Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

quản lý danh mục đầu tư tại các công ty bảo hiểm Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.48 KB, 108 trang )

Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU
1. Tính cấp thiết và mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Mười lăm năm qua, nhất là những năm gần đây, ngành bảo hiểm đã có những
đóng góp nhất định vào sự phát triển của hệ thống tài chính nói riêng và tăng trưởng
kinh tế Việt Nam nói chung. Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một kênh quan trọng
trên thị trường vốn, thể hiện tất cả các vai trò trên thị trường tài chính. Đó là đảm bảo
sự ổn định thông qua việc tập trung và phân tán rủi ro, tăng cường ổn định tài chính
trong hộ gia đình và doanh nghiệp, huy động vốn dài hạn và đầu tư dài hạn… Vì vậy
phát triển ngành bảo hiểm tương ứng với mức độ phát triển của nền kinh tế là một
nhu cầu khách quan. Do đặc thù của ngành, các doanh nghiệp bảo hiểm bao giờ cũng
tiến hành đồng thời hai hoạt động đó là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư. Nếu như hoạt
động kinh doanh bảo hiểm của ngành thời gian qua có tốc độ phát triển khá nhanh thì
tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm còn mờ nhạt chưa thể hiện
tính chuyên nghiệp. Một trong những nguyên nhân của thực trạng này là vấn đề quản
lý danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm còn hạn chế. Vì vậy, đề tài “Xây dựng
và quản lý danh mục đầu tư hiệu quả tại các công ty bảo hiểm Việt Nam” được lựa
chọn nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng, xác định nguyên nhân và đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm
Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động đầu tư và quản lý danh mục đầu tư
của các công ty bảo hiểm thương mại đang hoạt động trên thị trường tài chính: Bao
gồm các công ty bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, không đi vào phân tích hoạt
động đầu tư của các công ty môi giới bảo hiểm cũng như các tổ chức bảo hiểm khác
như bảo hiểm xã hội…
Thời gian được chọn nghiên cứu là 2004-2008.
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 1
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
3. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn bắt đầu bằng các lý luận được tổng kết từ kinh nghiệm của của các


nước trên thế giới và Việt Nam, đặc biệt là các lý thuyết hiện đại về quản lý danh
mục đầu tư.
Khi nghiên cứu luận văn, phương pháp nghiên cứu diễn dịch - quy nạp kết
hợp giữa các dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp được vận dụng để đánh giá thực trạng
hoạt động đầu tư và quản lý danh mục đầu tư của của các công ty bảo hiểm Việt Nam
và so sánh với các công ty bảo hiểm tại các nước phát triển khác.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, tức đưa ra
định hướng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý danh mục đầu tư tại các
công ty bảo hiểm Việt Nam trên cơ sở đã phân tích thực trạng và những nguyên nhân
tồn tại.
4. Dữ liệu nghiên cứu:
Để minh hoạ, luận văn sử dụng số liệu được công bố chính thức từ cơ quan
Chính phủ như Vụ bảo hiểm - Bộ Tài chính, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, các hãng
tin uy tín trên thế giới như Reuters, BMI (Business Monitor International), SSRN
(Social Science Research Network), … các tư liệu từ sách, báo, tạp chí chuyên ngành.
5. Nội dung luận văn:
Nội dung của luận văn thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đầu tư và quản lý danh mục đầu tư bảo hiểm
Chương 2: Thực trạng về hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam giai
đoạn 2004-2008
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý danh mục đầu tư tại các công
ty bảo hiểm Việt Nam
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 2
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ
VÀ QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ BẢO HIỂM
1.1. Cơ sở lý luận về đầu tư:
1.1.1. Khái quát về đầu tư:
Đầu tư là hành động hy sinh một giá trị chắc chắn ở hiện tại để thu lại một giá
trị khác lớn hơn nhưng mang tính không chắc chắn ở tương lai.

Hoạt động đầu tư luôn gắn liền với hai yếu tố là lợi nhuận và rủi ro. Lợi nhuận
là thu nhập có được từ một khoản đầu tư, thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm
giữa thu nhập và giá trị khoản đầu tư bỏ ra. Rủi ro được định nghĩa là sự sai biệt của
lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng. Có một nguyên tắc trong hoạt động đầu
tư là có sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. Nếu khả năng sinh lời từ hoạt động đầu
tư càng lớn thì mức độ rủi ro sẽ càng cao và ngược lại.
Có thể tạm chia hoạt động đầu tư làm 2 mảng lớn:
 Đầu tư thực: Họat động đầu tư vào các tài sản thực như đất đai, nhà xưởng,
máy móc thiết bị.
 Đầu tư tài chính: Hoạt động đầu tư vào các tài sản tài chính như cổ phiếu,
trái phiếu và các công cụ tài chính khác. Nhà đầu tư tài chính thông thường chỉ nhắm
vào mục đích mua bán chứ ít làm tăng giá trị thực của công ty mà họ đầu tư vào.
Trong nền kinh tế, hai hoạt động này quan hệ và hỗ trợ nhau cùng phát triển.
1.1.2. Các nhân tố tác động đến quyết định đầu tư:
 Lợi nhuận có thể đạt được từ hoạt động đầu tư: Đây chính là mục tiêu của
nhà đầu tư. Vì vậy, nhà đầu tư sẽ đưa ra quyết định đầu tư nếu hoạt động đầu tư này
mang lại lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Để đo lường lợi nhuận (hoặc có thể sử dụng
thuật ngữ tỷ suất sinh lợi) từ hoạt động đầu tư, có một số các chỉ tiêu được biết đến
như NPV, IRR, PI, ROE, ROA, EPS... Tuy nhiên cần cân nhắc với nhân tố đi liền với
lợi nhuận là rủi ro.
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 3
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
 Rủi ro: Là sự dao động của lợi nhuận từ hoạt động đầu tư làm cho lợi
nhuận đạt được không như dự kiến. Lợi nhuận dao động càng lớn, rủi ro càng cao.
Có một thực tế là nhà đầu tư có tính ưa thích lợi nhuận và có tính không ưa thích rủi
ro. Lợi nhuận và rủi ro là hai thuộc tính không thể tách rời của bất kỳ một tài sản đầu
tư nào. Từ đó lợi nhuận và rủi ro cấu thành nên các công thức xác định giá cả của
một tài sản đầu tư. Nội dung của rủi ro sẽ được đề cập chi tiết hơn trong mục tiếp
theo:
 Chính sách khuyến khích đầu tư của Chính phủ: Hoạt động đầu tư của các

tổ chức cá nhân là động lực phát triển kinh tế. Vì vậy, để phát triển kinh tế nói chung
và phát triển kinh tế vùng hay địa phương nói riêng, tùy thuộc vào từng giai đoạn,
Chính phủ sẽ đưa ra những chính sách ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư vào vùng hay
địa phương đó. Đổi lại, nhà đầu tư sẽ được hưởng những ưu đãi miễn giảm chi phí sử
dụng đất, thuế thu nhập…
 Nhu cầu của thị trường hay thị hiếu của người tiêu dùng: Hoạt động đầu
tư, đặc biệt là đầu tư thực là nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy,
trước khi đưa ra quyết định đầu tư, nhà đầu tư cần tiến hành những nghiên cứu
nghiêm túc, khảo sát thị trường với chi phí không phải nhỏ. Điều này là rất cần thiết
để qua đó nhà đầu tư biết được nhu cầu hiện tại và những xu hướng tiêu dùng trong
tương lai để đáp ứng tốt hơn các nhu cầu này. Có đáp ứng được nhu cầu của thị
trường thì nhà đầu tư mới đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình.
1.1.3. Tỷ suất sinh lợi và rủi ro trong hoạt động đầu tư:
 Tỷ suất sinh lợi:
Tỷ suất sinh lợi của một tài sản đầu tư là tổng các khoản thu nhập hoặc lỗ của nhà
đầu tư trong một thời kỳ. Nếu ký hiệu:
P
o
: Giá tài sản đầu tư ở kỳ 0
P
t
: Giá tài sản đầu tư ở kỳ t
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 4
P
t
- P
o
+ C
t
r =

