dụng kỹ thuật láy phụ âm rung "r" rất tài tình làm cho câu thơ gợi
cảm giác rất mạnh và tạo nên một nhạc điệu riêng. Câu thơ không chỉ cho ta thấy một sự
quan sát lắng nghe tinh tế những biến thái tinh vi của thiên nhiên mà còn là sự giao cảm bên
trong, những rung động mong manh của tâm hồn thi sĩ. Đó là cái run rẩy của lá hay cái run

rẩy rùng mình của tâm hồn tác giả trước cái lạnh của gió thu. Ở đây Xuân Diệu sử dụng lối
diễn tả bằng cảm giác mà ông đã tiếp thu được từ trường phái thơ tượng trưng của chủ nghĩa
cổ điển Pháp thế kỷ 19. Nó làm ta nhớ tới cái "lung linh bóng sáng bỗng rùng mình" hay
"Đàn ghê như nước lạnh trời ơi" (Nguyệt cầm) của chính tác giả. Hai câu sau của khổ thơ
đem lại một cảm nhận thật thấm thía, cảm nhận ấy như lặn vào da thịt về ấn tượng hình hài
của mùa thu. Gió thu trong thơ Nguyễn Khuyến nhè nhẹ, buồn: "Cành trúc lơ phơ gió hắt
hiu". Ở đây Xuân Diệu không chỉ tả gió hay cũng tả nhưng theo cách riêng của nhà thơ mới
đó là nhấn mạnh vào cái lạnh của cảm giác. Việc láy lại phụ âm "r" cho ta cảm giác tất cả
như cùng run lên ớn lạnh. Khác với vẻ buồn thanh tao khi Nguyễn Khuyến phác thảo cần trúc
giữa nền trời thu (Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu), với "Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh"
câu thơ của Xuân Diệu không chỉ chạm khắc trong không gian mà thực sự chạm vào nơi da
non nhất của hồn ta cái cảm giác thấm thía về mùa thu: lạnh lẽo và buồn. Đặt bốn câu thơ
trong hệ thống cả đoạn ta thấy đầu đoạn thơ là hoa rụng lá úa, cuối đoạn in trên nền trời gây
ấn tượng thị giác rất mạnh là các nhánh cây trơ trụi khô gầy, nó tạo ấn tượng vì câu thơ có 7
chữ thì có 6 chữ gợi cái khô gầy run rẩy của cành: (nhánh, khô gầy xương mỏng manh). Duy
chỉ có từ "Đôi" là nói về độ đậm nhưng nó lại chỉ làm tăng thêm độ khô gầy run rẩy của cành
bởi từ "đôi" đứng ở vị trí đầu câu như là hệ số của một phép nhân. Hình ảnh khô gầy trơ trụi
sẽ gợi cảm giác rét mướt. Cảm giác ấy được hiện lên bằng biệt tài sử dụng ngôn ngữ của nhà
thơ, sau nữa là cái tài lặp ý: "Những luồng run rẩy rung rinh lá" gió thổi làm lá rung rinh,
nghĩa thật chỉ có thế. Xuân Diệu đã cảm giác hóa hiện tượng thiên nhiên này để người đọc
không chỉ thu nhận cảnh sắc bằng mắt (trông thấy lá rung rinh) mà còn bằng nhiều giác quan
khác. Tác giả không nói gió mà nói "luồng run rẩy" tưởng như bản thân gió cũng cảm thấy
lạnh mà run rẩy và không phải sự di chuyển của không khí (gió) làm cho lá động mà chính lá
rùng mình vì cảm thấy lạnh của gió đang tới. Hiệu quả của câu thơ là tả cái rét chứ không
phải tả gió bay. Bởi vậy tác động vào giác quan người đọc nh bằng con đường trực giác. Câu
cuối đoạn thơ mang dáng dấp của lối tạo hình phương Đông: chấm phá cái hồn của tạo vật để
nhiều khoảng trống dành cho sự tưởng tượng của người đọc. Đúng như Thế Lữ đã nhận xét:
"Hai luồng văn hóa Đông Tây, cổ điển và hiện đại được kết tinh ở một tâm hồn nghệ sĩ đã
giúp Xuân Diệu sáng tạo nên được những vần thơ ít lời nhiều ý, xúc tích kết đọng biết bao
tinh hoa".

Khổ 3.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Thu đã định hình. Khổ 3 tả trăng, sương, gió.
Những câu thơ của khổ thứ 3 này mang đậm phong cách cổ điển, cổ điển trong từng hình
ảnh. Thơ xưa khi miêu tả mùa thu thường lấy trăng và non làm nét cảnh quan đặc thù. Với
Xuân Diệu cổ điển mà hiện đại bởi "nàng trăng" thì tự ngẩn ngơ, "non xa" thì khởi sự. Khổ
thơ cảm nhận mùa thu tới trong nỗi cô đơn. Gớt đã từng nói "Cô đơn là điểm xuất phát của
nghệ thuật". Có lẽ khi nói điều này thi sĩ danh tiếng ngời Đức đã trở về đúng cội nguồn tâm
hồn người nghệ sĩ và đấy cũng là cội nguồn nghệ thuật. Nỗi buồn trước sự chuyển đổi của đất
trời ở Xuân Diệu dẫn đến cảm giác cô đơn trong tâm hồn thi sĩ, đó là điều tất yếu. Cảm giác
cô đơn được khơi gợi từ cảm nhận giữa thiên nhiên bao la. Một nét ngẩn ngơ tư lự mà thăm
15
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
thẳm nỗi niềm của nàng trăng. Một dãy núi nhạt nhòa sương giăng như nỗi buồn xa vắng,
một bến đò lạnh lẽo vắng khách sang sông.
Bằng lối quan sát và cảm nhận tinh tế của hồn thơ nhạy cảm Xuân Diệu đã mở rộng bức
tranh thu tới cảnh vật ở nơi cao, nơi xa. Vầng trăng thu mang vẻ đẹp riêng: có khi lung linh
huyền ảo, có khi mơ màng trong sương khói. Với Xuân Diệu là "tự ngẩn ngơ". Mùa thu đến
tạo nên những đổi thay trong đêm thu nên vầng trăng cũng mờ ảo tự ngẩn ngơ. "Tự ngẩn
ngơ" chứ không phải bị ngẩn ngơ. Nhà thơ đã hóa thân vào đối tượng để cảm nhận cái trạng
thái ngẩn ngơ từ bên trong. Cái khác biệt giữa Xuân Diệu (nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ
mới) với thi sĩ xưa chính là ở điểm này. Thu đến cái lạnh thấm vào mây trời làm cho hình ảnh
của núi non trở nên nhạt nhòa trong sương mờ "Non xa khởi sự nhạt sương mờ". Hai chữ
"khởi sự" là nói lên sự bắt đầu.
Ta cũng bắt gặp ở khổ thơ này một cảm giác đầy ấn tượng bởi lối diễn đạt hết sức mới:
"Đã nghe rét mướt luồn trong gió". Động từ "luồn" là do Xuân Diêu gán cho thiên nhiên.
Thiên nhiên ở đây chỉ có gió và rét, cố nhiên đó là gió đông bắc. Chữ "luồn" tách gió và rét ra

