Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Hoàn thiện công tác giám định và bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm vật chất và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 89 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động bảo hiểm đã có từ xa xưa và nó được xã hội đánh giá là có vai trò
vô cùng to lớn trong việc ổn định cuộc sống của con người và góp phần tích cực
vào việc đảm bảo tính liên tục, sự ổn định và hiệu quả của quá trình sản xuất, lưu
thông cũng như tiêu dùng xã hội. Bảo hiểm đã hỗ trợ về mặt tài chính qua công tác
bồi thường hoặc chi trả cho các đơn vị và các cá nhân tham gia bảo hiểm khi có
những tổn thất hoặc thiệt hại hay thương tật thân thể phát sinh từ những rủi ro được
bảo hiểm. Ngoài ra, nó còn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của thị
trường tài chính thông qua hoạt động đầu tư vốn và các quỹ nhàn rỗi được hình
thành trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong số những nghiệp vụ mà các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ triển
khai, bảo hiểm kết hợp xe cơ giới (chủ yếu là bảo hiểm vật chất và bảo hiểm trách
nhiệm dân sự (TNDS) của chủ xe cơ giới với người thứ ba) là một nghiệp vụ chủ
yếu. Ở Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), nghiệp vụ này luôn chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng doanh thu. Tuy nhiên, công tác giám định và bồi
thường nghiệp vụ ở PJICO vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Với mục tiêu phát triển
bền vững và hiệu quả, PJICO không thể không chú trọng đến công tác nâng cao
chất lượng dịch vụ sau bán hàng vì chỉ có giải quyết tốt nhu cầu khách hàng, doanh
nghiệp mới có đủ uy tín để tồn tại trong một môi trường cạnh tranh gay gắt như
hiện nay.
Vì lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác giám định và bồi
thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm vật chất và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex” để
nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn bao gồm ba chương:
1
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất và bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Chương 2: Thực trạng công tác giám định, bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo
hiểm vật chất và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ ba
tại PJICO


Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác giám định, bồi thường tổn thất nghiệp vụ
bảo hiểm vật chất và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba tại PJICO
2
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE
VÀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI
VỚI NGƯỜI THỨ BA
1.1 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm vật chất xe và bảo hiểm TNDS chủ
xe cơ giới đối với người thứ ba
Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất kinh doanh, con người luôn phải
đối mặt với rất nhiều rủi ro. Ngày nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã giúp
con người kiểm soát và hạn chế được phần nào rủi ro, song chính bàn tay con
người lại gây ra nhiều loại rủi ro khác và không ít rủi ro trong xã hội hiện đại đang
đe doạ cuộc sống loài người với mức độ nguy hiểm khôn lường. Để bù đắp những
thiệt hại, tổn thất có thể gặp phải, từ trước đến nay, loài người đã có nhiều biện
pháp, và bảo hiểm luôn được coi là biện pháp hữu hiệu nhất. Có nhiều định nghĩa
về bảo hiểm, nhưng ở một tầm nhìn khái quát, bảo hiểm được hiểu là phương thức
xử lý rủi ro, nhờ đó việc chuyển giao và phân tán rủi ro trong từng nhóm người
được thực hiện thông qua hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các tổ chức bảo
hiểm.
Trong nền kinh tế, giao thông vận tải luôn là ngành kinh tế kỹ thuật có vị trí
then chốt, là huyết mạch và có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các ngành
khác. Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn thì nhu cầu đi
lại cũng tăng lên một cách nhanh chóng. Hình thức vận chuyển rất đa dạng bằng
đường thuỷ, đường sắt, đường bộ và đường hàng không. Số lượng và chất lượng
phương tiện vận chuyển ngày càng tăng. Ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên
thế giới, giao thông đường bộ phổ biến hơn cả. Bởi vì, xe cơ giới tham gia giao
thông đường bộ có đặc điểm linh hoạt và được sử dụng trên mọi địa hình khác
nhau, rất thuận tiện cho việc vận chuyển hành khách và hàng hoá. Do vậy, chính
3

phủ các nước luôn quan tâm đến công tác nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng giao
thông đường bộ để đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa ngày càng gia
tăng.
Tuy nhiên, xe cơ giới được vận hành bằng một lực do động cơ tạo ra nên
được coi là một nguồn nguy hiểm cao độ. Do vậy, rủi ro tai nạn giao thông đường
bộ rất dễ xảy ra. Sự phát triển của xe cơ giới luôn gắn với sự phát triển của cơ sở
hạ tầng. Nếu hạ tầng giao thông chưa phát triển mà số lượng phương tiện giao
thông lại tăng lên quá nhanh thì sự không đồng bộ này sẽ là một trong những
nguyên nhân khiến cho tai nạn giao thông nhiều thêm. Ở Việt Nam, số lượng
phương tiện giao thông đường bộ trong những năm qua tăng lên khá nhanh. (Xem
Bảng 1.1 ) .
Bảng 1.1: Số xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ ở Việt Nam (1990-2006)
4
Nếu năm 1990, cả nước chỉ có 246.194 xe ô tô thì đến năm 2006 đã có
1.026.512 xe (tăng 4,17 lần). Số lượng xe máy tăng lên nhiều hơn với 15,6 lần từ
năm 1990 đến năm 2006. Trong khi đó tốc độ phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng
ở nước ta hiện nay không đáp ứng được nhu cầu tham gia giao thông. Đây là một
trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho số vụ tai nạn giao thông ở Việt
Nam khá cao. Bên cạnh đó, ý thức cũng như sự hiểu biết và tôn trọng luật an toàn
giao thông của một số chủ phương tiện (phóng nhanh, vượt ẩu, chở quá tải …..)
làm cho rủi ro tai nạn giao thông ngày càng tăng. Ngoài ra, còn phải kể đến nguyên
nhân là các phương tiện giao thông đường bộ cũ nát, không đảm bảo chất lượng.
Năm Ô tô So sánh với năm trước Mô tô So sánh với năm trước
Tăng
(giảm) tuyệt
đối
Tăng (giảm)
tương đối
(%)
Tăng (giảm)

