MỤC LỤC
Tài liệu phục vụ kỳ thi nâng ngạch cho viên chức khối Đảng, đoàn thể năm
201x
NỘI DUNG 1: BÀI SOẠN 16 CÂU HỎI + TRẢ LỜI ÔN THI CÔNG
CHỨC KHỐI ĐẢNG
Câu 1: Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Câu 2. Vai trò công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ hiện nay : đổi mới phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm xây dựng Đảng là vấn đề then chốt.
Câu 3. Các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng trong thời kỳ đổi mới
Câu 4: Vì sao từ khi có chính quyền đảng CS VN là Đảng duy nhất lãnh đạo nhà
nước và Xã hội:
Câu 5: Vì sao khi có chính quyền Đảng ta là Đảng duy nhất lãnh đạo nhà nước
và Xã hội?
Câu 6: Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Đảng ( vì
sao ?)
Câu 7: Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật ?
Câu 8: Củng cố đoàn kết Đảng?
Câu 9: Vai trò của Đảng viên đối với – trong sự lãnh đạo của Đảng
Câu 10: Sự khẳng định của Đảng ta không có gì khác ngoài việc xây dựng tổ
quốc phục vụ nhân dân vì sao ? phân tích ý nghĩa
Cau 11 – Trong cong tac xay dung Dang, can phai xay dung vung manh những
mặt gì? Nêu rõ
Câu 12:XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, NÂNG CAO
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG
Câu 13: Những đặc điểm của Đảng CSVN cầm quyền hiện nay/
Câu 14. Các tổ chức xây dựng cơ sở Đảng có vai trò vị trí gì trong nguyên tắc
xây dựng Đảng
Câu hỏi 15. Đảng cộng sản VN đã lãnh đạo nhân dân ta qua các thời kỳ nào
Câu 16- Nền tảng tư tưởng của Đảng
NỘI DUNG 2: CÁC CHUYÊN ĐỀ PHỤC VỤ ÔN THI CÔNG CHỨC KHỐI ĐẢNG
Chuyên đề Nội dung
1.
Chế độ công vụ và một số vấn đề về đổi mới cơ chế quản lý
công chức, viên chức
2. Quan điểm của đảng và nhà nước về công tác tư tưởng, lý luận
và báo chí
3. Những vấn đề mới trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
4. Những vấn đề cơ bản củahệ thống chính trị việt nam
5.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và những vấn đề toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế
6.
Nền hành chính và cải cách hành chính nhà nước
7. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
8. Quan điểm của đảng, nhà nước về phát triển giáo dục - đào tạo
và khoa học - công nghệ, phát triển văn hóa và con người trong
thời kỳ mới
9. Một số vấn đề xây dựng đảng trong tình hình mới
NỘI DUNG 3: HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN:
1 – Giáo trình đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT VÀ TÓM TẮT NỘI DUNG MÔN ĐƯỜNG LỐI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đặc biệt là : chương 1- sự ra đời của đảng cộng sản VN và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng 2 – Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc Đại hội 11 của đảng
+ Quan trọng: cương lĩnh xây dựng Đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH bổ sung và phát
triển 2011
+ Báo cáo chính trị của BCH TW khoá 10
3- Đặc biệt qtrọng : điều lệ Đảng cộng sản VN do Đại hội lần thứ 11 thông qua
HIẾN PHÁP 1946, HIẾN PHÁP 1959, HIẾN PHÁP 1980, HIẾN PHÁP 1992
2
NỘI DUNG 5: CHUYÊN ĐỀ LIÊN QUAN
CHUYÊN ĐỀ 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀTỔ CHỨC, BỘ MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
CHUYÊN ĐỀ 2 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI
CHUYÊN ĐỀ 3 : XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
CHUYÊN ĐỀ 4 : CHẾ ĐỘ CÔNG VỤ VÀ QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CHUYÊN ĐỀ 5 : NỀN HÀNH CHÍNH VÀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
CHUYÊN ĐỀ 6 : MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG CÁC VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XI