làm hai thực thể, biến nó thành một thứ nhân vật biết hành động. Bản thân gió không rét, gió
rét là vì rét luồn vào ẩn nấp trong gió. Bởi vậy gió cũng run lên vì rét, lối diễn đạt mới ấy tạo
ra sự sinh động cho câu thơ và đây mới là hiệu quả chính. Cái rét đầu mùa chưa phải đã lộ
mặt mà nó luồn vào ẩn thân ở trong gió. Diễn đạt như thế mới là tinh vi. Chính đây là nét độc
đáo của hồn thơ Xuân Diệu và rộng hơn là của phong trào thơ mới. Câu thơ có sự chuyển đổi
của giác quan cảm giác.
Cảm nhận rét bằng thính giác (nghe)
Cảm nhận rét bằng thị giác (luồn)
Cảm nhận rét bằng xúc giác (rét mướt)
Phép tương giao cảm giác trở thành quen thuộc ở Xuân Diệu. Lúc này trời đã vào thu gió
rét đầu mùa thỉnh thoảng đã thổi về từng cơn bất chợt làm cho con người càng thấy cô quạnh.
Câu cuối đoạn có một bước chuyển. Cái rét mướt sau khi tác động đến lá, cành, trăng, sương,
gió đã tác động tới con người. "Đã vắng người sang những chuyến đò". Câu thơ tạo cảm giác
quạnh vắng đìu hiu sông nước. Không gian sinh hoạt của con người ở đây khiến ta cảm nhận
được nỗi bâng khuâng buồn vắng. Xuân Diệu không trực tiếp tả lòng mình mà gợi ở lòng
người. Bởi vậy trong lời đưa duyên Xuân Diệu đã viết: "Đây là lòng tôi đương thời sôi nổi,
đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân và đây là tuổi xuân của tôi đây là sự sống của tôi nữa. Tôi
gửi hồn tôi đến những người trẻ tuổi nhất là trẻ lòng".

Khổ 4:
Mây vẩn tầng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
Tác giả khẳng định mùa thu đồng nghĩa với biệt li. Điều này có vô lý không khi nhà thơ
từng nói: "Mùa xuân ấp áp nên cần lứa đôi, mùa thu lạnh lẽo nên cần đôi lứa". Với tác giả
mùa thu vừa có tình yêu vừa có cả biệt li. Xuân Diệu vốn khát khao giao cảm với đời với ng-
ời tuyệt đích khát khao ấy gặp thực tế nên dễ buồn chán cô đơn. Mà càng thất vọng thì ngời
ta càng khát khao mãnh liệt hơn bởi xa nay ở đời con ngời vẫn chỉ mong muốn cái mà mình
cha có đợc, đó là lẽ đơng nhiên.

Hai câu đầu tả bầu trời và đám mây vần vũ, cánh chim bay đi chia lìa. Hai câu sau thu xâm
lấn lòng ngời cụ thể ở đây là thiếu nữ. Thu đã chiếm trọn đợc nơi sâu nhất của cõi này.
16
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
Mở đầu bài thơ là hình ảnh rặng liễu. Liễu đợc đặt ứng đối với dáng hình thiếu nữ. Giữa
bài thơ là hình ảnh trăng tự ngẩn ngơ. Trăng cũng đợc đặt trong sự ứng đối với thiếu nữ (nàng
trăng) và kết thúc bài thơ là hình ảnh con ngời (ít nhiều thiếu nữ). Ngời thiếu nữ cũng là một
nét cảnh quan nhng là nét cao nhất, là cảnh quan biết cảm thụ, nghe đợc tất cả cái vắng lạnh
cô đơn từ các cảnh quan khác dồn tới mà buồn. Thiếu nữ ở đây mới là con ngời cụ thể đang
tồn tại.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
Trạng thái buồn không xác định lý do, t thế nghĩ ngợi không xác định duyên cớ. Bài thơ
dừng lại ở một trạng thái một t thế. Nó không khép lại trong một kết luận mà để ngỏ dành cho
sự liên tởng, sự cảm nhận riêng của từng ngời đọc. Khuynh hớng thể hiện ở thơ mới là gợi
mở. Ngời thiếu nữ lặng im, một t thế, một ánh mắt, một khoảng không xa vời. "Tựa cửa nhìn
xa nghĩ ngợi gì". Đúng là tâm trạng của lứa tuổi mới lớn, vui đấy mà lại buồn ngay đấy.
Bài thơ kết thúc ở chỗ ngời đọc bắt đầu cảm giác đợc cái điều thiếu nữ không nói và bài
thơ cũng không nói. Cái điều mà bài thơ không nói, thiếu nữ không nói phải chăng chính là
điệu hồn Xuân Diệu. Khi hồn ta rung lên hòa nhập với Xuân Diệu thì cũng chính là lúc mùa
thu hoàn tất hành trình của mình.
Định h ớng đề - Gợi ý giải
Đề 1. Bình giảng khổ thơ 1
Đề 2. Bình giảng khổ thơ 2
Đề 3. Bình giảng khổ thơ 3
Đề 4. Bức tranh thu và điệu hồn Xuân Diệu trong "Đây mùa thu tới".
Bài giảng đã thực hiện trọn vẹn 4 đề nên không làm đáp án.
Gợi ý đề 1:
1. Giới thiệu vài nét về nhà thơ Xuân Diệu và đoạn trích cần bình giảng trong mối quan hệ
với toàn bài thơ "Đây mùa thu tới" (kiến thức phần tác giả - tác phẩm).