tuyệt đối
Tăng (giảm)
tương đối
(%)
1990 246 194 - - 1 209 463 - - 1 455 657
1991 256 898 10 704 4,30 1 522 184 312 721 25,90 1 779 082
1992 268 000 11 102 4,30 2 039 000 516 816 34,00 2 307 000
1993 292 899 24 899 9,30 2 427 163 388 163 19,00 2 720 062
1994 330 000 37 101 12,70 3 000 000 572 837 23,60 3 330 000
1995 340 779 10 779 3,30 3 578 156 578 156 19,30 3 918 935
1996 386 979 46 200 13,60 4 208 274 630 118 17,60 4 595 253
1997 418 768 31 789 8,20 4 827 219 618 945 14,70 5 245 987
1998 443 000 24 232 5,80 5 200 000 372 781 7,70 5 643 000
1999 465 000 22 000 5,00 5 585 000 385 000 7,40 6 050 000
2000 483 917 18 917 4,10 6 210 823 625 823 11,20 6 694 740
2001 557 092 73 175 15,10 8 359 042 2 148 219 34,60 8 916 134
2002 607 401 50 309 9,00 10 273 000 1 913 958 22,90 10 880 401
2003 675 000 67 599 11,10 11 379 000 1 106 000 10,80 12 054 000
2004 774 824 99 824 14,80 13 375 992 1 996 992 17,50 14 150 816
2005 891 104 116 280 15,00 16 086 644 2 710 652 20,30 16 977 748
2006 1 026 512 135 408 15,20 18 901 206 2 814 562 17,50 19 927 718
(Nguồn: Báo cáo của Ủy ban an toàn giao thông)
5
Bởi vậy, tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở nước ta trong những năm qua là
rất khủng khiếp.
Bảng 1.2: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam (1990 - 2006)
Năm
Số vụ Số người chết Số người bị thương
Số vụ
So sánh với năm trước

Số người
chết
So sánh với năm trước
Số người bị
thương
So sánh với năm trước
Tăng (giảm)
tuyệt đối
Tăng (giảm)
tương đối
(%)
Tăng
(giảm)
tuyệt đối
Tăng
(giảm)
tương đối
(%)
Tăng (giảm)
tuyệt đối
Tăng
(giảm)
tương đối
(%)
1990 5 565 - - 2 087 - - 4 468 - -
1991 6 864 1 299 23,30 2 395 308 14,80 6 846 2 378 53,20
1992 8 165 1 301 19,00 2 755 360 15,00 9 040 2 194 32,00
1993 11 678 3 513 43,00 4 350 1 595 57,90 12 590 3 550 39,30
1994 13 118 1 440 12,30 4 533 183 4,20 13 056 466 3,70
1995 15 376 2 258 17,20 5 430 897 19,80 16 920 3 864 29,60

1996 19 075 3 699 24,10 5 581 151 2,80 21 556 4 636 27,40
1997 19 162 87 0,46 5 324 -257 -4,60 20 465 -1 091 5,06
1998 20 725 1 563 8,16 5 518 194 3,64 21 869 1 404 6,86
1999 21 512 787 3,80 5 682 164 2,97 22 897 1 028 4,70
2000 23 115 1 603 7,45 6 131 449 7,90 24 264 1 367 5,97
2001 24 324 1 209 5,23 7 526 1 395 22,75 25 689 1 425 5,87
2002 25 998 1 674 6,88 8 312 786 10,44 25 955 266 1,04
2003 27 121 1 123 4,32 8 851 539 6,48 26 256 301 1,16
2004 29 135 2 014 7,43 9 103 252 2,85 27 102 846 3,22
2005 29 083 -52 -0,18 11 214 2 111 23,19 28 326 1 224 4,52
2006 30 125 1 042 3,58 12 111 897 8,00 28 965 639 2,26
(Nguồn: Báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông )
Theo số liệu ra ở bảng trên, số vụ tai nạn giao thông ở nước ta đã tăng lên
5,4 lần, số người chết tăng lên 5,8 lần và số người bị thương tăng lên 6,5 lần trong
giai đoạn từ năm 1990 đến 2006.
Khi tai nạn giao thông xảy ra, các chủ xe không chỉ bị thiệt hại về vật chất ,
thiệt hại về con người mà còn có thể phải đền bù thiệt hại cho các nạn nhân trong
6
vụ tai nạn. Thực tế này đã tạo ra cả sức ép tài chính lẫn tinh thần đối với các chủ
phương tiện giao thông đường bộ. Chính vì vậy, bảo hiểm xe cơ giới đã được triển
khai ở hầu hết các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam nhằm đáp ứng cho nhu
cầu được bảo vệ của chủ xe khi có rủi ro tai nạn giao thông xảy ra.
Bảo hiểm xe cơ giới là tập hợp các nghiệp vụ bảo hiểm gắn với các rủi ro tai
nạn giao thông đường bộ, bao gồm: bảo hiểm vật chất xe cơ giới, bảo hiểm TNDS
chủ xe đối với người thứ ba, bảo hiểm TNDS chủ xe đối với hang hoá chuyên chở
trên xe, bảo hiểm TNDS chủ xe đối với hành khách, bảo hiểm tai nạn lái phụ xe,
bảo hiểm người ngồi trên xe,… Trong số đó, bảo hiểm vật chất xe và bảo hiểm
TNDS chủ xe đối với người thứ ba là hai nghiệp vụ chủ yếu. Trước thực trạng tai
nạn giao thông đường bộ ngày càng nhiều, cho nên sự ra đời và phát triển của bảo
hiểm xe cơ giới là một tất yếu khách quan.