CHUYÊN ĐỀ 7 : ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC
ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ -XÃ HỘI
CHUYÊN ĐỀ 8 : TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THẾ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CHUẨN BỊ KIẾN THỨC
Những nội dung về Đảng và xây dựng Đảng
Thi : Tự luận: TB nhận thức của cá nhân về chủ đề công tác xây dựng Đảng
Trắc nghiệm : Trả lời câu hỏi thể hiện nhận thức của mình
Tự luận : TN nội dung vấn đề về đảng và xây dựng Đảng
Giới hạn nội dung:
1 – Giáo trình đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam
Đặc biệt là : chương 1- sự ra đời của đảng cộng sản VN và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng
2 – Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc Đại hội 11 của đảng
+ Quan trọng: cương lĩnh xây dựng Đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH bổ
sung và phát triển 2011
+ Báo cáo chính trị của BCH TW khoá 10
3- Đặc biệt qtrọng : điều lệ Đảng cộng sản VN do Đại hội lần thứ 11 thông qua
Mỗi câu 3 điểm – 3 câu 90 điểm
1 câu trình bày nhận thức
Trắc nghiệm có 20 câu – có 3 loại câu hỏi - lựa chọn đáp án khoanh tròn
Lựa chọn đúng sai, lựa chọn điền từ vào chỗ trống
3
Môn thi tự luận 10 đề mỗi đề 3 câu 1 đề ( 20-30 câu )
NỘI DUNG 1: BÀI SOẠN 16 CÂU HỎI + TRẢ LỜI ÔN THI CÔNG
CHỨC KHỐI ĐẢNG
Câu 1: Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Chủ yếu : Các nhân tố đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp của các nhân tố gì ?
- Phân tích cơ sở sáng tạo sự ra đời của Đảng
Là sự kết hợp Chủ nghĩa Mác Lê Nin với phong trào đấu tranh của công nhân và nhân
dân
Sự ra đời có 3 nhân tố
Phân tích:
1- vị trí vai trò của quá trình yêu yêu nước
2- Phong trào yêu nước và phong trào công nhân có thể kết hợp với nhau
3- Phong trào công nhân và phong trào yêu nước có quan hệ chặt chẽ với nhau
4- Phong trào yêu nước của tri thức Việt Nam cũng là nhân tố kết hợp của 3 nhân tố trên
5. sáng tạo
(Lành) -1- Sự ra đời của Đảng CSVN
- nhân tố ra đời, phân tích cơ sở sáng tạo của sự ra đời của Đảng: CN Mác + phnog trào
đấu tranh của công nhân+ nhân dân vai trò phong trào yêu nước trong quá trình đấu
tranh + kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân, có quan hệ chặt chẽ.
Nội dung 2: Vai trò của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện hiện nay:
Đại hội gần đây Đảng đã xây dựng “ xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt” ( thi trắc
nghiệm có thể hỏi đến)
Về vai trò then chốt- giải thích tại sao có vai trò then chốt
Ý Chính:
1- Lịch sử CM khẳng định vai trò sự lãnh đạo của Đảng quyết định sự thắng lợi của
cách mạng VN
2- Công cuộc đổi mới trong Công nghiệp Hoá, hiện đại hoá
Rất có nhiều thuận lợi và thách thức đặt ra nên vai trò của Đảng, công tác xây dựng
Đảng ( quan trọng) với tư cách là
Sáng suốt
nội dung 3: đảng ta là Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước
sự Lãnh đạo, công tác xây dựng Đảng với vai trò then chốt
4
Công tác xây dựng Đảng cũng cần phải quan tâm ( n nhiệm vụ quan tâm )
Cũng có những nguy cơ: Đảng cũng có những sai lầm: tham ô, thoái hoá, biến
chất
(Lành) – 2. Vai trò công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ hiện nay : đổi mới phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trung tâm xây dựng Đảng là vấn đề then chốt.
+ Vai trò then chốt, lịch sử cách mạng nước ta, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng VN
+ công cuộc đổi mới công nghiệp hoá+ hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, thuận lợi và
thách thức khó khăn.