2. Dựa vào các ý chính phần kiến thức cơ bản, triển khai trên cơ sở giảng, bình các tín hiệu
nghệ thuật trong đoạn thơ:
a) Nghệ thuật láy vần, liễu, đìu hiu chịu ) và láy phụ âm (buồn buông ) ở 2 câu đầu tạo
giai điệu u buồn, gợi dáng buông rủ mềm mại của hàng tơ liễu. Trong thơ cổ điển, liễu tợng
trng cho vẻ đẹp thanh tân tuổi trẻ.
"Khi về hỏi liễu Chơng Đài
Cành xuân đã bẻ cho ngời chuyên tay".
Xuân Diệu, thi nhân tiêu biểu của trào lu thơ mới đã đem lại cho liễu một dáng hình cụ thể,
một vẻ đẹp duyên dáng thớt tha của ngời thiếu nữ với tâm hồn và nỗi sầu muộn của con ngời.
Sự nhạy cảm trong liên tởng của thi nhân: Dáng liễu mềm buông rủ nh những nàng thiếu nữ
xõa tóc tuôn lệ.
b) Cách diễn đạt bài thơ trong sự vặn mình chuyển điệu của tiết tấu từ 2/2/3 sang 1/3/3:
Đây/ mùa thu tới/ mùa thu tới. Khiến câu thơ vang lên trang trọng, ngỡ ngàng nh một tiếng
reo. Đây không phải là tiếng reo vui, mà là sự trầm trồ thán phục trớc sự phát hiện vẻ đẹp của
thu, đồng thời nhịp thơ diễn tả cái hối thúc của thời gian một đi không trở lại trong cảm giác
thảng thốt bâng khuâng.
17
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
c) Nghệ thuật nhân hóa: Nàng thu khoác chiếc áo mơ phai dệt bằng muôn lá vàng, chữ
"dệt" đặt giữa câu thơ gợi hồi tởng thời gian nh chiếc thoi chạy trên khung cửa đất trời, dệt
lên chiếc áo mùa thu lộng lẫy kiêu sa bằng những chiếc lá vàng. Đó không phải là những lá
vàng tàn phai héo úa mà là lá vàng vẹn sắc nguyên hơng vừa lặng lẽ tách khỏi cành bay trong
chiều thu mơ mộng, bao phủ không gian bằng sắc màu : mơ phai - sắc màu không có trong
bảng màu hội hoạ. Mong manh và h ảo. Đẹp nh một ảo ảnh. Vẻ đẹp chỉ có trong khoảnh khắc
thu sang.
d) Bức tranh thu xôn xao giai điệu trong sự lan tỏa của các âm tiết, rạng rỡ sắc màu tơi
sáng thanh nhẹ: Nhờ vậy mà đoạn thơ có buồn nhng không tàn tạ bi thơng.
3. Mùa thu là đề tài quen thuộc của nhiều thế hệ thi sĩ. Mùa thu khơi dậy nhiều cảm xúc,
đánh thức mọi giác quan tinh tế của con ngời. Đã là thi sĩ không ai có thể vô tình trớc cảnh
thu. Tam Nguyên Yên Đổ vang danh trong lịch sử vào học nớc nhà với tam thủ tuyệt thi: 3

bài thơ thu trác tuyệt. Tản Đà, Nguyễn Khắc Hiếu con ngời thuộc về 2 thế kỷ cũng mợn "cảm
thu, tiễn thu" để bấc nhịp cầu nối về hai nẻo thi ca. Với các thi nhân cùng thời Xuân Diệu,
mùa thu là cả nỗi niềm riêng của mỗi ngời. Trớc cách mạng thu bao giờ cũng đẹp mà buồn:
khi thì man mác bâng khuâng (Thu rừng - Huy Cận) khi thì huyện diệu mờ ảo (Tiếng trúc
tuyệt vời - Thế Lữ) khi thì lạnh lùng chán chờng (Thu - Chế Lan Viên). Khi thì ngỡ ngàng
ngơ ngác (Tiếng Thu - Lu Trọng L).
Trong âm hởng của tiếng đàn thu muôn điệu ấy, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu vẫn có
nét riêng. Xuân Diệu lấy chất liệu mùa xuân "liễu" để miêu tả mùa thu, khiến mùa thu hiện
lên với vẻ thanh tân quyến rũ. Nhà thơ còn tấu lên trong lòng ngời giai điệu dịu dàng mà tha
thiết, êm ái mà xôn xao trong bớc chân lặng lẽ mà mau lẹ của thời gian, khuyến dụ ngời thêm
yêu cuộc sống, tận hởng cuộc đời. Cái tài của thi nhân chính là với một đề tài quen thuộc mà
không trùng lặp, sáo mòn. Chắc chắn màu mơ phai của thơ Xuân Diệu đã để lại những ấn t-
ợng không thể mờ phai trong tâm hồn nhiều thế hệ độc giả.
THƠ DUYÊN
Xuân Diệu
A.Yêu cầu
Học sinh phải nắm đợc những đơn vị kiến thức
1. Một bài thơ thu trong sáng, hòa hợp tơi tắn
2. Cái nhìn của Xuân Diệu trớc mùa thu
3. Đặc sắc của từng khổ thơ
B. Kiến thức cơ bản
I. Tìm hiểu chung về bài thơ
- Bài thơ viết về đề tài tình yêu trong trạng thái khởi điểm bén duyên của tình ngời đợc thể
hiện qua không gian nghệ thuật đẹp huyền diệu mộng mơ. Trong đó cảnh giao hòa với cảnh,
tình giao hòa với tình, tình giao hòa với cảnh. Từ đó thể hiện sự tự ý thức về bản thân một cái
tôi cô đơn buồn sầu.
- Bài thơ ngoài cảm hứng trạng thái tâm lý yêu đơng rung động đầy đắm đuối lại đan xen
những suy ngẫm mang màu sắc triết lý.
- Bài thơ có hai nhân vật trữ tình: anh và em. Hai nhân vật này nằm trong mối quan hệ
giao hòa của tình ngời nhng lại là đối tợng cảm nhận của thi sĩ. Do đó, đối tợng trữ tình xuất