1.2 Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe và bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba
1.2.1 Góp phần ổn định tài chính cho chủ phương tiện khi gặp rủi ro tai nạn giao
thông
Nền kinh tế Việt Nam đã và đang có những chuyển biến to lớn cả về chất và
về lượng, Nhà nước không ngừng khuyến khích mọi thành phần kinh tế sản xuất
kinh doanh nhằm tận dụng nguồn tài chính nằm trong dân, nguồn vốn nhàn rỗi vào
kinh doanh để sinh lời. Đối với một doanh nghiệp thì nguồn vốn quyết định sức
mạnh, vị thế, vì vậy mà trong quá trình kinh doanh doanh nghiệp dự trữ một khoản
tiền tương đối lớn để đề phòng khi rủi ro xảy ra bất ngờ thì quả là lãng phí. Đặc
biệt đối với doanh nghiệp có nhiều đầu xe thì quỹ dự trữ chiếm tỷ lệ lớn và rất khó
xác định. Khó khăn này sẽ được giải quyết thông qua hợp đồng bảo hiểm xe cơ
giới, công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm và quỹ này hoạt động trên nguyên tắc
7
“số đông bù số ít’’. Lúc này thay vì phải lập một quỹ riêng cho doanh nghiệp, chủ
phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ một quỹ lớn hơn rất nhiều do các thành
viên khác cùng đóng góp.
Khi tham gia bảo hiểm, không ai muốn rủi ro xảy ra để được bảo hiểm. Tuy
nhiên, rủi ro không loại trừ bất kỳ ai và có thể xảy ra bất cứ khi nào. Hậu quả là có
thể gây thiệt hại cả về người và của cho chủ phương tiện và người thứ ba. Khi xảy
ra tai nạn, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường trong hạn mức đối với bảo hiểm
trách nhiệm dân sự và số tiền bảo hiểm đối với vật chất xe. Số tiền bồi thường của
công ty cho chủ phương tiện giúp họ ổn định tình hình tài chính, nhanh chóng thoát
khỏi tình trạng khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Có thể nói, bảo hiểm xe cơ
giới đã góp phần tạo ra một tâm lý yên tâm, thoải mái cho các chủ xe, lái xe khi
điều khiển các phương tiện tham gia giao thông.
1.2.2 Bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba, góp phần xoa dịu căng thẳng giữa chủ
xe và người bị nạn.
Khi tai nạn giao thông xảy ra, những người thứ ba bị thiệt hại trong vụ tai
nạn có thể không được đền bù hoặc không được đền bù kịp thời thoả đáng do khả

năng tài chính hạn chế của chủ xe, nhất là trong những trường hợp có tổn thất lớn.
Bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba sẽ thay mặt chủ xe bồi
thường cho nạn nhân một cách nhanh chóng kịp thời, không lệ thuộc vào tài chính
của chủ xe. Rõ ràng, bảo hiểm là người đảm bảo quyền được nhận bồi thường của
người thứ ba bị thiệt hại khi có rủi ro tai nạn giao thông xảy ra, mặc dù số tiền bồi
thường của bảo hiểm có thể chỉ là một phần nhỏ trong thiệt hại khôn lường mà nạn
nhân phải gánh chịu.
Không chỉ là người bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba, bảo hiểm còn là một
người thương thuyết giỏi, có nhiều kinh nghiệm qua nhiều lần tham gia giải quyết
bồi thường cho các nạn nhân của các vụ tai nạn giao thông. Mối quan hệ vốn dễ bị
8
căng thẳng, thậm chí là xung đột giữa chủ xe và phía bên nạn nhân nhờ vậy có thể
được xoa dịu, được giải quyết theo hướng ôn hoà hơn.
1.2.3 Góp phần ngăn ngừa và đề phòng hạn chế tổn thất do tai nạn giao thông.
Số phí thu được từ người tham gia bảo hiểm sẽ hình thành nên một quỹ rất
lớn, quỹ này ngoài việc sử dụng bồi thường cho xe cơ giới khi rủi ro xảy ra, còn sử
dụng để đề phòng hạn chế tổn thất. Những nguy cơ tai nạn do hệ thống cơ sở hạ
tầng yếu kém đã được các DNBH hỗ trợ đầu tư hàng tỷ đồng để xây dựng đường
lánh nạn, đường phụ, làm thêm các biển báo chỉ đường, v.v… từ đó đã làm giảm
nguy cơ gây tai nạn. Đồng thời, DNBH cũng khuyến khích các chủ xe nâng cao ý
thức đề phòng hạn chế rủi ro và tổn thất. Chẳng hạn, các DNBH có thể phối hợp
với các ban ngành chức năng có liên quan để thực hiện tuyên truyền luật an toàn
giao thông. Các DNBH cũng có thể áp dụng mức phí ưu đãi dành cho các chủ xe,
lái xe ít gặp tai nạn giao thông, thực hiện đề phòng hạn chế tổn thất tốt.
1.2.4 Góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước và tạo thêm việc làm cho người
lao động
Đời sống của con người ngày càng được nâng lên, số lượng xe cơ giới cũng
tăng theo. Hơn nữa, khi điều kiện sống đầy đủ, trình độ nhận thức cao hơn thì nhu
cầu bảo vệ cho bản thân, gia đình và tài sản lại càng được quan tâm đặc biệt. Vì
thế, nhu cầu tham gia các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới ngày càng nhiều. Đây là