+ Đảng ta là đảng cầm quyền lãnh đạo: Thuận lợi và nguy cơ, mắc sai lầm, tham nhũng,
thoái hoá biến chất, đường lối sai lầm.
3. Các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng trong thời kỳ đổi mới
- qua bao nhiêu kỳ đại hội
- từ thời đổi mới 1986
Dấu ấn quan trọng nhất nổi bật của mỗi kỳ đại hội (đánh giá , khẳng định nhiệm vụ kỳ
trước, đề ra phương hướng kỳ sau)
1- Đại hội 6 là đại hội mở đầu của công cuộc đổi mới
Là đại hội xác định đường lối
Mốc rất quan trọng
2. - Đại hội 7: Đảng thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới
Đại hội thông qua chiến lược xây dựng XH (1991-2005)
2- Đại hội 8 (1996) – THông qua đại hội thúc đẩy CNH, HĐH
dấu ấn : Đẩy mạnh CNH, HĐH xây dựng đất nước ( câu hỏi trắc nghiệm )
Đánh giá nhiệm vụ chặng đường
3- Đại hội 9 : tổng kết 10 - 15 năm đổi mới
Thông qua chương trình phát triển, chiến lược phát triển XH đổi mới (2001- 2010)
10 năm
4- Đại hội 10 : Đánh giá 20 năm xây dựng công cuộc đổi mới (1986-
Đề ra đường lối
Đề ra định hướng
Mục tiêu sớm đưa nước ta
4- Đại hội 11 Chú ý Đ Đ: THông qua cương lĩnh xây dựng đất nước lên CNXH - Dấu
mốc quan trọng
5
Cương lĩng phát triển KTXH 2011-2020 ( mục tiêu đưa đất nước ta trở thành nước
CN – văn kiện
3- (Lành): Các kỳ đại hội Đảng đại biểu toàn quốc trong thời kỳ đổi mới:
từ năm 1986 -2012 có mấy kỳ đại hội
+ điểm nổi bật các kỳ là gì ?
+ đánh giá, kiểm điểm
+ Đaị hội 6 mở đầu công cuộc đổi mới (1986)
+ đại hội 7 (1991) thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và
chiến lược phát triển KTXH 91-2000 ( 10 năm)
+ Đại hội 8 (1996) đẩy mạnh công nghiệp hoá + Hiện đại hoá + đánh giá nhiệm vụ
chặng đầu tiên hoàn thành dẫn đến đẩy mạnh Công nghiệp hoá , hiện đại hoá.
+ Đại hội 9 (2000 ) tổng kết 15 năm đổi mới, đề ra chiến lược phát triển KTXH 10
năm
+ Đại hội 10 ( 2006) Đánh giá 20 năm đổi mới 1986- 2006 đề ra chủ trương mới
ctác tình trạng kém phát triển đó là mục tiêu.
+ Đại hội 11 : Thông qua cương lĩnh và bổ sung phát triển chiến lược phát triển
KTXH từ 2011 – 2020 đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp hiện đại
4- Nguy cơ chủ yếu của Đảng – khoá 7 -1954 có 4 nguy cơ
Đảng đề ra đất nước
- Tụt hậu về kinh tế
- Tham nhũng, lãng phí
- Chệch hướng XHCN
- Diễn biến hoà bình.
1- Nguy cơ 1 : 1 bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính
trị , đạo đức lối sống ( nguy cơ lớn) dẫn đến sự tồn vong của chế độ
2- Nguy cơ 2: Tham nhũng, lãng phí, quan liêu ,xa dân
3- Nguy cơ 3: tình trạng vi phạm các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng
-
Lành : Nguy cơ : năm 94 đề ra 4 nguy cơ
- Tụt hậu về kinh tế
- Tham nhũng,
- Chệch hướng XHCN
- Diễn biến hoà bình.