P
o
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
C
t
: Lượng tiền mặt nhận được của tài sản đầu tư từ kỳ t
o
đến t
t

r : Tỷ suất sinh lợi trong suốt kỳ t
 Rủi ro trong hoạt động dầu tư:
Như đã đề cập ở phần trên, sự dao động của lợi nhuận hay tỷ suất sinh lời của các
tài sản đầu tư là yếu tố gây ra rủi ro khi tiến hành các hoạt động đầu tư. Rủi ro trong
hoạt động đầu tư có thể chia ra làm:
 Rủi ro hệ thống: Ảnh hưởng đến giá của tất cả chứng khoán. Những thay đổi
về kinh tế, chính trị, xã hội... là những yếu tố gây ra rủi ro hệ thống. Rủi ro hệ thống
có thể chia ra làm ba loại:
- Rủi ro thị trường: Đây là rủi ro hệ thống chỉ xảy ra với cổ phiếu. Rủi ro thị
trường chính là sự dao động của giá cổ phiếu, sự thay đổi của lãi suất đầu tư đối với
nhiều loại cổ phiếu trong một thời gian ngắn mặc đù thu nhập của công ty vẫn không
thay đổi. Rủi ro thị trường xuất hiện do những phản ứng của nhà đầu tư đối với các
sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội mà chủ yếu là do yếu tố tâm lý của thị trường tạo
nên phản ứng dây chuyền làm giá cả chứng khoán dao động mạnh gây ra rủi ro.
- Rủi ro lãi suất: Sự dao động trong mức lãi suất chung tạo ra sự dao động
trong giá thị trường và thu thập trong tương lai của chứng khoán, đó là rủi ro lãi suất.
Nguyên nhân chính của rủi ro này là do sự thay đổi của lãi suất trái phiếu chính phủ,
dẫn đến sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của những chứng khoán khác (cổ
phiếu, trái phiếu công ty). Nói cách khác, Chính phủ vay vốn đối với chứng khoán
không rủi ro, chứng khoán chính phủ thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn

của các chứng khoán có rủi ro.
- Rủi ro sức mua: Rủi ro sức mua liên quan đến giá trị của đồng tiền, sức mua
của đồng tiền thu được từ hoạt động đầu tư. Rủi ro sức mua chính là tác động của
lạm phát đối với khoản đầu tư. Để bù đắp rủi ro sức mua, nhà đầu tư phải tính cả lạm
phát vào thu nhập kỳ vọng.
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 5
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
 Rủi ro không hệ thống: Do các yếu tố như khả năng quản lý, mức độ sử
dụng đòn bẩy tài chính và đòn bẩy kinh doanh hay những yếu tố khác gắn với những
biến đổi trong nội tại của công ty gây ra.
Rủi ro hệ thống là rủi ro của nền kinh tế vĩ mô, với loại rủi ro này chỉ có thể
phòng tránh phần nào bằng những dự đoán hợp lý. Rủi ro không hệ thống có thể
phòng tránh bằng sự đa dạng hoá đầu tư (hình 1.1). Có thể hiểu tác dụng của đa dạng
hoá một cách trực quan: Đa dạng hóa có thể làm giảm thiểu đáng kể các rủi ro riêng
của doanh nghiệp. Nguyên nhân là do nguồn rủi ro của các doanh nghiệp khác nhau
sẽ độc lập với nhau. Do đó các rủi ro sẽ không đồng thời xảy ra.
1.1.4. Đo lường rủi ro của từng tài sản đầu tư:
 Đo lường rủi ro không hệ thống:
Một trong những chỉ tiêu thống kê để đo lường sự dao động hay đo lường rủi
ro không hệ thống của một tài sản đầu tư là phương sai và độ lệch chuẩn. Phương sai
được định nghĩa như là bình phương khoảng cách chênh lệch giữa tỷ suất sinh lợi
thực tế và tỷ suất sinh lợi mong đợi của nhà đầu tư. Độ lệch chuẩn đơn giản chỉ là
căn bậc hai của phương sai. Độ lệch chuẩn thường được ký hiệu là σ và phương sai
ký hiệu là σ
2
. Công thức tổng quát tính độ lệch chuẩn như sau:
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 6
Số chứng khoán
Rủi ro
Rủi ro không

hệ thống
Rủi ro
hệ thống
Rủi ro
Tổng thể
Hình 1.1. Rủi ro hệ thống và không hệ thống
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
( )
2
1
1
= ( )
1
n
i
i
r r
n
s
=
-
-
å
Trong đó:

i
r
: Là tỷ suất sinh lợi trong trường hợp thứ i
r
: Là tỷ suất sinh lợi mong đợi, với

r
được xác định như sau:
1
n
i i
i
r r p
=
= ´
å
hoặc
1
n
i
i
r
r
n
=
=
å
Độ lệch chuẩn về tỷ suất sinh lợi của tài sản đầu tư càng lớn thì rủi ro của tài
sản đầu tư đó càng cao.
 Đo lường rủi ro hệ thống (rủi ro thị trường):
Để đo lường sự thay đổi của tỷ suất sinh lợi từng tài sản đầu tư đối với sự thay
đổi của thị trường, một chỉ tiêu thống kê được sử đụng là hệ số beta (β), được tính
toán qua công thức sau:
2
( , )
i m

i
m
Cov r r
b
s
=
Trong đó:
( , )
i m
Cov r r
: Là hiệp phương sai giữa tỷ suất sinh lợi của tài sản thứ i và tỷ suất
sinh lợi thị trường.
Các tài sản đầu tư có beta lớn hơn 1 có khuynh hướng khuếch đại các thay đổi
tổng thể của thị trường. Nếu beta nằm giữa 0 và 1, thì tỷ suất sinh lợi của tài sản đầu
tư này có khuynh hướng di chuyển cùng hướng với tỷ suất sinh lợi của thị trường
nhưng không lệch nhiều lắm.
1.1.5. Mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi (mô hình CAPM):
Tỷ suất sinh lợi của một tài sản có mối tương quan xác định với rủi ro của tài
sản đó. Nghĩa là nhà đầu tư nắm giữ một tài sản có rủi ro chỉ khi tỷ suất sinh lợi của
tài sản này bù đắp đủ phần rủi ro được thể hiện qua công thức sau:
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 7
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
( )
f m f
r r r r
b
= + -´
Trong đó:
m
r