cơ hội để tăng doanh thu phí cho các DNBH và tăng ngân sách nhà nước thông qua
các hình thức thuế . Ngược lại, chính phủ có thể sử dụng ngân sách phối hợp với
doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Cùng với các nghiệp vụ bảo hiểm khác,
bảo hiểm xe cơ giới ra đời còn tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp
phần giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.
9
1.3 Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe và bảo hiểm TNDS của chủ xe
cơ giới đối với người thứ ba
1.3.2 Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
a. Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản, chủ xe tham gia
trên nguyên tắc tự nguyện. Đối tượng bảo hiểm chính là bản thân chiếc xe với đầy
đủ các yếu tố như xe cơ giới phải có giá trị cụ thể (có thể lượng hoá bằng tiền); xe
có giá trị sử dụng; xe có đầy đủ các điều kiện về tiêu chuẩn kỹ thuật và pháp lý để
được lưu hành; và xe cơ giới phải là một chỉnh thể thống nhất với đầy đủ các bộ
phận cấu thành.
Đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới có thể là ôtô hoặc mô tô. Nếu đối
tượng bảo hiểm là mô tô thì các chủ xe phải tham gia bảo hiểm cho toàn bộ xe.
Nếu đối tượng bảo hiểm là ô tô thì khi tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các
chủ xe có thể tham gia bảo hiểm cho toàn bộ xe hoặc chỉ tham gia bảo hiểm theo
từng tổng thành riêng biệt.
Xét về mặt kỹ thuật xe cơ giới, người ta chia ô tô thành 7 tổng thành cơ bản:
- Tổng thành thân vỏ bao gồm: cabin toàn bộ, calang, cabô, chắn bùn, toàn
bộ cửa và kinh, toàn bộ đèn và gương, toàn bộ phần vỏ kim loại, các cần gạt và bàn
đạp ga, cần số, phanh chân, phanh tay...;
- Tổng thành hệ thống lái bao gồm : vô lăng lái, trục tay lái, thanh kéo
ngang, thanh kéo dọc, phi de;
- Tổng thành hộp số: hộp số chính, hộp số phụ (nếu có);
- Tổng thành động cơ;

10
- Tổng thành trục trước (cần trước) bao gồm: dầm cầu trục lắp hệ thống treo
nhíp, may ơ nhíp, cơ cấu phanh, nếu là cần chủ động thì có thêm một cần vi sai với
vỏ cần;
- Tổng thành trục sau bao gồm: vỏ cầu toàn bộ, một cầu, vi sai, cụm may ơ
sau, cơ cấu phanh, xi lanh phanh, trục lắp ngang, hệ thống treo cầu sau, nhíp...;
- Tổng thành bánh xe: lốp săm (kể cả săm lốp dự phòng);
Ngoài ra, đối với các xe chuyên dụng như xe cứu thương, xe cứu hoả, xe chở
container….. thì có them tổng thành chuyên dụng.
Trong tất cả các tổng thành trên, tổng thành thân vỏ thường là phần dễ bị tổn
thất nhất khi rủi ro tai nạn giao thông xẩy ra. Do đó, đây cũng chính là phần tổng
thành được các chủ xe lựa chọn tham gia bảo hiểm nhiều nhất. Hiện nay, ở nước ta
có trên 60% khách hàng mua bảo hiểm cho tổng thành này.
b. Phạm vi bảo hiểm
Trong hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới, các rủi ro bảo hiểm thường bao gồm:
Tai nạn do đâm va, lật đổ, do cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá, mất
cắp toàn bộ xe, do rủi ro bất ngờ gây nên.
Ngoài ra công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm
những chí phí cần thiết và hợp lý nhằm:
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do rủi ro
được bảo hiểm;
- Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất;
- Chi phí giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm bảo hiểm;
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường không vượt quá
mức quy định trong hợp đồng khi tham gia bảo hiểm. Đồng thời, công ty bảo hiểm
không chịu trách nhiệm bồi thường đối với những thiệt hại vật chất của xe gây ra
bởi:
11
- Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng hay hỏng hóc do khuyết
tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên đựơc tính dưới hình thức

khấu hao và tính theo tháng;
- Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp bị hư hỏng mà
không do tai nạn gây ra, mất cắp bộ phận xe, hành động cố ý của chủ xe, lái xe, xe
không đủ điều kiện và thiết bị kỹ thuật để lưu hành theo quy định của luật an toàn
giao thông đường bộ;
- Chủ xe vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông đường bộ như: xe
không có giấy phép lưu hành, lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp
lệ, lái xe bị ảnh hưởng của chất rượu bia, ma tuý hoặc chất kích thích khác trong
khi điều khiển xe, xe chở chất cháy, nổ trái phép, xe chở quá trọng tải hay hành
khách quy định, xe đi vào đường cấm, xe đi đêm không đèn, xe sử dụng để tập lái,
đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa;
- Những thiệt hại gián tiếp: giảm giá trị thương mại làm đình trệ sản xuất
kinh doanh;
- Thiệt hại do chiến tranh;
Trường hợp chủ xe chuyển quyền sở hữu cho chủ xe khác trong thời hạn bảo
hiểm thì quyền lợi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với chủ xe mới. Song chủ xe cũ
không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm hoàn lại
phí bảo hiểm cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ yêu cầu.
c. Số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là số tiền được ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc
giấy yêu cầu bảo hiểm do chủ xe yêu cầu và được công ty bảo hiểm chấp nhận. Vì
đây là loại hình bảo hiểm tài sản cho nên về nguyên tắc số tiền bảo hiểm phải nhỏ
hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên, trong thực tế chủ xe có thể tham gia
bảo hiểm với số tiền lớn hơn theo điều kiện bảo hiểm giá trị thay thế mới. Số tiền
12
bảo hiểm hay giá trị bảo hiểm là một nội dung rất quan trọng trong giấy chứng
nhận bảo hiểm, bởi vì chúng là cơ sở để các DNBH thanh toán số tiền bồi thường.
Chẳng hạn:
+Trong trường hợp số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm (gọi là bảo
hiểm dưới giá trị), khi tổn thất xảy ra công ty bảo hiểm sẽ bồi thường dựa trên tỷ lệ

giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm:
Số tiền bồi thường = Giá trị tổn thất thực tế x
Số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm
+Tuy nhiên, nếu chủ xe tham gia bảo hiểm cho một số tổng thành thì số tiền
bồi thường không hoàn toàn tính theo công thức trên, mà được tính dựa trên tổn
thất của tổng thành đó.
+Trường hợp số tiền bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm (gọi là bảo hiểm ngang
giá trị), số tiền bồi thường là giá trị tổn thất thực tế.
+Trường hợp số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm (gọi là bảo hiểm trên
giá trị) và nếu chủ xe mua theo điều kiện thay thế mới thì:
Số tiền bồi thường bằng giá trị xe tham gia bảo hiểm nếu xe bị tổn thất toàn
bộ.
Số tiền bồi thường bằng giá trị thiệt hại thực tế nếu là tổn thất bộ phận.
Trong trường hợp tổn thất toàn bộ, số tiền bồi thường được tính phải trừ đi
khấu hao cho đến thời điểm xảy ra tai nạn làm tròn theo tháng. Nếu xe bị thiệt hại
nặng, tỷ lệ thiệt hại lớn hơn một mức nhất định nào đó (thường quy định 80% trở
lên) được coi là tổn thất toàn bộ ước tính. Giá trị tận thu hay giá trị còn lại của đối
tượng bảo hiểm này (xác xe) sẽ thuộc về công ty bảo hiểm; trường hợp công ty bảo
hiểm không nhận thì chủ xe chịu trách nhiệm với phần đó.
Nguyên tắc để xác định giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế của
xe trên thị trường tại thời điểm người tham gia mua bảo hiểm. Việc xác định đúng
giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để tính toán bồi
13
thường thiệt hại cho chủ xe. Thực tế, giá trị xe trên thị trường luôn biến động cũng
là một khó khăn cho việc định giá. Do đó, để có căn cứ, công ty bảo hiểm thường
dựa vào đăng ký xe để tính khấu hao và xác định giá trị. Cụ thể:
Giá trị bảo hiểm = nguyên giá - khấu hao
Nguyên tắc tính khấu hao thông thường theo tháng. Nếu thời điểm tham gia
bảo hiểm từ ngày thứ 15 trở về đầu tháng đó thì có tính khấu hao; còn nếu từ ngày

16 trở đi thì tháng đó không tính khấu hao. Việc tính khấu hao được tính theo
nguyên giá
Mức khấu hao =
Giá trị ban đầu x Tỷ lệ khấu hao
Thời gian sử dụng
e. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới là khoản tiền nhất định mà người tham gia
phải nộp cho nhà bảo hiểm sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm
chỉ có hiệu lực từ khi người tham gia bảo hiểm nộp phí. Định phí bảo hiểm là công
việc rất quan trọng. Phí được coi là giá cả của sản phẩm bảo hiểm cho nên nếu hợp
lý mới thu hút được khách hàng, tăng khả năng cạnh đối với đối thủ cùng triển khai
nghiệp vụ… Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia cụ thể, công
ty bảo hiểm thường căn cứ vào các yếu tố như: loại xe, lịch sử về tình hình tổn
thất, mục đích sử dụng, tuổi tác và kinh nghiệm của lái xe, khu vực giữ và để xe…
Giống như cách tính phí bảo hiểm nói chung, phí bảo hiểm tính cho mỗi đầu
xe với mỗi loại xe được xác định theo công thức:
P = f + d
Trong đó: P : phí thu mỗi đầu xe
d : phụ phí
f : phí thuần (phí bồi thường)
14
Việc xác định phí thuần căn cứ vào số liệu thống kê về tình hình tổn thất của
những năm trước đó.
f =


=
=
×
n

i
i
n
i
ii
C
TS
1
1
Trong đó: S
i
: số vụ tai nạn giao thông xảy ra năm thứ i
T
i
: thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i
C
i
: số xe hoạt động thức tế trong năm thứ i
Phần phụ phí (d) gồm các chi phí như: chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi
quản lý… Ngoài ra, trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới các công ty còn áp dụng các
biện pháp đặc biệt giảm phí và hoàn phí trong trường hợp khách hàng tham gia
nhiều với số lượng lớn và rủi ro xảy ra ít…
Tất cả các trường hợp giảm phí thì phần phí được giảm sẽ ghi trong bản phụ
lục đính kèm với hợp đồng bảo hiểm. Riêng đối với những xe hoạt động mang tính
thời vụ, tức là chỉ hoạt động một số tháng trong năm thì chủ xe đóng phí cho
những tháng hoạt động theo công thức:
Mức phí bảo hiểm = Mức phí cả năm x
Số tháng xe hoạt động trong năm
12
Để thuận tiện cho việc tính toán các công ty thường áp dụng phí thời vụ.

Chẳng hạn, Bộ Tài Chính nước ta quy định:
Xe hoạt động dưới 3 tháng đóng 30% phí cả năm;
Xe hoạt động 3 - 6 tháng đóng 60% phí cả năm;
Xe hoạt động 6 - 9 tháng đóng 90% phí cả năm;
Xe hoạt động 9 tháng trở lên đóng 100% phí cả năm;
Công ty bảo hiểm sẽ hoàn phí đối với trường hợp chủ xe đã đóng phí cả
năm, nhưng trong năm xe không hoạt động vì một lý do nào đó. Trong trường hợp
15
công ty bảo hiểm hoàn lại phí bảo hiểm của những tháng xe ngừng hoạt động, phí
hoàn lại được tính theo công thức.
Phí hoàn lại = Phí cả năm x
Số tháng xe không hoạt động
x Tỷ lệ hoàn phí
12
Đối với trường hợp bảo hiểm phải tính khấu hao thay thế mới thì công ty áp
dụng biểu phí như sau:
Bảng 1.3: Biểu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Giá trị thực tế của xe
Tỷ lệ phí (%)
BH toàn bộ xe BH thân vỏ xe
1.Xe sử dụng dưới 3 năm
(giá trị còn lại trên 70% giá trị xe mới)
1,5 2,5
2. Xe sử dụng từ 3 – 6 năm
( giá trị còn lại 50% - 70% )
1,7 2,7
3. Xe sử dụng trên 6 năm
(giá trị còn lại < 50%)
1,9 2,9
(Nguồn: Từ biểu phí bảo hiểm xe cơ giới của công ty PJICO)