hiện trong t thế nhập vai.
- Bút pháp thơ tợng trng đợc sử dụng ở cả hai phơng diện: chuyển đổi cảm giác và nhạc
cảm. Bút pháp này tạo ra hiệu quả tinh tế tài hoa đặc trng cho phong cách thơ Xuân Diệu.
II. Phân tích bài thơ
Khổ 1: Cảnh giao hoà với cảnh
18
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đỏ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.
Cảnh thực nhng đợc diễn tả một cách gợi cảm. Chiều mộng là buổi chiều căng tràn sinh
lực sống, buổi chiều đẹp nh trong mộng, buổi chiều của nhạc và thơ. từ buổi chiều ấy đã tạo
nên chất thơ. "Nhánh duyên" là nhánh vô hình đợc thiết lập để tạo cầu giao duyên. Nhánh
duyên mà cũng chính là nhánh thơ, nhánh nhạc. Chính sự giao hòa giữa cảnh vật tạo nên chất
thơ trong tâm hồn thi sĩ. Các giác quan của nhà thơ hớng ngoại để lĩnh hội cái hồn của cảnh.
Cũng là chiều thu đấy nhng trong "Đây mùa thu tới" thì :
"Mây vẩn tầng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly"
Còn ở đây lại: "Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên" căn cứ vào tứ thơ ta có thể phỏng
đoán tâm hồn thi sĩ tại thời điểm này đang dâng đầy niềm vui, niềm đam mê của sự khám
phá. Chẳng vậy mà thi sĩ nhìn thấy "nhánh duyên". Ta có thể hiểu các mối lơng duyên giao
hòa giăng mắc một sự tơng giao và đó chính là nhánh duyên. Tứ thơ thực sự đã thức dậy
trong ta sự liên tởng, tởng tợng. Hơn một lần nhà thơ từng phát hiện:
"Không gian nh có dây tơ
Bớc đi sẽ dứt động hờ sẽ tiêu"
Quả thực thi sĩ là ngời nhìn thấy đợc cái điều mà ngời khác không thể nhìn thấy. Bởi vậy
mà chiều thu với thi sĩ thực sự trở thành chiều mộng, chiều thơ.
Câu thơ tiếp theo nh chú giải cho câu thơ mở đầu. Mọi cảnh vật trong không gian giăng
mắc giao hòa vào nhau tạo ra sức điệu huyền ảo nửa thực, nửa h. Đây là không gian đặc trng

trong thơ Xuân Diệu, là không gian của cảm xúc, của nỗi niềm rung động, là bối cảnh của sự
tác hợp cơ trời (không gian tâm lý hóa). Một sự giao hòa linh diệu giữa cảnh và cảnh đang
diễn ra. "Chiều mộng hòa thơ", hòa thơ ở đâu ? trên nhánh duyên. Trên cây me cặp chim
chuyền đang giao hòa. Âm thanh của sự giao hòa ấy: "ríu rít" âm thanh vừa ấm áp vừa khêu
gợi đầy ấn tợng. Cặp chim chuyền chứ không phải là hai hay đôi. Hai hay đôi mới chỉ là số l-
ợng, còn "cặp" có ý gắn bó thân mật, hòa quyện trong mối tơng giao khăng khít. Một sự hòa
hợp tăng cấp. Cặp chim ấy đang hót, đang trò chuyện rất vui vẻ, rất tình cảm, tiếng xen tiếng,
giọng xen giọng lời nối lời, tởng chừng bất tận. Cú pháp của câu thơ khiến đọc lên, ta tởng
nh cây me cũng theo cặp chim mà ríu rít lên: "cây me ríu rít"
Bao quát cả chiều thu là bầu trời xanh, xanh nh ngọc, xanh ngọc. Thật sự trời thu không
xanh nh thế, trời "xanh ngọc" bởi vì bầu trời đợc nhìn qua muôn lá cây lổ đổ, cây vì trời mà
xanh thêm, trời nhờ lá cây mà có màu xanh ngọc.
"Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá"
Hình ảnh thơ ở câu thứ ba này cũng thật gợi cảm, ta cảm nhận theo cái màu xanh ngọc qua
muôn lá kia vạn vật đang giao hòa với nhau.
Dấu ấn nhạc cảm ở câu thơ thứ 4 đợc biểu hiện qua một cấu trúc giải thích: "Thu đến nơi
nơi động tiếng huyền". Thu đến là hiện tợng của thiên nhiên, còn động tiếng huyền là cảm
nhận của con ngời. Sự tinh tế mẫn cảm của con ngời đã chuyển kênh cảm giác: Từ thị giác
sang thính giác đến xúc giác để lột tả đợc cái h ảo huyền diệu của không gian thu, tiếng của
h vô cảm xúc, âm thanh của lòng ngời rung động khi vào thu. Qua hiện tợng âm thanh này,
tác giả tô đậm ấn tợng không gian giăng mắc giao hòa, con ngời cảm nhận nó chứ không phải
phủ vào cảnh cái tình của mình. Tiếng huyền theo lời của Xuân Diệu, ta nhận ra tiếng ấy là
một âm thanh trải rộng khắp cả không gian mùa thu, một tiếng nói, một âm thanh, một thứ
âm nhạc riêng của mùa thu có thể nghe đợc, một thứ tiếng thì thầm, rất lạ lùng, ẩn chứa phép
màu, ẩn chứa sự huyền bí. Xuân Diệu, trong một bài thơ khác có viết :
19
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
"Những lời huyền bí bốc lên trăng"
Trong "Thơ duyên" không phải lời mà là tiếng, bởi vì đây không phải là lời nói của ngời,
mà là tiếng của thiên nhiên, của muôn lời, của cả tạo vật, của vũ trụ. Nhng tại sao là tiếng

huyền, sự huyền bí, kỳ diệu của tiếng nói ấy là gì ? Sức tác động của tiếng ấy đối với con ng-
ời, đối với nhà thơ nh thế nào ? Xuân Diệu cha vội nói ra đâu. Nhà thơ, trong khổ thơ tiếp
theo, chỉ làm công việc đa không gian từ cả mùa thu bao la vào một giới hạn hẹp hơn, một
con đờng nhỏ.
Khổ 2:
Con đờng nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thơng yêu.
Dới một không gian mùa thu đẹp, thơ mộng, trữ tình con đờng thật là tơng xứng. Đờng thì
nhỏ nhỏ, nghĩa là nhỏ một cách vừa vặn, xinh xắn, đáng yêu. Gió trên đờng thì "xiêu xiêu"
nghĩa là gió vừa phải, vừa để biết là có gió, vừa đủ làm nghiêng những gì mềm mại. Cành cây
thì "lả lả" (lả lả chứ không phải la lả) nghĩa là nghiêng xuống để tỏ rõ sự mềm mại đáng yêu
của mình. Nắng thì trở chiều nghĩa là vẫn có nắng nhng đã dịu, đã mát, đã đẹp, đã trở vàng.
Ba cặp từ láy "nhỏ nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả" với nghĩa tợng hình vừa mô tả đờng nét dáng
điệu mềm mại của cảnh vật lại vừa tạo nên nhạc điệu thật quyến luyến êm dịu, tạo vẻ duyên
dáng tinh tế cho tứ thơ. Chính những cặp từ láy này tạo ấn tợng về trạng thái của cảnh, cảnh
cũng nh bén duyên giao hòa, ấn tợng nhạc cảm về tiết tấu của giai điệu du dơng. Sự giao hòa
giữa cảnh vật càng đợc tăng thêm. Con đờng và ngọn gió và những cành hoang lả lả, cành với
nắng chiều "cảnh nh muốn theo lời thơ mà tan ra, nó chỉ mất một tí rõ ràng để đợc thêm rất
nhiều mơ mộng" (Hoài Thanh).
Thiên nhiên rất có hồn, nó lặng lẽ mà chứa chất đầy sức sống, khát khao sự giao hòa. Có
thể nói đây là những câu thơ đẹp mà tinh tế, đặc trng cho hồn thơ Xuân Diệu và cũng là
những câu thơ hay của thơ ca Việt Nam. Thơ Xuân Diệu đã chứng tỏ khả năng kỳ diệu của
tiếng Việt trong việc tạo nên những hình tợng ngôn ngữ tuyệt đẹp và diễn tả những sắc thái
tinh tế của cảm xúc. Xuân Diệu vốn có biệt tài trong việc sử dụng những cặp từ láy vừa mô tả
đợc những trạng thái tinh vi của cảm xúc vừa tạo nên nhạc tính cho câu thơ. Cảm xúc của nhà
thơ vẫn hớng vào khung cảnh mùa thu. Nhà thơ mở rộng tâm hồn hớng ngoại để lắng nghe
những âm vang của thế giới ngoại cảnh vào lòng mình. Tâm hồn nhạy cảm của thi nhân đã
đón nhận đợc trong không gian, thời gian buổi chiều thu thơ mộng những nỗi niềm giao cảm,