6
Năm 2011 có 3 nguy cơ
- Một bộ phận ko nhỏ Đảng viên suy thoái chính trị đạo đức lối sống
- Tình trạng tham nhũng, lãng phí nhũng nhiễu nhân dân
- vi phạm quy tắc tổ chức xây dựng ĐẢng
*******************/
5- Câu hỏi: Vì sao từ khi có chính quyền đảng CS VN là Đảng duy nhất lãnh đạo
nhà nước và Xã hội:
- ND chính 1: Nêu suốt quá trình đấu tranh giành chính quyền
Đảng TT sự nghiệp cách mạng của mình với vai trò LĐXH
- ND chính 2: không có lực lượng chính trị nào đảm nhiệm ngoài đảng CSVN, nhân dân
tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng
-
Có thể lãnh đạo đất nước ko có lực lượng chính trị nào khác
Tham gia hoạt động chính quyền
Và nhân dân và TT gọi là Đảng ta
- ND 3. mục tiêu 3 Lý tưởng của Đảng
Mục tiêu của Đảng và mục tiêu xây dựng đất nước thống nhất với nhau
Câu hỏi:Lành vì sao khi có chính quyền Đảng ta là Đảng duy nhất lãnh đạo nhà nước và
Xã hội?
- Không có lực lượng chính trị nào đảm nhiệm ngoài Đảng CSVN
Nhân dân tin tưởng tuyệt đối sự lãnh đạo của đảng
- Lý tưởng, mục tiêu của Đảng là do nhân dân, vì nhân dân
- từ khi ra đời, lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc.
6- Câu hỏi - Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Đảng ( vì sao ?)
+ trước hết về lý luận Nguyên tắc tập trung dân chủ xuất phát từ bản chất của Đảng
cộng sản
+ Đảng là XD tiên phong Đảng là sự tự nguyện của những người ưu tú để
vào Đảng , vào đảng để phấn đấu mục tiêu
+ về thực tiễn xuất phát từ các thời kỳ lịch sử của Đảng trải qua thử thách,
khó khăn phức tạp, lâu dài.
Sự vững mạnh của Đảng, trên cơ sở mở rộng dân chủ phát huy sự đoàn kết thống
nhất về mặt ý chí, phát huy trí tuệ của toàn Đảng.
Đảng phát huy trí tuệ chung, đi tới thống nhất hành động
7
3- Xuất phát từ thực tiễn hoạt động của đảng và các Đảng trên Thế giới ( nhờ đó áp
dụng )
Nhìn ra thế giới có nhiều Đảng tan rã vì đã không theo nguyên tắc tập trung dân
chủ tôn trọng theo như ở Nga khai trừ hơn 100 Đảng viên.
Câu hỏi : Lành: Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Đảng
- Lý luận: Xuất phát từ bản chất của Đảng, đội tiên phong
- thực tiễn : Xuất phát nhu cầu, xây dựng hoạt động của Đảng ta
******************/
7- Câu hỏi : (Lành) Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật ?
(H) : vì sao đảng là lực lượng lãnh đạo xã hội LĐXH những pháp luật
Là 1 nguyên tắc trong Hoạt động của Đảng
Tlợi: 1- Mục đích của đảng : Đảng ko có mục đích gì khác ngoài mục đích xây dựng
2- Nhà nước pháp quyền XHCN ,
Không ai có quyền đứng trên pháp luật, đứng ngoài pháp luật
3- Bản thân Đảng viên cũng là nhân dân nên phải có nghĩa vụ
CH hiến pháp và pháp luật
4 - Bản thân hiến pháp và pháp luật là thể chế hoá, cụ thể hoá có đtr của đảng. vì vậy
các tổ chức, đảng viên chấp hành thể chế cũng là chấp hành đường lối của Đảng.
( 5. Trong công tác xây dựng Đảng cũng là củng cố xây dựng Đảng, gữi vững trong
đoàn kết thống nhất trong Đảng )
Câu hỏi : (Lành) Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật ?
Mục đích của Đảng: + xây dựng nhà nước vững mạnh, do dân, vì dân, lính của Dân
+ Nhà nước pháp quyền XHCN do nhân dân, vì nhân dân
+ Bản thân Đảng viên cũng là công dân có nghĩa vụ chấp hành
+ Bản thân hiến pháp và pháp luật chính là sự thể chế hoá, cụ thể hoá của Đảng.