: Tỷ suất sinh lợi thị trường
f
r
: Tỷ suất sinh lợi phi rủi ro
r : Tỷ suất sinh lợi tài sản đầu tư
β : Hệ số bêta của tài sản đầu tư
Công thức này được gọi là mô hình định giá tài sản vốn (CAPM). Do tỷ suất
sinh lợi trung bình trên thị trường cao hơn lãi suất phi rủi ro tình trung bình trong một
thời kì dài nên
( )
m f
r r-
xem như dương (>0) vì vậy, công thức trên ngụ ý rằng tỷ suất
sinh lợi của một tài sản đầu tư có mối tương quan xác định với bêta của tài sản đầu
tư đó.
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý danh mục đầu tư:
1.2.1. Khái quát về danh mục đầu tư:
Danh mục đầu tư là tập hợp các tài sán thực và tài sản tài chính được nắm giữ
bởi một nhà đầu tư.
Để đơn giản, từ đây chúng ta quy ước gọi một danh mục đầu tư là tập hợp các
chứng khoán, mặc dù danh mục có thể bao gồm các tài sản thực, cổ phiếu, trái phiếu
và cả các hợp đồng quyền chọn, các chứng từ có giá khác...
Khi xây dựng một danh mục đầu tư, nhà đầu tư phải thực hiện hai loại quyết
định: Quyết định phân bổ tài sản đầu tư là sự chọn lựa phân bổ vốn vào các loại tài
sản tổng quát và quyết định chọn lọc chứng khoán cụ thể là sự chọn lựa loại chứng
khoán cá biệt sẽ được đầu tư trong số các tài sản đã chọn.
Danh mục khả thi: Là danh mục các chứng khoán mà một nhà đầu tư có thể nắm
giữ thông qua hoạt động đầu tư mua bán chứng khoán.
Danh mục đầu tư hiệu quả: Là một danh mục khả thi mà khi nắm giữ nó, nhà đầu
tư đạt được:

Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 8
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
 Hoặc là lãi suất kỳ vọng cao nhất với cùng một mức độ rủi ro so với các
danh mục đầu tư khác.
 Hoặc là có cùng lãi suất kỳ vọng với độ rủi ro nhỏ nhất.
1.2.2. Quy trình quản lý danh mục đầu tư:
Nhìn chung, một quy trình quản lý danh mục đầu tư sẽ đi theo các bước cụ thể
như sau:
 Lựa chọn các tài sản đầu tư đưa vào danh mục.
 Xác định mức phân bổ vốn đầu tư vào từng tài sản.
 Xác định hiệu quả (mức sinh lợi) và mức độ rủi ro của danh mục từ các tài sản
và tỷ trọng vốn vào từng tài sản đã được lựa chọn.
 Điều chỉnh danh mục khi có những tác động bất lợi của thị trường.
1.2.3. Các chiến lược quản lý danh mục đầu tư:
Các chiến lược quản lý có thể kể đến gồm có hai dạng chính: Quản lý thụ
động và quán lý chủ động.
 Quản lý thụ động: Gắn với việc mua và giữ chứng khoán trong một thời
gian dài. Chỉ điều chỉnh chút ít và hạn hữu trong suốt thời gian nắm giữ nó. Việc
quản lý danh mục đầu tư theo chiến lược thụ động phù hợp với hai điều kiện cần thỏa
mãn của thị trường chứng khoán là: Thị trường hiệu quả và tính đồng nhất của các dự
tính. Nếu thị trường chứng khoán hiệu quả thì các chứng khoán sẽ luôn được định giá
một cách hợp lý. Sẽ không có các chứng khoán bị đánh giá sai và vì vậy không có
động lực kích thích hình thức buôn bán chứng khoán chủ động. Mặt khác, nếu trong
thị trường chứng khoán, tất cả các nhà đầu tư đều có các dự tính thống nhất về tỷ lệ
rủi ro và thu nhập chứng khoán, dẫn đến việc nhất trí quan điểm về danh mục vốn
đầu tư thị trường, về đường thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thì lại một lần
nữa không khuyến khích hình thức buôn bán chứng khoán chủ động. Và đầu tư kiểu
này còn được gọi là đầu tư chứng khoán dài hạn.
 Quản lý chủ động: Gắn liền với những điều chỉnh thường xuyên và đôi
khi là cơ bản đối với danh mục đầu tư. Những nhà đầu tư quản lý theo kiểu chủ động

tin rằng không thể tồn tại một danh mục đầu tư hiệu quả mãi và thị trường chứng
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 9
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
khoán cũng vậy. Các chứng khoán trên thị trường có thể bị đánh giá sai. Khi đó, việc
mua vào các chứng khoán này sẽ tạo cho họ một lợi nhuận siêu ngạch. Nói cách
khác, người quản lý chủ động có những dự tính không đồng nhất về thu nhập và rủi
ro của các chứng khoán. Họ tin rằng với biến động của thị trường, luôn luôn có
những chứng khoán tốt hơn chứng khoán mà họ đang giữ bởi họ có cách xác định tốt
hơn những người khác về thu nhập và rủi ro của các chứng khoán trong thực tế. Việc
sử dụng cách xác định tốt hơn để tạo ra lợi nhuận siêu ngạch cho mình gọi là kiểu
đầu tư thiên về ngắn hạn (hay còn gọi là đầu cơ).
Như chúng ta đã biết, sự đa dạng hóa danh mục đầu tư sẽ giảm thiểu được rủi
ro. Vì vậy, nếu một người xây dựng một danh mục đầu tư có quá nhiều chứng khoán
sẽ làm cho anh ta cảm thấy rất khó khăn trong việc quản lý nó ngay cả đối với một
danh mục bị động. Người ta phải chia danh mục tổng thể ra theo các loại tài sản
thông thường như cổ phiếu, trái phiếu và sẽ được quản lý riêng theo mức độ thích
hợp với các chiến lược của từng loại. Mỗi danh mục nhỏ chỉ bao gồm trái phiếu
chẳng hạn có thể được quản lý chủ động hoặc bị động. Và sau khi kết hợp các danh
mục nhỏ lại người ta sẽ có một danh mục tổng thể sao cho hàm hiệu dụng của nó
luôn đạt mức tối ưu.
1.2.4. Lý thuyết danh mục đầu tư của Harry Markowitz:
1.2.4.1 . Lý thuyết đa dạng hóa:
Những lý thuyết cổ điển về đa dạng hóa chứng khoán người ta cho đó là việc
nắm giữ một số loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) của các ngành khác nhau (các
ngành phục vụ công cộng, sản xuất, khai thác, chế biến…). Việc nắm giữ nhiều loại
chứng khoán như vậy sẽ làm phân tán và tối thiểu hóa rủi ro do các khác biệt về bản
chất của thành phần các cổ phiếu vốn, cộng với nhận thức cho rằng đầu tư vào các
doanh nghiệp ở những ngành khác nhau mỗi ngành một cổ phiếu, sẽ có kết quả tốt
hơn so với đầu tư tất cả vào các doanh nghiệp trong cùng một ngành.
 Đa dạng hóa giản đơn:

Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 10
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
Đa dạng hóa giản đơn là việc kết hợp hóa một cách ngẫu nhiên một số chứng
khoán với quyền số bằng nhau nhằm giảm rủi ro có thể đa dạng hóa (theo một số
nghiên cứu thì số chứng khoán kết hợp ngẫu nhiên này chỉ từ 10-15 cổ phiếu là
được). Mặc dù đa dạng hóa được phân tích với các quá trình chọn lựa ngẫu nhiên và
quyền số bằng nhau là một kỹ thuật sơ đẳng, tuy vậy các kỹ thuật sơ đẳng này không
làm mất khả năng hạ thấp rủi ro trong một danh mục đa dạng hóa (trung bình khoảng
15 tài sản thì giảm được ½ rủi ro).
 Đa dạng hóa giữa các ngành:
Một số nhà đầu tư khuyên nên chọn các chứng khoán từ các ngành khác nhau
để đạt được sự đa dạng hóa tốt nhất. Tuy nhiên những nghiên cứu thực tế lại cho thấy
việc đa dạng hóa giữa các ngành không tốt hơn nhiều so với việc lựa chọn ngẫu nhiên
do lợi nhuận từ chứng khoán ở các ngành đều có mối tương quan lớn với nhau, cùng
lên hoặc cùng xuống, do đó không thể triệt tiêu bằng đa dạng hóa theo các lựa chọn
chứng khoán giữa các nhà đầu tư. Để khẳng định hơn nữa Lorie và Fisher đã thống
kê và đưa ra bảng kết quả như sau:
Số cổ phiếu
trong danh
mục
Kỹ thuật đa
dạng hóa sử
dụng
Lợi nhuận
tối thiểu (%)
Lợi nhuận
tối đa (%)
Lợi nhuận
trung bình
(%)

Độ lệch
chuẩn của
lợi nhuận
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 11
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
8
8
16
16
32
32
128
Ngẫu nhiên
Từ nhiều ngành
Ngẫu nhiên
Từ nhiều ngành
Ngẫu nhiên
Từ nhiều ngành
Ngẫu nhiên
-47
-47
-37
-37
-31
-29
-29
164
158
121
121

98
93
78
13
13
13
13
13
13
13
0.22
0.22
0.21
0.21
0.20
0.20
0.19
Bảng thống kê kết quả từ các kỹ thuật đa dạng hóa khác nhau nghiên cứu trên
thị trường chứng khoán NewYork. Hai ông cũng đưa ra nhận xét:
 Đa dạng hóa bằng cách chọn chứng khoán từ nhiều ngành không tốt hơn
nhiều so với chọn ngẫu nhiên.
 Việc tăng số lượng chứng khoán trong danh mục lên cao thực ra không làm
giảm đáng kể rủi ro của danh mục.
Như vậy, không nên đa dạng hóa quá mức danh mục đầu tư, thông thường từ
10-15 tài sản khác nhau cho một danh mục đã đảm bảo hạ thấp rủi ro theo các đa
dạng hóa giản đơn. Nếu đa dạng hóa quá mức, đầu tư vào quá nhiều chứng khoán sẽ
dẫn đến những bất lợi sau:
 Không có khả năng quản trị tốt danh mục: Nếu danh mục bao gồm quá
nhiều tài sản khác nhau thì người quản trị danh mục không thể đồng thời nắm bắt hết
tình hình của toàn bộ các tài sản đó.

 Mua phải những tài sản kém hiệu quả: Việc tìm kiếm để mua quá nhiều tài
sản khác nhau sẽ dẫn đến việc mua phải những tài sản thiếu thông tin, do đó sẽ không
mang lại lợi nhuận tương xứng với rủi ro phải gánh chịu.
 Chi phí tìm kiếm cao: Khi số lượng chứng khoán dự trù của danh mục đầu
tư gia tăng, cổ phiếu cần thiết cho việc phân tích cũng tăng theo.
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 12
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
 Cổ phiếu giao dịch cao: Việc mua bán thay đổi thường xuyên những số
lượng nhỏ cổ phiếu sẽ tốn kém nhiều tiền hoa hồng cho người môi giới.
Nói chung, việc đa dạng hóa quá mức một danh mục đầu tư không những
không tốt hơn mà còn làm tăng chi phí quản lý danh mục, đưa đến kết quả là sẽ hạ
thấp mức lợi nhuận cuối cùng của các chủ sở hữu.
1.2.4.2. Lý thuyết Markowitz:
Giới thiệu:
Harry Markowitz được coi là người đi tiên phong nghiên cứu quản lý danh
mục đầu tư hiện đại. Chủ yếu ông đề cập đến việc đa dạng hóa và phân tán rủi ro
danh mục đầu tư trên cơ sở lựa chọn một số chứng khoán không tương quan hoặc
tương quan yếu nhằm hạn chế rủi ro toàn cục của danh mục đầu tư. Nhiều thế hệ độc
giả sau đó đã phát triển thêm các lý thuyết bổ sung, nhưng về cơ bản đều lấy nền tảng
là lý thuyết do Markowitz khởi xướng.
Kết quả của việc kết hợp những chứng khoán với nhau:
Mặc dù việc đầu tư vào hai loại chứng khoán chắc chắn ít rủi ro hơn với việc
chỉ đầu tư vào một trong hai loại đó, liệu có thể giảm thiểu rủi ro của danh mục đầu
tư bằng cách kết hợp trong nó một chứng khoán mà rủi ro của nó lớn hơn rủi ro của
bất kỳ khoản đầu tư ban đầu hay không? Thí dụ: Có hai loại cổ phiếu X và Y, và Y
rủi ro hơn X rất nhiều. Một danh mục đầu tư bao gồm một số cổ phiếu X và một số
cổ phiếu Y sẽ ít rủi ro hơn danh mục chỉ bao gồm cổ phiếu X là tài sản có tính rủi ro
kém hơn giả sử có các cổ phiếu dưới đây về cổ phiếu X và Y.
Cổ phiếu X Cổ phiếu Y
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 13

Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
Lợi nhuận
Xác suất
Lợi nhuận dự kiến
Hệ số biến thiên (%)
Độ lệch chuẩn (%)
7% hoặc 11%
50% mỗi mức lợi nhuận
9%*
4
2
13% hoặc 5%
50% mỗi mức lợi nhuận
9% **
16
4
* Lợi nhuận dự kiến = 0,5 x 7% + 0,5 x 11% = 9%
** Lợi nhuận dự kiến = 0,5 x 13% + 0,5 x 5% = 9%
Mặc dù X và Y đều có lợi nhuận dự kiến là 9%, Y vẫn có tính rủi ro hơn X
(độ lệch chuẩn là 4 so với 2). Giả sử khi lợi nhuận của X cao thì lợi nhuận của Y
thấp, và ngược lại. Nói cách khác, khi lợi nhuận của X là 7%. Lợi nhuận của Y là
13%. Hỏi liệu danh mục bao gồm một số X và một số Y có ưu việt hơn chút nào đó
so với chỉ đầu tư vào X không? (X là cổ phiếu có tính rủi ro thấp hơn).
Chúng ta hãy xây dựng một danh mục bao gồm 2/3 là cổ phiếu X và 1/3 là cổ
phiếu Y. Lợi nhuận bình quân của danh mục này chính là lợi nhuận bình quân gia
quyền của từng loại chứng khoán trong danh mục là:
n
p i i
i=1
E(r ) w E(r )=