Nếu chủ phương tiện tham gia bảo hiểm dưới hình thức không tính khấu hao
thay thế mới, khi rủi ro phát sinh công ty sẽ bồi thường cho xe không tính khấu
hao thay thế mới của vật tư. Việc xác định chính xác giá xe khi tham gia bảo hiểm
là rất quan trọng. Vì trên thực tế tuy xe có thời gian sử dụng không lâu, song do
quá trình sử dụng bảo quản không tốt dẫn tới giá trị còn lại của xe không đáng là
bao so với giá trị xe mới.
1.3.2 Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối người thứ 3
Trong cuộc sống hàng ngày mỗi cá nhân, tổ chức đều phải chịu trước pháp
luật về hành vi của mình, nếu hành vi bất cẩn đó gây thiệt hai cho người khác thì
cá nhân, tổ chức đó phải chịu trách nhiệm đền bù thiệt hại do mình gây ra. Thực tế
không chỉ trong bảo hiểm xe cơ giới mới có Bảo hiểm TNDS mà còn tồn tại rất
nhiều loại hình Bảo hiểm TNDS khác: bảo hiểm TNDS sản phẩm, bảo hiểm TNDS
của chủ sử dụng lao động……Vì vậy, loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự rất
phổ biến và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Bảo hiểm TNDS
16
của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 cũng là dạng Bảo hiểm TNDS vì thế nó
cũng có đầy đủ các đặc điểm của bảo hiểm trách nhiệm:
Thứ nhất, đối tượng bảo hiểm rất trừu tượng. Vì đối tượng của bảo hiểm
trách nhiệm là phần trách nhiệm pháp lý phát sinh phải bồi thường trách nhiệm dân
sự tại thời điểm thạm gia bảo hiểm. Phần trách nhiệm này chưa xác định được bởi
vì nó chưa xảy ra. Chỉ khi trách nhiệm dân sự phát sinh thì mới biết giá trị cụ thể
của trách nhiệm là bao nhiêu .
Thứ hai, bảo hiểm trách nhiệm chỉ có một rủi ro duy nhất là khi pháp luật
quy định đã phát sinh trách nhiệm dân sự.
Thứ ba, bảo hiểm trách nhiệm thường áp dụng dưới hình thức bắt buộc. Mục
đích áp dụng hình thức này ngoài việc ổn định tài chính cho người được bảo hiểm
còn bảo vệ quyền lợi cho phía nạn nhân (vì có những thiệt hại xảy ra vượt quá khả
năng tài chính của chủ phương tiện).
Thứ tư, bảo hiểm trách nhiệm thường chỉ giới hạn ở một mức trách nhiệm
nhất định. Nói cách khác, công ty bảo hiểm thường giới hạn trách nhiệm của mình

bởi một số tiền bảo hiểm nhất định.
a. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
a.1. Đối tượng bảo hiểm
Người tham gia bảo hiểm thông thường là các chủ xe, có thể là cá nhân hay
đại diện cho một tập thể. Người bảo hiểm chỉ nhận phần Bảo hiểm TNDS của chủ
xe phát sinh do hoạt động điều khiển xe cơ giới của lái xe. Như vây, đối tượng bảo
hiểm là TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3. Đối tượng này được xác
định như sau:
TNDS chủ xe đối với
bên thứ 3
= Mức độ lỗi của xe x Thiệt hại thức tế của bên thứ 3
17
Trong trường hợp hai bên không thỏa thuận được số tiền bồi thường trách
nghiệm dân sự thì phán quyết của toà án sẽ là quyết định cuối cùng. Như vậy đối
tượng bảo hiểm chỉ được xác định cụ thể khi có tai nạn xảy ra.
Các điều kiện phát sinh TNDS của chủ xe đối với người thứ 3 bao gồm:
- Có thiệt hại về tài sản kinh doanh, tính mạng hoặc sức khoẻ của bên thứ 3.
- Chủ xe phải có hành vi gây thiệt hại về người hoặc tài sản cho bên thứ 3
(hành vi này có thể là vô tình hay cố tình) mà lái xe vi phạm luật an toàn giao
thông đường bộ hoặc vi phạm các quy định khác của Nhà nước, cũng có thể là rủi
ro về mặt kỹ thuật mà chủ xe không lường trước được.
- Phải có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe (lái xe) với
những thiệt hại của người thứ 3.
- Phải có khiếu nại của bên thứ 3.
Người thứ 3 có thể là người đi bộ hay người đi xe đạp hoặc các phương tiện
cơ giới khác, đường sá hoa màu … nhưng không bao gồm các trường hợp sau:
- Lái phụ xe, người làm công cho chủ xe.
- Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha mẹ, vợ, con …
- Hành khách những người có mặt trên xe.
- Thiệt hại về tình trạng sức khoẻ xảy ra cho bản thân người điều khiển xe.

- Các khoản phạt mà lái xe hoặc chủ xe phải chịu.
Khác với các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trong bảo hiểm TNDS chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba, đối tượng bảo hiểm có tính trìu tượng. Chỉ khi nào xảy
ra tai nạn, hai bên hợp đồng bảo hiểm mới xác định được TNDS của chủ xe đối với
người nào cụ thể và mức độ trách nhiệm được xác định là bao nhiêu. Thậm chí
trong những trường hợp hai bên không thoả thuận được mức độ trách nhiệm của
chủ xe thì quyết định cuối cùng sẽ thuộc về toà án.
a.2 Phạm vi bảo hiểm
18
Trong Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3, các thiệt hại
nằm trong phạm vi trách nhiệm của người được bảo hiểm bao gồm:
- Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ, hàng hoá, tài sản … của bên
thứ 3.
- Thiệt hại về tài sản làm ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh hoặc làm giảm
thu nhập.
- Các chi phí cấn thiết và hợp lý để ngăn ngừa và hạn chế thiệt hại, các chi
phí thực hiện các biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả biện pháp không
mang lại hiệu quả).
- Những thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng của người tham gia cưú chữa, ngăn
ngừa tại nạn, chi phí cấp cứu, và chăm sóc nạn nhân.
Tuy nhiên người bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
các vụ tai nạn mặc dù có phát sinh TNDS trong các trường hợp sau:
- Tai nạn do hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại.
- Xe không đủ điều kiện an toàn kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao
thông theo quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ.
- Chủ xe lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông như: Xe
không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và môi trường, lái
xe không bằng lái, lái xe bị ảnh hưởng của các chất kích thích như: rượu, bia, ma
tuý, xe chở chất cháy, chất nổ trái phép, xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe
trái phép, chạy thử sau khi sửa chữa, xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn

hoặc chỉ có đèn bên phải, xe không có hệ thống lái bên phải
- Thiệt hại do chiến tranh.
- Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản
xuất kinh doanh.
- Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn.
19
- Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia trừ khi có thoả thuận khác.
Ngoài ra người bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với tài sản như
vàng bạc, đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài …
b. Mức trách nhiệm bảo hiểm
Mức trách nhiệm bảo hiểm là số tiền cao nhất mà doanh nghiệp bảo hiểm có
thể bồi thường cho mỗi vụ tai nạn xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Như ta đã biết,
thiệt hại TNDS chưa thể xác định ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm, có thể là
không đáng kể, có thể là rất lớn. Vì vậy, một mặt để nâng cao trách nhiệm của
người tham gia, mặt khác để đảm bảo chi trả bảo hiểm cho người tham gia chính
xác, công ty bảo hiểm có thể đưa ra các giới hạn nhất định đối với mức bồi thường
tối đa để người tham gia bảo hiểm tự lựa chọn. Tức là công ty bảo hiểm không bồi
thường toàn bộ thiệt hại trách nhiệm dân sự phát sinh mà chỉ khống chế trong
phạm vi số tiền bảo hiểm đã xác định khi tham gia. Số thiệt hại còn lại chủ xe phải
bồi thường cho người thứ ba theo pháp luật.
Theo Qui định mới nhất hiện nay ở nước ta về bảo hiểm TNDS chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba
1
, hạn mức tối thiểu bắt buộc các chủ xe máy phải tham
gia là:
Về người: 30 triệu đồng/người
Về tài sản: 30 triệu đồng/vụ
Còn các chủ xe ô tô phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe đối
với người thứ ba với hạn mức trách nhiệm tối thiểu là:
Về người: 50 triệu đồng/người

Về tài sản: 50 triệu đồng/vụ.
1
Quyết định số 23/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 09/04/2007 về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ
xe cơ giới
20
Mức trách nghiệm tối thiểu quy định là bao nhiêu phụ thuộc chủ yếu vào
điều kiện kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Vì thế, nó có thể được thay đổi cho phù
hợp. Trong bảo hiểm TS, mức này thường do nhà nước quy định thống nhất
Ngoài ra, các công ty bảo hiểm có thể đưa ra hạn mức trách nhiệm bảo hiểm
đáp ứng với nhu cầu được bảo hiểm trách nhiệm cao của các chủ xe. Chẳng hạn,
các chủ xe có thể tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba với hạn mức trách nhiệm là 800 triệu đồng/người/vụ và 1.600 triệu
đồng/tài sản/vụ (tối đa là 6.400 triệu đồng/vụ).
c. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe phải nộp cho công ty bảo hiểm để
hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung đủ lớn để bồi thường thiệt hại xảy ra trong
năm nghiệp vụ theo phạm vi bảo hiểm. Biểu phí bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba cho hạn mức trách nhiệm tổi thiểu bắt buộc hiện nay ở nước
ta do Bộ Tài Chính quy định (Xem Bảng 1.4)
Bảng 1.4: Biểu phí bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cho hạn mức
trách nhiệm tối thiểu bắt buộc
I Mô tô 2 bánh:
1 Từ 50 cc trở xuống 50.000
2 Trên 50 cc 55.000
II Xe lam, mô tô ba bánh, xích lô máy, xe lôi
210.000
III Xe ô tô không kinh doanh vận tải
1 Loại xe dưới 6 chỗ ngồi 300.000
2 Loại xe từ 6 đến 11 chỗ ngồi 600.000
3 Loại xe từ 12 đến 24 chỗ ngồi 960.000

4 Loại xe trên 24 chỗ ngồi 1.380.000
5 Xe vừa chở người vừa chở hàng (Pickup) 705.000
IV Xe ô tô kinh doanh vận tải
1 Dưới 6 chỗ ngồi theo đăng ký 525.000
2 6 chỗ ngồi theo đăng ký 645.000
3 7 chỗ ngồi theo đăng ký 750.000
21
STT Loại xe Phí bảo hiểm năm (đồng)
4 8 chỗ ngồi theo đăng ký 870.000
5 9 chỗ ngồi theo đăng ký 975.000
6 10 chỗ ngồi theo đăng ký 1.095.000
7 11 chỗ ngồi theo đăng ký 1.200.000
8 12 chỗ ngồi theo đăng ký 1.320.000
9 13 chỗ ngồi theo đăng ký 1.425.000
10 14 chỗ ngồi theo đăng ký 1.545.000
11 15 chỗ ngồi theo đăng ký 1.665.000
12 16 chỗ ngồi theo đăng ký 1.770.000
13 17 chỗ ngồi theo đăng ký 1.890.000
14 18 chỗ ngồi theo đăng ký 1.995.000
15 19 chỗ ngồi theo đăng ký 2.115.000
16 20 chỗ ngồi theo đăng ký 2.220.000
17 21 chỗ ngồi theo đăng ký 2.340.000
18 22 chỗ ngồi theo đăng ký 2.445.000
19 23 chỗ ngồi theo đăng ký 2.565.000
20 24 chỗ ngồi theo đăng ký 2.685.000
21 25 chỗ ngồi theo đăng ký 2.790.000
22 Trên 25 chỗ ngồi
2.790.000 + 30.000 x (số chỗ ngồi - 25 chỗ)
V Xe ô tô chở hàng (xe tải)
1 Dưới 3 tấn 570.000