Nên các thành viên phải chấp hành nguyên tắc
8- Câu hỏi : củng cố đoàn kết Đảng
1- Đảng phải có cương lĩnh chiến lược đường lối đúng đắn để làm cơ sở cho sự đoàn kết
2- thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng
3- Xây dựng và thực hiện các quy chế làm việc
4- Các nguyên tắc đó cần phải cụ thể hoá ra, ai phải làm gì, cầm quyền trách nhiệm đến
đâu, các chế độ học hành, trai đổi thông tin báo cáo
8
5- Quy chế làm việc
6- Bố trí đúng đội ngũ cán bộ ( người đứng đầu là quan trọng)
7- Tăng cường giáo dục cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
8- Xây dựng các cơ chế chính xách xoá bỏ bất bình đẳng trong Đảng
9- Phát hiện sớm và giải quyết dứt điểm hiện tượng mất đoàn kết ( xử lý cán bộ , điều
chuyển cán bộ )
Câu hỏi : Lành : củng cố đoàn kết Đảng
1. gữi vững đoàn kết thống nhất phải có cương lĩnh chiến lược đường lối đúng đắn
2. Củng cố nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng
3. Xây dựng thực hiện các quy chế làm việc cấp uỷ Đảng, tổ chức Đảng
4. Bố trí người đứng đầu đúng vị trí
5. Tăng cường giáo dục cách mạng, ý thức đoàn két
6. Xây dựng cơ chế chính sách xoá bỏ bất bình đẳng
7. Phát hiện sớm giải quyết những bất đồng trong nội bộ Đảng
***************/
8 – Câu hỏi : Vai trò của Đảng viên đối với – trong sự lãnh đạo của Đảng
1- Đường lối chủ trương
Đảng tham gia xây dựng các nghị quyết của Đảng từ cấp trung ương đến cấp cơ sở
2- Vai trò của Đảng viên đối với tổ chức
Đảng viên là thành tố lập thành Đảng
Có Đảng viên tốt - dẫn đến thể hiện chất lượng tổ chức Đảng
3- Đảng viên phải làm tốt vai trò trách nhiệm trong việc động viên nhân dân
thực hiện các nhiệm vụ chủ trương chính xách ,tham gia các hoạt động của Đảng
viên trong cơ quan ( vai trò 3: đảng viên đối với nhân dân)
Câu hỏi :Lành: Vai trò của Đảng viên, vai trò lãnh đạo của Đảng
- Vai trò Đảng viên
- Vai trò của Đảng viên với tổ chức
- Đảng viên phải làm tốt động viên hướng dẫn đường lối Đảng
-i- 9 - Câu hỏi : Bản chất của Đảng CSVN (trắc nghiệm ) i-
(Văn kiện đại hội 10, cương lĩnh 11 thông qua)
Đảng CSVN là gì về bản chất Đảng
Quan tâm - sự phát triển của Đảng trong nhận thức của Đảng
9
Đảng CSVN không chỉ trung thành lợi ích của giai cấp công nhân mà còn là đại
biểu trung thành cho nhân dân lao động và dân tộc.
Tại sao lại như vậy ?
Là sự phát triển rất quan trọng trong nhận thức của Đảng ta
Chứng minh : 1- Nước ta lợi ích của Giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của
nhân dân lao động và các tầng lớp.
2- Mục đích của Đảng là phục vụ nhân dân đem lại lợi ích cho nhân
dân
3- Không tách rời khỏi dân tộc, gắn bó với dân tộc, đại biểu trung
thành với lợi ích dân tộc
Nhờ gắn bó với dân tộc, đại biểu trung thành với nhân dân
• + Sự khẳng định của Đảng ta không có gì khác ngoài việc xây dựng tổ quốc phục vụ
nhân dân vì sao ? phân tích ý nghĩa
Ngay từ khi ra đời, Đảng là sản phẩm của sự đấu tranh giải phóng dân tộc và tự do
cho nhân dân
Về Bản chất Đảng ta là đảng cộng sản, gắn bó với nhân dân phục vụ lợi ích của
nhân dân
- thực tế lịch sử
- Đảng ko có mục đích riêng cho mình,phục vụ nhân dân không có mục đích riêng
* Ý nghĩa:
1- Củng cố niềm tin của nhân dân sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục tin tưởng
2- Khi Đảng phục vụ nhân dân, Đảng cũng phải xây dựng, chỉnh đốn gắn bó với
nhân dân, bảo vệ phát huy TT cho nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân, chống quan liêu
tham ô, tham nhũng.