å
Với: W
i
là tỷ trọng của chứng khoán i trong tổng giá trị của danh mục, E(r
i
) là
lợi suất kỳ vọng của chứng khoán i, E(r
p
) thực chất là bình quân gia quyền của các
mức lợi suất của các chứng khoán trong danh mục.
Vậy, trong thí dụ trên E(r
p
) là:
E(r
p
) = 2/3 x 9% + 1/3 x 9% = 9%
Nhưng phạm vi dao động của danh mục đầu tư là bao nhiêu? Trong các kỳ mà
X là kết quả tốt, chúng ta có E(r
p
) = 2/3 x 11% + 1/3 x 5% = 9%; tương tự, khi Y đạt
kết quả cao, E(r
p
) = 2/3 x 7% + 1/3 x 13% = 9%. Vậy, bằng việc đầu tư một phần tiền
và cổ phiếu có tính rủi ro hơn, Y, chúng ta có thể giảm đáng kể rủi ro so với khi
chúng ta dồn toàn bộ vào cổ phiếu X, lợi nhuận dự kiến sẽ là 9%, lợi nhuận dự kiến
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 14
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
này thực ra là 7% ở những kỳ khó khăn và là 11% ở những kỳ thuận lợi. Độ lệch
chuẩn là 2%. Đầu tư theo tỷ lệ 2/3 cổ phiếu X là 1/3 cổ phiếu Y. Lợi nhuận dự kiến
và lợi nhuận thực hiện của chúng sẽ luôn luôn là 9%, với độ lệch chuẩn là 0. Chúng

ta khó có thể mong chờ việc đạt được lợi nhuận dự kiến tương tự mà rủi ro thấp hơn.
Việc giảm rủi ro của một danh mục bằng cách pha lẫn vào danh mục một loại
chứng khoán mà rủi ro của nó lớn hơn rủi ro của bất kỳ chứng khoán nào được đầu tư
từ đầu hàm ý là: Quá trình làm giảm tính rủi ro của danh mục chỉ bằng cách biết
được tính rủi ro của các chứng khoán cá thể là không thể được. Điều quan trọng là
chúng ta cũng phải hiểu rõ tác động qua lại của rủi ro giữa các chứng khoán với nhau.
Làm thế nào để đạt đến các tỷ lệ thích hợp của cổ phiếu X và Y để làm giảm
rủi ro xuống còn 0. Việc tìm ra hai chứng khoán mà thị trường kia có khuynh hướng
xấu thì càng chắc chắn lợi nhuận hợp lý đối với danh mục nói chung, cho dù một
trong các thành phần của nó thật sự có rủi ro.
Nghiên cứu rủi ro của danh mục:
Rủi ro liên quan với các chứng khoán cá biệt có thể đo lường bằng độ lệch
chuẩn hoặc hệ số biến thiên. Khi kết hợp hai chứng khoán, chúng ta cần xem xét tác
động qua lại giữa các rủi ro chung, gọi là hiệp phương sai (covariance). Nếu lợi
nhuận của hai chứng khoán vận động cùng chiều, hiệp phương sai của chúng dương.
Nếu lợi nhuận của chúng độc lập với nhau hiệp phương sai của chúng là 0 và vận
động nghịch chiều sẽ có hiệp phương sai âm. Biểu diễn bằng phương trình toán học
thì hiệp phương sai là:
__ __
xy x x y y
1
COV R -R R -R
2
é ùé ù
ê úê ú
=
ê úê ú
ë ûë û
å
Với các xác suất bằng nhau và:

COV
xy
: Hiệp phương sai giữa X và Y.
R
x
: Lợi nhuận của chứng khoán X.
R
y
: Lợi nhuận của chứng khoán Y.
__
x
R
: Lợi nhuận dự kiến của chứng khoán X.
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 15
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
__
y
R
: Lợi nhuận dự kiến của chứng khoán Y.
n : Số lượng quan sát.
Chuẩn hóa hiệp phương sai bởi những độ lệch chuẩn riêng lẽ sẽ mang lại hệ
số tương quan (r
xy
). Hệ số tương quan này chỉ có thể thay đổi trong khoản từ -1 đến +
1. Giá trị +1 có thể nhấn mạnh mối quan hệ tuyến tính xác định giữa và R
x
và R
y
,
nghĩa là tỷ suất sinh lợi với hai cổ phiếu cùng thay đổi trong một kiểu tuyến tính xác

định hoàn toàn. Giá trị -1 có thể nhấn mạnh mối quan hệ phủ định hoàn toàn giữa hai
chuỗi tỷ suất sinh lợi. Như khi tỷ suất sinh lợi một cổ phiếu cao hơn mức trung bình,
tỷ suất sinh lợi của những cổ phiếu khác sẽ thấp hơn mức trung bình bằng một số
lượng lớn. Hệ số tương quan được tính toán như sau:
Với :
r
xy
: Hệ số tương quan của X và Y.
COV
xy
: Tương quan biến thiên giữa X và Y.
σ
x
: Độ lệch chuẩn của X.
σ
y
:Độ lệch chuẩn của Y.
Trong thí dụ nêu ở phần trên, hệ số tương quan là:
r
xy
= -8 / [2 x 4] = -1
Vậy hai chứng khoán X và Y có tương quan phủ định hoàn toàn.
Hiệu quả của danh mục đầu tư trong trường hợp 2 chứng khoán:
Chúng ta đã thấy hiệu quả của sự đa dạng hóa làm giảm rủi ro. Điều cốt lõi
không phải là 2 cổ phiếu mang lại gấp hai lần hơn so với một mà là do đầu tư vào
những chứng khoán có tương quan âm hay thấp, chúng ta có thể giảm bớt rủi ro. Lý
thuyết đa dạng hóa hiệu quả của Markowitz bao gồm sự kết hợp các chứng khoán với
tương quan âm nhằm giảm rủi ro của danh mục mà không phải hy sinh bất kỳ khoản
lợi nhuận nào của danh mục. Nói chung, tương quan giữa các chứng khoán trong
danh mục càng thấp thì danh mục càng ít rủi ro. Điều này đúng cho dù các cổ phiếu

Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 16
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
của danh mục rất rủi ro khi đứng riêng biệt. Vấn đề không phải đầu tư thật nhiều
chứng khoán mà là đầu tư vào những chứng khoán thích hợp.
Công thức tính độ lệch chuẩn giữa các chứng khoán (để đơn giản xin trình bày
công thức tính phương sai _ bình phương của độ lệch chuẩn) của một danh mục như
sau:
n n n n
2
p i j i j ij i j ij
i=1 j=1 i=1 j=1
w .w .σ .σ .r w .w .COV= =s
å å å å
Biểu thức này được trình bày lại ở dạng dễ khai triển hơn như sau:
n n n
2 2 2
p i i i j ij
i=1 i=1 j=1
σ = w .σ + w .w .COV (*)
å å å
Trường hợp danh mục chỉ gồm 2 chứng khoán, phương sai của danh mục sẽ
được áp dụng như sau:
Áp dụng công thức (*) với n = 2 ta được
2 2 2 2 2
p 1 1 2 2 1 2 12
. . 2w .w .COV w w= + +s s s
Trường hợp danh mục gồm 3 chứng khoán, ta cũng áp dụng (*) với n = 3 tính
được phương sai của danh mục như sau:
2 2 2 2 2 2 2
p 1 1 2 2 3 3 1 2 12 1 3 13 2 3 23