những tình ý vấn vơng hòa nhập với những rung động của lòng mình:
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thơng yêu
Đây là những rung động ban đầu khẽ khàng, tinh tế. Nếu gọi rõ tên của rung động ấy thì đó
chính là sự xuất hiện của tình yêu. Nhng đây là những rung động lần đầu của đời ngời nên
ngời ta thờng không biết nên gọi nó là gì. Vả lại trong trờng hợp này những rung động ấy lại
là do duyên cơ trời tác hợp. Xuân Diệu xác định đó là nỗi thơng yêu. Trong tiếng Việt hai từ
"thơng" và "yêu" dùng để chỉ hai sắc thái tình cảm khác nhau, nhng thơng và yêu ghép lại thì
lại có nghĩa khác, vừa đậm hơn vừa nhạt hơn ý nghĩa của mỗi từ riêng lẻ. Vả lại nỗi thơng
yêu cha phải lòng, hay tình chỉ mới là một tâm trạng, một sự bắt đầu. Sự xuất hiện của trạng
thái tâm hồn này cũng lạ. Nguyên do là: Nghe ý bạn, không phải lời hay tiếng bạn, bởi vì bạn
có nói gì đâu nhng đã tỏ ý, tỏ bằng cách nào ta không biết. Chỉ có ngời trong cuộc mới biết.
Xuân Diệu nói "nghe ý" ngôn từ xem chừng khó hiểu nhng quả là đúng thể. Nghe lại không
nghe bằng tai mà lại nghe bằng lòng, bằng tâm hồn, lòng ta nghe. Đây là một tình cảm diễn
20
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
đạt ngầm, là sự cảm thông giữa hai tâm hồn tự nhiên mà có, hồn nhiên mà đến. Sự xuất hiện
của tình đầu đợc Xuân Diệu diễn tả thật tinh tế.
Nh vậy cảm giác giao hòa với cảnh ở cả hình ảnh và âm thanh đã xui lòng ngời hòa hợp,
gợi ở lòng ngời rung động. Tình giao hòa với tình diễn ra trong một cảm xúc đầy biến động
choán ngợp ngây ngất giữa lòng ta và ý bạn. Lòng ta và ý bạn đợc thiết lập quan hệ bởi sự
rung động thơng yêu. Tác giả sử dụng hai trạng ngữ chỉ thời gian đứng đầu câu thơ: "Buổi
ấy", "lần đầu" là dấu hiệu khởi điểm của sự giao hòa, của sự bén duyên. Ta cảm nhận đợc
tâm hồn nhà thơ đang dâng lên nỗi khát khao giao cảm và những rung động của tình yêu buổi
ban đầu.
Khổ 3:
Em bớc điềm nhiên không vớng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần
Vô tâm nhng giữa bài thơ dịu
Anh với em nh một cặp vần

T thế dáng điệu hòa hợp của tình với tình đợc thiết lập bởi trạng thái của con ngời. Em
điềm nhiên - anh lững đững. Vừa biểu thị khoảng cách của tình vừa có xu thế vận động hòa
hợp sự rung động ngẫu nhiên của tình ngời. Trong niềm rung động ấy, với một năng lực giao
cảm kỳ diệu, con ngời cảm nhận đợc sự tơng giao nh một ái lực thần kỳ gắn kết những tâm
hồn cô đơn. Giữa một khung cảnh chiều thu thật hài hòa êm dịu, giữa bài thơ dịu của cảnh
thu, trên con đờng chiều thơ mộng, hai con ngời đơng dạo những bớc chân điềm nhiên kia
vẫn có một mối tơng giao thầm kín tạo nên sự hòa nhịp sóng đôi nh một cặp vần.
Chính không gian chiều thơ mộng đã giăng mắc sự giao hòa nh lới nhện và con ngời đã
sập bẫy trong lới nhện giăng tơ của cơ trời ấy. Bởi vậy em ban đầu "điềm nhiên'', anh ban đầu
"lững đững" trong trạng thái vô tâm nhng vì cùng xuất hiện trong buổi chiều giăng mắc tơ
trời nên dẫn đến hệ quả đột biến trong quan hệ tình cảm hòa hợp: Thành "một cặp vần". Tác
giả sử dụng phép so sánh độc đáo anh, em với cặp vần tạo ra sự gắn bó khăng khít của sự
giao cảm đến tuyệt đối. Sự so sánh vừa mới vừa táo bạo nhng chính xác. Bởi đây là sự kết
hợp đầy chất thơ, nếu thiếu vần, bài thơ sẽ vỡ. Nh vậy anh và em không hẹn mà nên, cứ tự
nhiên đi sóng đôi trong suốt bài thơ dịu, không ồn ã chỉ lững đững chầm chậm để lắng nghe
những bớc đi rất nhẹ, rất êm của mùa thu và nhà thơ cũng đang lắng nghe nơi lòng mình
những giao hòa với cảnh vật và những rung động khát khao yêu đơng, khát khao đợc cởi mở
sẻ chia với đời, với ngời và nhất là với cô gái nào kia ngẫu nhiên đang bớc cùng đờng. Họ
cùng đi trên đờng nhng cách xa nhau cả hai đều có vẻ vô tâm. Nhng trong buổi chiều thu
giăng mắc sự giao hòa đã kéo hai con ngời xa lại với nhau.
Khổ 4:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều tha sơng xuống dần.
Đây là khổ thơ lạc điệu, lệch chuẩn trong tơng quan với hệ thống toàn bài, có ý nghĩa nh
một phản đề đối với ý của ba khổ thơ trên. Nếu ở ba khổ thơ trên ta bắt gặp một Xuân Diệu
trẻ trung của thời 18 đôi mơi thì ở khổ thơ này ta lại bắt gặp một Xuân Diệu trầm lắng suy t
đậm màu sắc triết lý. Dẫu là vui bao nhiêu đi chăng nữa thì cái tôi cá nhân Xuân Diệu vẫn bị
ám ảnh bởi tâm lí cố hữu: Buồn vắng cô đơn.