2 Từ 3 đến 8 tấn 1.110.000
3 Từ 8 đến 15 tấn 1.530.000
4 Trên 15 tấn 1.950.000
(Phí bảo hiểm trên đây chưa bao gồm 10% thuế Giá trị gia tăng)
Nguồn: Quyết định 23/2007/QĐ-BTC
Ngoài ra, biểu phí này còn được điều chỉnh đối với một số loại xe nhất định.
Chẳng hạn, phí bảo hiểm TNDS tối thiểu của chủ xe taxi đối với người thứ ba
được điều chỉnh bằng 150% của phí xe kinh doanh cùng số chỗ ngồi quy định tại
mục IV. Về mặt lý thuyết, phí bảo hiểm TNDS được tính theo công thức sau:
P = f + d
Trong đó: P: phí bảo hiểm trên đầu phương tiện
f: phí thuần
d: phụ phí
Phí thuần được tính theo công thức:
22


=
=
×
=
n
i
i
n
i
ii
C
TS
1

1
f
Trong đó:
S
i
: số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh TNDS của chủ xe được bảo hiểm bồi
thường năm i
T
i
: số tiền bồi thường bình quân 1 vụ tai nạn trong năm i có phát sinh TNDS.
C
i
: số phương tiện tham gia bảo hiểm trong năm i
n: số năm thống kê thường là 3 - 5 năm
Công thức trên được tính theo từng hạn mức cụ thể.
Phí bảo hiểm được tính theo đầu phương tiện và người tham gia bảo hiểm
đóng theo số lượng đầu phương tiện của mình. Đây là bảo hiểm bắt buộc và thời
hạn bảo hiểm thông thường là một năm nên các chủ xe nộp phí một lần khi tham
gia bảo hiểm. Tuy nhiên, với các chủ xe có số lượng đầu xe lớn thì các công ty bảo
hiểm thường có các ưu tiên mang tính chính sách khách hàng. Chẳng hạn, các chủ
xe phải nộp một lượng phí lớn có thể nộp thành 2 lần, hoặc số lần nộp mức phí
tương ứng có xét giảm phí theo số lượng phương tiện tham gia bảo hiểm (giảm tối
đa là 20 %). Ngược lại, nếu chủ xe không tham gia bảo hiểm TNDS chủ xe theo
đúng qui định thì phải nộp phạt theo thời gian chậm đóng.
- Chậm 1 ngày - 2 tháng phải nộp thêm 100% phí cơ bản
- Chậm 2 tháng - 4 tháng phải nộp thêm 200% phí cơ bản
- Chậm 4 trở lên nộp thêm 300% phí cơ bản
- Hoặc sẽ bị huỷ bỏ hợp đồng.
23
Ngoài ra, Bộ Tài Chính còn đưa ra biểu phí bảo hiểm TNDS dài hạn áp dụng

với những trường hợp chủ xe muốn tham gia loại hình bảo hiểm này với thời hạn
dài hơn 1 năm. Mức phí được quy định cụ thể như sau:
Bảng 1.5: Biểu phí dài hạn bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Thời hạn bảo hiểm
Mức phí áp dụng
(% phí bảo hiểm năm)
Trên 12 đến 15 tháng 124%
Trên 15 đến 18 tháng 144%
Trên 18 đến 21 tháng 152%
Trên 21 đến 24 tháng 160%
Trên 24 đến 30 tháng 208%
Trên 30 đến 36 tháng 240%
Nguồn: Quyết định 23/2007/QĐ-BTC
Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới 1 năm) thời gian tham gia
bảo hiểm được lấy tròn tháng và phí được xác định như sau:
Trong đó:
P
NH
: phí bảo hiểm đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn
P
N
: phí bảo hiểm 1 năm
Trường hợp tham gia đóng phí cả năm, nhưng đến thời điểm nào đó xe
không hoạt động hoặc chuyển quyền sở hữu cho người khác. Trong trường hợp này
nếu chủ xe chuyển bảo hiểm theo xe thì hợp đồng bảo hiểm vẫn có giá trị thực hiện
bình thường, còn chủ xe không muốn chuyển bảo hiểm theo xe thì chủ phương tiện
được hoàn lại phí bảo hiểm tương ứng với thời gian còn lại của năm:
P
HL
= P x

Số tháng xe hoạt động
12
24
1.4 Giám định và bồi thường thiệt hại trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới và
bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1.4.1 Vai trò của công tác giám định và bồi thường
Giám định bồi thường được coi là nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp
bảo hiểm. Sỡ dĩ như vậy là do vai trò thiết thực của nó đối với doanh nghiệp và với
khách hàng của doanh nghiệp bảo hiểm.
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, hoạt động giám định gắn liền với hoạt động
bồi thường bảo hiểm. Giám định quyết định trực tiếp đến số vụ bồi thường chi trả.
Do đó, hoạt động giám định được thực hiện tốt và chính xác sẽ xác định chính xác
số tiền bồi thường hoặc chi trả.
Giám định tổn thất được thực hiện bởi các chuyên viên giám định. Ở các
nước phát triển, chuyên viên giám định có thể do công ty bảo hiểm lựa chọn và chỉ
định, nhưng thông thường chuyên viên giám định là của doanh nghiệp bảo hiểm.
Để đảm bảo giám định được khách quan, tránh trục lợi bảo hiểm nhân viên giám
định phải là người không có quan hệ với khách hàng bảo hiểm. Điều đó giúp
DNBH tránh bồi thường sai, góp phần làm tăng doanh thu, lợi nhuận và hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
Giám định giúp xác định chính xác nguyên nhân và mức độ của tổn thất, từ
đó giúp cho khách hàng có thể hiểu rõ của doanh nghiệp, về hoạt động bồi thường
nhằm tránh những hiều nhầm đáng tiếc có thể xảy ra.
Trong quá trình giám định, nhân viên giám định phải làm tròn nghĩa vụ của
mình, phải khách quan và rõ ràng, phải giái thích đầy đủ và cặn kẽ cho khách hàng
về quy cách làm việc và các thắc mắc của họ. Nếu giám định tốt sẽ giải quyết tốt
khâu bồi thường, củng cố lòngtin cho khách hàng và nâng cao uy tin cho doanh
nghiệp để từ đó giúp doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao sức cạnh trạnh.
25

×