. . . 2w .w .COV 2w .w .COV 2w .w .COV w w w= + + + + +s s s s
2
p
s
: Độ lệch chuẩn của danh mục.
p
s
: Độ lệch chuẩn của cổ phiếu i.
w
i
: Tỷ trọng đầu tư vào cổ phiếu i trong danh mục đầu tư.
Cov
ij
: Hiệp phương sai của hai cổ phiếu.
Chúng ta có thể thấy rằng, rủi ro danh mục (
p
s
) nhạy cảm với tỷ lệ đầu tư
dành cho mỗi cổ phiếu, độ lệch chuẩn của từng loại cổ phiếu và tương quan biến
thiên giữa hai loại cổ phiếu trong danh mục. Với công thức trên nếu chứng khoán i và
j độc lập nhau, tức r
ij
= 0 thì COV
ij
= 0 lúc đó
2 2 2
1
.
n
p i i

i
w
s s
=
=
å
Trường hợp danh mục bao gồm N chứng khoán với các tỷ trọng đầu tư như
nhau vào từng chứng khoán. Các chứng khoán này có phương sai như nhau kí hiệu
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 17
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
σ
2
, tất cả hiệp phương sai đều giống nhau, kí hiệu là COV, phương sai của danh mục
sẽ là :
2
p
s
= 1/N σ
2
+ (1- 1/N) COV
Nếu số lượng chứng khoán trong danh mục tăng lên (N -> ∞) thì phương sai
danh mục chỉ còn lại
2
p
s
= COV
Điều này đưa đến một kết luận quan trọng là có thể loại trừ hoàn toàn các rủi
ro không hệ thống bằng cách nắm giữ một số lượng lớn chứng khoán, lúc này rủi ro
của danh mục chỉ còn lại là rủi ro thị trường.
1.2.4.3. Xây dựng mô hình danh mục đầu tư theo Harry Markowitz:

Để giảm thiểu rủi ro cho khoản đầu tư vào thị trường chứng khoán, hoạt động
đầu tiên và quan trọng nhất của việc quản lý danh mục đầu tư là phải xây dựng một
danh mục đầu tư hiệu quả. Chúng ta cần làm rõ một số giả định chung của lý thuyết
danh mục của Harry Markowitz:
(1) Các nhà đầu tư xem mỗi khoản đầu tư khác nhau được đại diện cho một sự phân
phối xác suất của tỷ suất sinh lợi mong đợi lên một vài thời kỳ nắm giữ.
(2) Các nhà đầu tư luôn muốn tối đa hóa lợi ích mong đợi trong một thời kỳ nhất định
và đường cong hữu dụng của họ chứng tỏ việc thu nhỏ mức hữu dụng biên tế của sự
giàu có.
(3) Các nhà đầu tư đánh giá rủi ro của danh mục đầu tư dựa trên cơ sở phương sai của
tỷ suất sinh lợi mong đợi.
(4) Các nhà đầu tư căn cứ trên những quyết định độc lập của tỷ suất sinh lợi và rủi ro
mong đợi, vì vậy đường cong hữu dụng của họ là một phương trình của tỷ suất sinh
lợi và phương sai (hoặc độ lệch chuẩn) của tỷ suất sinh lợi.
(5) Với một mức độ rủi ro cho trước, các nhà đầu tư ưa thích tỷ suất sinh lợi cao hơn
là một tỷ suất sinh lợi thấp. Tương tự, với một mức độ tỷ suất sinh lợi mong đợi cho
trước, các nhà đầu tư thích ít rủi ro hơn là nhiều rủi ro.
Với những giả định này, một tài sản riêng lẻ hay danh mục của những tài sản
được xem như có hiệu quả nếu không có tài sản nào khác hoặc danh mục của những
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 18
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
tài sản đem lại tỷ suất sinh lợi mong đợi cao hơn với cùng mức độ (hoặc ít) rủi ro,
hoặc ít rủi ro hơn với cùng hoặc cao hơn tỷ suất sinh lợi mong đợi. Các giả thiết trên
của mô hình không đúng trong thực tế, chúng được đặt ra để đơn giản hóa lý thuyết
xây dựng mô hình. Mô hình được chấp nhận hay không tùy thuộc vào việc áp dụng
mô hình đó cho kết quả phù hợp với thực tế đến mức nào.
Dựa trên các giả thiết đó, có thể lập mô hình để giải quyết việc xây dựng danh
mục đầu tư hiệu quả gồm một trong 2 bài toán sau:
Bài toán thuận: Với giá trị tỷ suất sinh lợi kỳ vọng xác định, tìm quyền số các chứng
khoán của danh mục đầu tư sao cho phương sai của nó

2
p
s
nhỏ nhất
Bài toán nghịch: Với giá trị
2
p
s
xác định, tìm quyền số các chứng khoán của danh
mục đầu tư sao cho r
p
cực đại.
Mô hình trên xem lãi suất kỳ vọng là thu nhập và phương sai của nó là thước
đo duy nhất rủi ro một danh mục đầu tư, nên còn được gọi là mô hình phân tích
phương sai – lãi suất kỳ vọng.
1.3. Cơ sở lý luận về hoạt động đầu tư tại các công ty bảo hiểm:
1.3.1. Sự cần thiết của hoạt động đầu tư tại các công ty bảo hiểm:
Ngành kinh doanh bảo hiểm không giống như các ngành sản xuất kinh doanh
khác. Khi một hợp đồng bảo hiểm được ký kết, nhà kinh doanh bảo hiểm tiến hành
thu phí trước của khách hàng. Sau đó bằng sự cam kết của mình thông qua hợp đồng
bảo hiểm – các công ty sẽ thực hiện trách nhiệm đối với khách hàng. Chính vì lẽ ấy
người ta gọi kinh doanh bảo hiểm có “chu trình sản xuất ngược”. Nói cách khác,
cùng với hoạt động kinh doanh chính là bảo hiểm thì các công ty bảo hiểm luôn phải
quản lý một nguồn vốn lớn và ổn định. Đây là nguồn gốc hình thành nguồn vốn nhàn
rỗi hay còn gọi là các quỹ dự phòng nghiệp vụ trong các công ty bảo hiểm. Pháp luật
cho phép công ty bảo hiểm sử dụng nguồn dự phòng này để đầu tư. Việc đầu tư
nguồn vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp bảo hiểm vừa là quyền lợi đồng thời là trách
nhiệm của các công ty bảo hiểm.
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 19
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định

Trong nền kinh tế thị trường, đầu tư nguồn vốn là sự cần thiết và có tầm quan
trọng đặc biệt, không chỉ đối với sự tồn tại và phát triển của một công ty bảo hiểm,
bới nó không chỉ mang lại lợi ích cho chính các công ty bảo hiểm mà còn mang lại
lợi ích cho sự phát triển của nền kinh tế.
Đối với công ty bảo hiểm phi nhân thọ (BHPNT), mục đích của thiết lập các
quỹ dự phòng kỹ thuật (technical reserve) đối với công ty bảo hiểm không phải hoàn
toàn nhằm vào việc đầu tư kiếm lời, mà để đảm bảo duy trì khả năng thanh toán
thường xuyên cho công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, quỹ dự phòng bản chất là nguồn vốn
nhàn rỗi nên sẽ được công ty bảo hiểm thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau
để đạt mục tiêu sinh lợi mà công ty đã đề ra. Thu nhập từ hoạt động đầu tư quỹ dự
phòng sẽ giúp công ty bảo hiểm tăng cường khả năng thanh toán và bảo vệ tốt nhất
quyền lợi của những người được bảo hiểm. Mặt khác, cho phép công ty bảo hiểm bù
đắp được các khoản chi phí bồi thường, chi phí quản lý, và đảm bảo lợi nhuận kinh
doanh. Từ đó tạo điều kiện cho công ty bảo hiểm tăng cường khả năng cạnh tranh của
mình và tăng năng lực ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Đối với các công ty bảo hiểm nhân thọ (BHNT), khi tính phí sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ, công ty bảo hiểm đã cho khách hàng hưởng trước một mức lãi suất
nhất định, chính là lãi suất kỹ thuật. Vì vậy, sau khi thu phí, công ty bảo hiểm phải
thực hiện đầu tư ngay số phí bảo hiểm với tỷ suất sinh lời thực tế phải tối thiểu bằng
với lãi suất kỹ thuật thì các công ty BHNT mới đủ khả năng chi trả cho khách hàng
trong tương lai. Vì vậy hoạt động đầu tư là hoạt động sống còn của các công ty
BHNT và hoạt động này vừa phải đảm bảo tính an toàn đồng thời phải mang lại hiệu
quả cao để có thể trang trãi cho các chi phí khá lớn của công ty. Nếu kết quả đầu tư
tốt, công ty BHNT sẽ có đủ điều kiện để đảm bảo thực hiện đầy đủ các cam kết, đồng
thời có thể chia lại cho người được bảo hiểm một phần kết quả phụ trội thông qua các
điều khoản lãi chi thêm trên hợp đồng bảo hiểm. Điều này sẽ góp phần làm tăng tính
hấp dẫn cho các sản phẩm bảo hiểm của công ty.
Theo xu hướng, kết quả kinh doanh của công ty bảo hiểm không phải là lợi
nhuận hoạt động này mang lại, mà chủ yếu là do kết quả của hoạt động đầu tư tài
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 20

Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
chính. Trong tình hình kinh doanh cạnh tranh ngày càng gay gắt, công ty nào sử dụng
đồng vốn có hiệu quả và đạt được mức sinh lời cao nhất sẽ có ảnh hưởng tích cực
đến kết quả hoạt động kinh doanh của toàn công ty. Kết quả này đảm bảo cho công ty
có lợi nhuận để trích đủ các quỹ dự phòng nghiệp vụ, dự trữ tài chính theo quy định
của pháp luật và đảm bảo cơ sở cho việc cho việc phát triển kinh doanh của công ty.
1.3.2. Vai trò đầu tư quỹ bảo hiểm:
Ở các nước phát triển, quỹ bảo hiểm được dùng vào hoạt động đầu tư rất lớn,
đóng một vai trò quan trọng, biểu hiện cho sự tích trữ của nền kinh tế quốc gia và các
công ty bảo hiểm tham gia vào thị trường tài chính với tư cách là những cơ quan đầu
tư chuyên nghiệp chi phối thị trường đầu tư một cách mạnh mẽ.
Đầu tư bảo hiểm thể hiện được hai vai trò:
 Thứ nhất, đảm bảo mang lại lợi nhuận cho các công ty bảo hiểm: Sự tiến
bộ của khoa học kỹ thuật đã kéo theo sự xuất hiện hàng loạt các rủi ro bảo hiểm với
mức độ tổn thất ngày càng gia tăng: Bảo hiểm hàng không, bảo hiểm thiết bị điện tử,
kĩ thuật dầu khí… bên cạnh đó sự cạnh tranh ngày càng gay gắt (giảm phí) của các
công ty bảo hiểm và chi phí quản lý tăng cao đã làm cho lợi nhuận thuần từ hoạt
động kinh doanh bảo hiểm sa sút dần. Tuy nhiên nhờ vào lợi nhuận thu được từ đầu
tư mà tổng lợi nhuận của công ty bảo hiểm không bị giảm mà đôi khi có phần tăng
trưởng.
 Thứ hai, đảm bảo được lợi ích của người tham gia bảo hiểm: Lợi nhuận
thu được từ hoạt động đầu tư sẽ góp phần làm giảm phí bảo hiểm. Đặc biệt đối với
BHNT, lợi nhuận từ hoạt động đầu tư sẽ được chia cho người tham gia bảo hiểm.
Như vậy lợi nhuận của người được bảo hiểm sẽ gia tăng theo lợi nhuận đầu tư.
1.3.3. Các nguyên tắc trong đầu tư quỹ bảo hiểm:
Hoạt động đầu tư của bảo hiểm nói chung đều phải tuân theo những nguyên
tắc cơ bản sau:
1.3.3.1 . Nguyên tắc an toàn:
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 21
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định

Nguyên tắc này được đặt ra nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong đầu tư, bảo toàn,
tăng trưởng nguồn vốn sử dụng. Hoạt động đầu tư của nhà bảo hiểm cũng giống như
bất kỳ hoạt động đầu tư nào, luôn đứng trước những rủi ro đầu tư sau:
a. Rủi ro lãi suất: Rủi ro này xuất phát từ chỗ giá trị của các khoản đầu tư có
lãi suất cố định chịu sự biến động khi lãi suất trên thị trường thay đổi và tỷ suất thu
hồi thực (tức là lãi suất đã điều chỉnh theo lạm phát) có thể biến đổi một cách tương
tự.
b. Rủi ro tín dụng: Rủi ro này xảy ra khi bên vay vốn của nhà bảo hiểm bị
phá sản hay tái cơ cấu tổ chức, khiến họ không thể trả lại tiền đầu tư cho nhà bảo
hiểm như đã cam kết.
c. Rủi ro thị trường: Rủi ro này xuất phát từ sự thay đổi của thị trường
thuộc lĩnh vực mà nhà bảo hiểm đầu tư.
d. Rủi ro tiền tệ: Tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ luôn thay đổi
làm cho giá trị của các khoản đầu tư thông qua đồng ngoại tệ sẽ thay đổi theo.
Việc đảm bảo nguyên tắc đầu tư vốn an toàn là rất quan trọng đối với doanh
nghiệp bảo hiểm (DNBH), nó đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện các cam kết với
khách hàng trong các hợp đồng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nguyên tắc an toàn của
các khoản mục đầu tư được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục đầu tư
với những lĩnh vực có mức độ rủi ro đầu tư thấp. Ngoài ra, nguyên tắc này yêu cầu
DNBH phải đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình. Nguyên tắc phân tán rủi ro
không chỉ áp dụng đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm trực tiếp mà mỗi danh mục
đều mang trong mình những yếu tố rủi ro riêng. Do đó để phân tán rủi ro, cách tốt
nhất là đặt vốn vào nhiều danh mục khác nhau. Các hạng mục đầu tư phải được tiến
hành với những công ty được quản lý tốt, hoặc tránh đi những lĩnh vực đầu tư có tính
chất đầu cơ cao hoặc những công việc kinh doanh mạo hiểm vì nếu thất bại thì hậu
quả đối với DNBH là rất lớn.
1.3.3.2 . Nguyên tắc sinh lợi:
Hoạt động đầu tư phải đảm bảo tạo ra lợi nhuận. Đây là yêu cầu tất yếu của
hoạt động đầu tư và quyết định đến sự tồn vong của từng DNBH, bởi vì suy cho cùng
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 22

Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
mọi sự đầu tư vốn cũng nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Với mức phí thu được của người
tham gia bảo hiểm, DNBH đã nắm giữ được một nguồn tài chính dồi dào. Do còn
phải thực hiện cam kết chia lãi cho người tham gia bảo hiểm, DNBH phải thực hiện
hoạt động đầu tư trên nhiều lĩnh vực nhằm tối đa hóa lợi nhuận để tăng khả năng đền
bù, giảm phí đối với người tham gia làm cho sản phẩm bảo hiểm ngày càng hấp dẫn
hơn.
Lợi nhuận rất cần thiết để đảm bảo cho nhà bảo hiểm tăng cường sức mạnh tài
chính, thực hiện các chiến lược của doanh nghiệp như mở rộng phạm vi kinh doanh
bảo hiểm, tăng tính cạnh tranh đảm bảo quyền lợi của khách hàng,… Do đó, nhà bảo
hiểm cần đầu tư vào những lĩnh vực đem lại mức lợi nhuận hợp lý, đồng thời đảm
bảo nguyên tắc an toàn. Bởi vì theo nguyên lý đầu tư: Khi rủi ro càng cao, tỷ suất
sinh lợi cũng càng cao và ngược lại.
1.3.3.3 . Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, kịp thời:
Việc đầu tư của công ty bảo hiểm phải đảm bảo có tính thanh khoản hợp lý.
Nhà bảo hiểm có thể phải thanh toán tiền cho người được bảo hiểm bất kỳ lúc nào khi
có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do đó, các lĩnh vực đầu tư phải phù hợp với từng loại
quỹ – đầu tư dài hạn hay ngằn hạn. Tính thanh khoản của các khoản mục đầu tư của
nhà bảo hiểm được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục đầu tư với những
tỷ lệ nhất định.
Trong thực tế, việc đồng thời thực hiện các nguyên tắc trên đối với công ty
bảo hiểm là một vấn đề rất phức tạp và mâu thuẫn với nhau. Khi công ty bảo hiểm
thực hiện nguyên tắc an toàn, thì khả năng sinh lời của khoản đầu tư bị giảm xuống.
Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến nguyên tắc sinh lời, rủi ro đầu tư sẽ tăng lên, ảnh hưởng
đến khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm. Ngoài ra, các nguyên tắc đầu tư cần
được áp dụng linh hoạt tùy thuộc vốn đầu tư được hình thành từ nguồn nào. So với
hoạt động đầu tư từ các nguồn vốn nợ (như vốn điều lệ), hoạt động đầu tư từ các
nguồn vốn có (như các quỹ dự phòng nghiệp vụ) phải tuân thủ các nguyên tắc trên là
hết sức nghiêm ngặt. Bởi vì đây không phải là tiền của nhà bảo hiểm mà là các khoản
nợ của doanh nghiệp đối với khách hàng.

Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 23
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
1.3.4. Quy định về danh mục đầu tư của công ty bảo hiểm:
Công ty bảo hiểm sẽ đầu tư các quỹ dự phòng kỹ thuật vào các tài sản khác
nhau. Nói chung, các tài sản được công ty bảo hiểm đầu tư là những tài sản mang lại
thu nhập bằng tiền. Tuy nhiên, không phải công ty bảo hiểm có thể đầu tư vào mọi
loại tài sản mà chỉ những tài sản đầu tư nào có đặc tính sinh lợi đáp ứng được những
nguyên tắc theo luật định, cho phép công ty bảo hiểm thực hiện tốt nhất các cam kết
của mình với người được bảo hiểm.
Để đảm bảo các công ty bảo hiểm thực hiện tốt nhất các nghĩa vụ với người
được bảo hiểm, nhìn chung luật pháp ở các nước đã giới hạn danh mục tài sản đầu tư
vốn từ các quỹ dự phòng kỹ thuật của công ty bảo hiểm, bao gồm:
 Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng để thanh toán thường xuyên cho khách hàng.
 Các loại chứng khoán và những giấy tờ có nguồn gốc chứng khoán. Đây là hình
thức đầu tư chủ yếu của các công ty bảo hiểm. Ở nhiều nước tỷ lệ này có thể lên đến
80% trong tổng vốn đầu tư công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, chứng khoán chỉ là những
giấy tờ có giá chứ không phải là các tài sản thực, quá trình lưu thông của nó được vận
hành đặc biệt, để đảm bảo an toàn công ty bảo hiểm chỉ được đầu tư vào những
chứng khoán đã được đăng ký trên thị trường chứng khoán.
 Trái phiếu là hình thức đầu tư chủ yếu, trong đó trái phiếu chính phủ
(TPCP) phải được ưu tiên hàng đầu, vì tính an toàn cao và lại có lãi. Vì vậy không có
giới hạn trong hình thức đầu tư này. Tại nhiều nước, do cần khuyến khích ưu tiên tài
trợ cho khu vực nhà nước, họ đã áp dụng miễn thuế lợi tức cho khoản thu nhập từ
đầu tư trái phiếu. Trái phiếu công ty, do tính an toàn tương đối cao nên cũng được
các công ty bảo hiểm quan tâm. Tuy nhiên phải khống chế tối đa khi đầu tư vào trái
phiếu của công ty để đảm bảo an toàn.
 Cổ phiếu là hình thức đầu tư lớn thứ hai sau trái phiếu chính phủ, được
công ty quan tâm bởi tính sinh lợi của nó. Tuy nhiên, để tiếp cận đến thị trường này
đòi hỏi phải có nhiều biện pháp ở tầm vĩ mô, đồng thời phải thực hiện đầu tư nhiều
loại cổ phiếu khác nhau nhằm phân tán rủi ro, đạt được sự an toàn trong đầu tư.

Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 24
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
 Đầu tư kinh doanh bất động sản: Đầu tư loại hình này là hướng tới lợi ích trong
tương lai, gắn liền với chính sách quy hoạch phát triển, ổn định mới có thể giảm thiểu
được những rủi ro của nó. Tuy nhiên, ở nước ta do chính sách quản lý đất, tài nguyên
và cơ chế quản lý chưa phù hợp, việc đầu tư vào thị trường này chưa được định
hướng rõ ràng.
 Cho vay: Công ty bảo hiểm có thể cho các chủ thể vay, nhưng các khoản vay này
được đảm bảo chắc chắn bằng tài sản thế chấp hay cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh
của ngân hàng hoặc là những công ty này phải có vốn tự có lớn.
1.3.5. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của các công ty
bảo hiểm:
Mọi hoạt động đầu tư của các DNBH đều có mục đích lớn nhất là tối đa hóa
lợi nhuận của doanh nghiệp và các cổ đông vì vậy để đánh giá hiệu quả đầu tư
thường thông qua các nhóm chỉ số chính gồm:
Nhóm chỉ số về tính thanh khoản:
Chỉ tiêu thanh khoản được xác định bằng cách so sánh tổng cộng nợ với tài
sản có tính thanh khoản (Tiền mặt và các tài sản Có có thể huy động, có thể quy đổi
ngay thành tiền).

Chỉ tiêu tỷ lệ đầu tư vào các công ty liên kết:
Chỉ tiêu tỷ lệ đầu tư vào các công ty liên kết tính tỷ lệ % của giá trị tài sản đầu
tư vào công ty liên kết (bao gồm vốn đầu tư và các khoản phải thu từ công ty liên kết)
so với nguồn vốn, quỹ của DNBH. Công ty liên kết là một đơn vị trong hệ thống tổng
công ty hay là một bộ phận, trực tiếp hay gián tiếp, thông qua một hay nhiều tổ chức
trung gian, kiểm soát, bị kiểm soát, hay nằm dưới sự kiểm soát thông thường với
công ty lập báo cáo. Công ty liên kết có thể bao gồm công ty mẹ, công ty con, công ty
thành viên, công ty liên doanh và công ty trách nhiệm hữu hạn. Tỷ lệ đầu tư vào các
công ty liên kết càng lớn thì tính thanh khoản của DNBH càng giảm.
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 25

Tổng cộng nợ
Tài sản có tính thanh khoản
Chỉ tiêu thanh khoản =

×