Trong chiều thu bây giờ đã có tình yêu xuất hiện và lòng ngời đã nhìn chiều thu qua đôi
mắt của lần đầu rung động nỗi thơng yêu. Trong cảnh trời chiều có nỗi xôn xao của hạnh
phúc và cả nỗi lo âu. Có sự hăm hở và cả nỗi e ngại.
21
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
Cảnh chiều thu chuyển dần theo thời gian đi vào thời khắc hoàng hôn: Một làn mây biếc,
một cánh cò trên ruộng lúa, một đàn chim sải cánh bay và sơng đã thấm lạnh những bông hoa
trong cái nắng nhạt tha của buổi chiều muộn. Khổ thơ có đủ những hình ảnh quen thuộc đặc
trng cho cảnh hoàng hôn trong thơ cổ điển phơng Đông. Bốn câu thơ gợi âm hởng Đờng thi.
Hình ảnh làn mây, cánh chim, con cò, hoa lạnh là những hình ảnh ẩn dụ có ý nghĩa tợng trng
cho thân phận con ngời. Hai câu đầu là ý thức về sự cô đơn lạc loài, hai câu sau là nỗi buồn
hoang vắng của lòng ngời. Nhà thơ sử dụng triệt để phép đối. Cặp đối thứ nhất là câu 1 và
câu 2, cặp đối 2 là câu 3 và câu 4. Khổ thơ giàu chất cổ điển đợc kết cấu bằng quan hệ đối để
hội nghĩa: không gian của con ngời, không gian của vũ trụ, thời gian của con ngời, vũ trụ,
con ngời khắc khoải trong không gian và cô độc trong thời gian tạo nên ấn tợng chạnh lòng
tủi hờn của con ngời. Đây chính là cái tình chân thực của Xuân Diệu. Chất cổ điển hằn in dấu
ấn trong vay mợn hình ảnh thơ Vơng Bột. Chỉ có điều con cò của Vơng Bột: lặng lẽ bay
trong ráng chiều:
"Lạc hà dữ cô lộ tề phi
Thu thuỷ công trờng thiên nhất sắc"
Còn của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân không biết nên bay theo làn mây hay ở
lại nơi đồng ruộng. Nếu con cò và làn mây của Vơng Bột thể hiện một cái nhìn hòa nhập
mang tính "nhất thể hóa" thiên nhiên vũ trụ. Còn con cò và làn mây của Xuân Diệu tuy có
mối tơng quan nhng mỗi thứ vẫn là nó, không bị hòa tan vào nhau làm một. Ý thức về bản
ngã đã chi phối cả cái nhìn thiên nhiên vũ trụ.
Trạng thái phân vân của cánh cò cũng nh cái gấp gáp của làn mây biếc là một nét tâm trạng
rất riêng biệt, điển hình của thơ mới mà chúng ta cha gặp trong thơ cổ. Trong thơ cổ, dù buồn
hay vui thì con ngời trữ tình vẫn có cách biểu hiện trầm tĩnh, ung dung và thờng lặng lẽ,
những tâm trạng mang tính phi thời gian của con ngời đã hòa nhập với cái vô tận của vũ trụ
và vĩnh hằng của thời gian. Đến "Thơ mới" mới có tâm trạng bâng khuâng nh trong thơ Huy

Cận, hay cái rùng mình run rẩy trong thơ Xuân Diệu. Cái phân vân của cánh cò, cái gấp gáp
vội vã của làn mây là biểu hiện của cái "tôi" ý thức rõ rệt về thời gian và sự hữu hạn của con
ngời, của đời ngời.
Bốn câu thơ của khổ thứ 4 cứ từng đôi song hành tạo nên một sự tơng ứng, tơng giao của
cảnh vật trong khung cảnh hoàng hôn: cái gấp gáp của làn mây với dáng phân vân hững hờ
của cánh cò trên ruộng, cái rông dài của không gian qua những cánh chim bé nhỏ và chiều
sâu của buổi chiều qua cái lạnh của sơng thu thấm vào những cánh hoa làm kết cấu của khổ
thơ chặt chẽ giàu giá trị biểu cảm. Hai câu sau của khổ thơ cho ta thấy đợc những cảm nhận
tinh tế tài hoa của Xuân Diệu trớc cuộc sống. Nhà thơ nh đã hòa hồn mình vào muôn vật nên
mới thấy đợc cái cảm giác trống trải rợn ngợp của một cánh chim bé nhỏ cô đơn trớc không
gian rộng lớn, mênh mông và hoang vắng; mới thấy đợc cái rùng mình của một bông hoa khi
sơng chiều buông xuống. Những từ "nghe" "giang" "lạnh" là những từ đợc dùng rất điêu
luyện thể hiện rõ tài năng của nhà thơ.
Khổ cuối:
Ai hay thu lặng bớc thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cới lòng em.
Cả khổ thơ nói riêng và cả bài thơ nói chung là khung cảnh chiều thu đầy mở rộng mà cảnh
vật hòa điệu nhịp nhàng đã gợi dậy trong lòng ngời niềm khát khao giao cảm thầm kín và
mạnh mẽ, gắn bó những tâm hồn đơn chiếc. Bởi vậy, khi bớc chân của mùa thu êm dịu đi đến
đâu ở đó bừng lên mối duyên giao hòa khiến cho không cần phải có ngời mối lái mà "lòng
anh đã cới lòng em". Một qui luật cộng hởng của ngời và cảnh không phải chỉ có sự chi phối
22
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
của lòng ngời khi nhìn vào cảnh mà cảnh sắc thiên nhiên còn có khả năng thức dậy trong tâm
hồn con ngời những kỷ niệm quá vãng, những khát khao thầm kín để con ngời đợc sống đầy
đủ sâu sắc hơn với mọi cảm giác, cảm xúc và khát vọng của mình.
Cái hay của khổ cuối này là ở chỗ: Tình yêu cha đợc nói, cha hề đợc tỏ bày giữa hai ngời
với nhau. Em vẫn không tỏ vẻ gì khác lạ, kể cả sự lúng túng mà ngời ta thờng có thể có: anh

vẫn bình thản không tỏ ra vồ vập, vồn vã gì hơn. Tuy thế, theo Xuân Diệu tình yêu đã thực sự
tồn tại rồi. Khẳng định tình yêu, Xuân Diệu dùng một từ rất mạnh, trớc và sau Xuân Diệu có
lẽ cha ai dùng: "cới", mà "lòng anh" cới "lòng em" giữa nó là "thôi đã", nhất định thế rồi,
chắc chắn nh thế, đó là sự thật hiển nhiên không cỡng lại đợc, không chối bỏ đợc. Nhng điều
gì khiến cho giữa hai ngời, giữa "anh" và "em" đi đến một sự dứt khoát ấy ? Lý do là:
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy.
Tất cả là do chiều thu này. Nó chính là tác nhân tất cả - nếu không có cái buổi chiều nh
buổi chiều thu hôm nay, giữa hai ngời đâu đã diễn ra cái sự cảm thông sâu sắc ấy, cái sự tìm
đến và gặp gỡ giữa "lòng ta" và "ý bạn" ấy.
"Thơ duyên" thật ra cha hẳn là một bài thơ tình thuần tuý. Đúng hơn, nó là bài thơ về mùa
thu, ca ngợi mùa thu, êm ái, thơ mộng, trữ tình đặc biệt là cái duyên của mùa thu. Cái duyên
ấy chỉ khả năng tạo ra sự hòa hợp tuyệt vời: trời với đất, vạn vật với vạn vật, vạn vật với con
ngời, con ngời với con ngời. Tiếng huyền của mùa thu chính là tiếng gọi hòa hợp ấy.
Tâm trạng bao trùm toàn bài thơ là những rung động xôn xao, những cảm xúc tinh tế đón
nhận những biến thái tinh vi mơ hồ của sự sống trong thiên nhiên tạo vật và lòng ngời lúc vào
thu. "Thơ duyên" thể hiện sự độc đáo và tinh diệu của nhà thơ về mùa thu. Với Xuân Diệu sự
sống trong mùa xuân tng bừng ra ngoài thì giữa mùa thu sự sống lại tiềm tàng lặn vào bên
trong sắp sẵn lò lửa ở ngực.
IV. Kết luận
Trong thơ Xuân Diệu, những bài thơ nh "Thơ duyên" thật hiếm. Nếu nói về mùa thu thì
"Thơ duyên" là một mùa thu vừa đẹp vừa tơi, ấm và sáng, khác hẳn các mùa thu trong các bài
thơ khác đẹp nhng lạnh (Đây mùa thu tới), buồn, cô đơn. Xét về tình yêu thì khác với chữ
tình khiến ngời ta "yêu là chết trong lòng một ít", thứ tình "hai ngời nhng chẳng bớt cô đơn",
trong "Thơ duyên" là một tình yêu không rạo rực nhng đẹp, hồn nhiên, êm dịu, một thứ tình
yêu làm ngời ta thấy cuộc đời đẹp hơn, đáng yêu hơn rất nhiều, đem đến hy vọng rất nhiều.
C. Định hớng đề, gợi ý giải
Đề 1. Bình giảng một khổ thơ trong "Thơ duyên" của Xuân Diệu
(Xem phần kiến thức cơ bản)
Đề 2. Bình giảng bài thơ Thơ duyên của Xuân Diệu
Gợi ý:

- Nói Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu (sinh thời ông ao ớc hoàn thành một cuốn từ điển -
thơ về tình yêu). Nhìn nhận Xuân Diệu nh thế là đúng, nhng có phần hạn hẹp, cha bao quát đ-
ợc hồn thơ dồi dào, rộng mở ấy. Phải nói cho đầy đủ hơn: Xuân Diệu là nhà thơ của niềm
giao cảm hết mình với cuộc sống nơi trần thế đáng yêu này. Đó là phơng hớng tìm hiểu khái
niệm "duyên" và thế giới nghệ thuật của Thơ duyên.
- Nói đến Xuân Diệu cũng không thể không nói đến ảnh hởng sâu sắc của Bôđơle, Veclen,
những thi sĩ mở đầu cho trờng thơ tợng trng Pháp. Trờng thơ này quan niệm có sự tơng giao
của các giác quan và sự cảm nhận bằng trực giác những biến thái tinh vi, thậm chí vô hình
của vũ trụ.
I. Đặt vấn đề
Xa nay mùa thu vẫn đợc coi là mùa thơ. Cảnh thu đẹp nhng buồn. Thơ ca truyền thống hay
hiện đại thờng vẫn vẽ cảnh thu nh vậy, kể cả thơ Xuân Diệu. Thơ duyên cũng là một bài thơ
23
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
về cảnh thu nhng có nhiều phát hiện mới mẻ, độc đáo: cảnh đẹp mà không buồn, ấy là mùa
của tình yêu, của tuổi trẻ, mùa của tạo vật và lòng ngời.
II. Giải quyết vấn đề
1. Thế giới của Thơ duyên - cảnh cũng nh ngời -là thế giới đợc nhìn bởi một tâm hồn rất trẻ
"lần đầu rung động nỗi thơng yêu". Ấy là trái tim lần đầu biết yêu, lần đầu khao khát chuyện
lứa đôi.
Cái nhìn đó là tất cả sự độc đáo của bài thơ. Với nhãn quan ấy, nhìn ra thế giới, đâu đâu
cũng thấy xôn xao, náo nức một niềm khao khát giao duyên. Một thế giới nh thế tất nhiên hết
sức tơi trẻ và đầy nhạc, đầy thơ, đầy mộng đẹp.
Tất cả đều nh hòa quyện với nhau, cặp đôi, cặp vần với nhau: Ánh chiều hòa thơ với cây
cỏ, chim chóc cặp đôi ríu rít, lòng anh cới lòng em, cánh cò trên ruộng phân vân vì mây biếc
trên trời, bông hoa dờng nh cũng đồng cảm với sơng chiều buông lạnh
2. Bài thơ thể hiện đợc những cảm nhận hết sức tinh tế của nhà thơ về cảnh vật và lòng ng-
ời. Hoài Thanh có một nhận xét rất sâu sắc về trờng hợp bài Thơ duyên: ở đây "sự bồng bột
của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi"
(Thi nhân Việt Nam). Đúng vậy nhà thơ lắng nghe đợc cái xôn xao náo nức của cảnh vật và

lòng ngời ẩn kín dới cái vẻ ngoài êm ả, lặng lẽ, dịu dàng của buổi chiều thu - "Ai hay tuy lặng
bớc thu êm"
Đó là bản hòa âm của mùa thu vang vọng tiếng chim ríu rít, là muôn lá xôn xao khi trời
xanh đổ ngọc. Đó là cái tình tứ e ấp của con đờng nhỏ nhỏ với gió xiêu xiêu, của cành hoang
lả lả với ánh nắng trở chiều, của cánh cò muốn bay theo làn mây biếc tuy còn ngập ngừng
phân vân. Đó là cái cảm ứng của loài chim với trời rộng lặng lẽ "giang thêm cánh", là cái cảm
giác thấm lạnh của hoa đồng cỏ nội dới sơng chiều Và đó là cái rung động thầm kín giữa
lòng anh với lòng em, tuy chỉ ngẫu nhiên cùng đi một đờng và cha hề có băng nhân mối lái
3. Cảnh thu trong Thơ duyên không buồn nh trong thơ truyền thống hay nhiều bài thơ khác
nhau của Xuân Diệu. Nhng vẫn đúng là cảnh thu. Ở đây tâm hồn trong sáng của chàng trai
mới biết yêu đã gặp gỡ cái sáng trong của trời thu, sắc thu, tiếng thu. Và niềm khao khát lứa
đôi chỉ mới chớm nở, náo nức đấy nhng còn e ấp trong lòng, cũng phù hợp với không khí êm
dịu của mùa thu. Bớc đi của thu là "bớc thu êm". Bài thơ mùa thu là "bài thơ dịu" vì thế anh
với em không đợc ồn ào, phải bớc êm, bớc nhẹ, để lắng nghe cuộc giao duyên thầm kín của
lòng mình và vũ trụ khi mùa thu tới.
III. Kết thúc vấn đề
Thơ duyên là một bài thơ rất tiêu biểu của Xuân Diệu, nhà thơ của tuổi trẻ và tình yêu, và
rộng hơn, nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời.
Nhng không phải một Xuân Diệu mà sự bồng bột, sôi nổi bộc lộ ra bên ngoài, mà một
Xuân Diệu lắng vào bên trong để cảm nhận cái xôn xao náo nức của niềm giao cảm thầm kín
và êm ái của vũ trụ và lòng ngời.
Ông đã dệt nên một "bài thơ dịu" bằng những sợi tơ giăng mắc giữa lòng mình với lòng
ngời, giữa lòng mình với vũ trụ.
VỘI VÀNG
Xuân Diệu
A.Yêu cầu
Nắm đợc những vấn đề sau:
- Một Xuân Diệu sôi nổi, táo bạo, tinh tế, yêu cuộc sống đến đam mê
- Khám phá phát hiện một thiên đờng đang lồ lộ bày ra trên mặt đất.
- Bút pháp nghệ thuật độc đáo

B. Kiến thức cơ bản
I. Tìm hiểu chung bài thơ
24
Tài liệu ôn thi đại học môn văn
Những điều ta cảm nhận đợc từ "Đây mùa thu tới" đến đây đợc Xuân Diệu trình bày và
phân tích rõ trong "Vội vàng" theo kiểu tự bạch tâm sự.
Bài thơ viết về lẽ sống, quan điểm nhân sinh, phát biểu trực tiếp cho t tởng của Xuân Diệu:
khao khát giao cảm hết mình với đời. Nhà thơ phát hiện ra một thế giới tràn đầy xuân sắc,
một thế giới vận động, biến đổi tiếp tục theo dòng chảy thời gian thế giới ấy phải đợc thụ h-
ởng tích cực nhất, nhiệt tình đầy ham muốn đam mê nhất. Đồng thời ở bài thơ này nhà thơ
muốn vĩnh cửu hoá cuộc sống ở thời hiện tại.
- Ta bắt gặp một Xuân Diệu say đắm đam mê, một tâm hồn rạo rực đầy sức sống trẻ trung
khoẻ khoắn và lành mạnh.
Nhân vật trữ tình chính là thế giới tâm hồn của nhà thơ đợc thể hiện một cách trực tiếp,
những khát khao ham muốn cháy bỏng đa cung bậc. Nếu ở đoạn đầu bài thơ là ý thức cỡng
lại thời gian thì tới giữa bài thơ là nỗi âu lo về sự bào mòn của thời gian, cuối bài thơ là lòng
ham muốn vô biên tuổi trẻ và tình yêu.
- Giọng điệu của bài thơ gấp gáp khẩn trơng sôi nổi, nhịp thở nhanh thể hiện thông qua
hình thức điệp ngữ liên tiếp và cấu trúc vắt dòng của thơ hiện đại. Bài thơ là sản phẩm đặc tr-
ng cho phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu. Hình ảnh thiên nhiên trong vội vàng rộn rã
đầy xuân tình, xuân ý.
Bút pháp nghệ thuật: tợng trng
II. Phân tích
1. Ham muốn khát khao giao cảm với đời
Bốn câu đầu
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hơng đừng bay đi
Nhịp thơ chậm đều phù hợp với thể thơ ngũ ngôn. Điệp ngữ "Tôi muốn" đợc nhắc lại hai

lần bộc lộ ham muốn của nhà thơ muốn vĩnh cửu hoá thời gian ở thì hiện tại. Khổ thơ bộc lộ -
ớc muốn lạ kỳ của thi sĩ ấy là ớc muốn quay ngợc quy luật tự nhiên. Một ớc muốn không thể:
ớc muốn tắt nắng, buộc gió, thật là những ham muốn kỳ dị chỉ có ở thi sĩ. Nhng làm sao cỡng
đợc quy luật tự nhiên? làm sao có thể vĩnh cửu hoá những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy.
Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta thấy đợc một lòng yêu bồng bột vô bờ đối
với cái thế giới thắm sắc đợm hơng này. Bốn câu thơ nh một mệnh lệnh muốn đoạt quyền tạo
hoá, nhà thơ đã đặt mình ngang tầm vũ trụ để từ đó ý thức về sự có mặt của cái tôi cá nhân tr-
ớc cuộc đời.
Thế giới này đợc Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra nh một thiên đờng
nơi mặt đất, nh một bữa tiệc lớn của trần gian. Tất cả thế giới ấy đợc cảm nhận bằng cả sự
tinh vi nhất của một hồn yêu đầy nhục cảm nên sự sống cũng hiện ra nh một thế giới đầy sắc
dục. Xuân tình - cái thiên đờng sắc hơng đó hiện ra trong "Vội vàng" nh một mảnh vờn tình
ái, vạn vật đơng lúc dậy tình, vừa nh một mâm tiệc với thực đơn đầy quyến rũ, lại vừa nh một
ngời tình đầy khêu gợi ái ân. Nhà thơ cất lên một chuỗi tiếng reo vui khi bớc chân vào mảnh
vờn với những cảnh sắc mê li.
Của ong bớm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon nh một cặp môi gần
25

×