Đảng lãnh đạo nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân
Đảng thông qua bộ máy nhà nước để thực hiện quan điểm của mình là do nhân dân,
của nhân dân , vì nhân dân.
Cau 10 – trong cong tac xay dung Dang, can phai xay dung vung manh những mặt gì?
Nêu rõ
Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng phải xây dựng trên 3 mặt
10
trong cong tac xay dung Dang, cần phải xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
đạo đức
Nội dung 1 Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị:
1- Đảng xây dựng đề ra Cương lĩnh đường lối đúng đắn, tổ chức C thực hiện tốt
đường lối đó
2- Củng cố nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng viên
3- Củng cố nâng cao vao trò lãnh đạo, uy tín chính trị của Đảng
NDung 2 : Xây dựng Đảng về tư tưởng
1- Kiên trì vận dụng phát triển sáng tạo tư tửỏng Mác – Lê Nin
2 – Làm cho toàn Đảng đứng vững trên lập trường công nhân, thống nhất về mặt
nền tảng tư tưởng
3- Củng cố tư tưởng, đoàn kết trong toàn Đảng về mục tiêu, đường lối
4- giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng của Đảng viên
Nội dung 3 : Xây dựng Đảng về tổ chức
1 – Xây dựng Hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng
2- Xây dựng cấp uỷ Đảng các cấp đội ngũ cán bộ Đảng viên trong sạch, vững mạnh
3- Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng
Nguyên tắc tập trung dân chủ
4- xây dựng thực hiện tốt nguyên tắc, làm việc
5 – Tăng cường kiểm tra giám sát trong Đảng
6- Làm tốt công tác quản lý chính trị nội bộ, không để lọt trong đội ngũ
Câu 11 : XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, NÂNG CAO
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG :đọc văn kiện ĐH 11
trang 255-265 :
1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
3. Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
4. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
5. Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên
6. Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ
7. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
8. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Câu 12: Những đặc điểm của Đảng CSVN cầm quyền hiện nay/
11
Đảng cầm quyền
1- Đảng là Đảng duy nhất cầm quyền
Nền chính trị của nước ta là nền chính trị thất nguyên , ko có đa nguyên
2- Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Đẩy mạnh CNH, HĐH chủ động tiếp cận quốc tế
3- Đảng cầm quyền trong điều kiện Đảng nước ta tiến hành công cuộc đổi mới
Bản thân nhà nước cũng đang trong quá trình hoàn thiện xây dựng nhà nước pháp
quyền
Nhà nước đang trong quá trình đổi mới
4- Đảng l/s of dân tộc con người VNam thống nhất
Lối suy nghĩ cung cách ứng xử
Câu 13. Các tổ chức xây dựng cơ sở Đảng có vai trò vị trí gì trong nguyên tắc xây dựng
Đảng
Theo điều lệ Đảng , TT Xây dựng Đảng có 2 vai trò
1- Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng của Đảng
2- Tổ chức cơ sở Đảng Là hạt nhân chính trị của cơ sở ( chứng minh cụ thể )
Tổ chức cơ sở Đảng là cấp cuối cùng trong hệ thống xây dựng Đảng
Tổ chức cơ sở Đảng là nơi trực tiếp thực hiện chủ trương đường lối chính xách của
Đảng
3- Tổ chức cơ sở Đảng là nơi kiểm nghiệm bổ sung phát triển hoàn thiện chính sách chủ
trương của Đảng
4- Tổ chức cơ sở Đảng là nơi trực tiếp tiến hành xây dựng các hoạt động tiến hành về
công tác xây dựng Đảng
5- Tổ chức cơ sở Đảng là cầu nối giữa Đảng với nhân dân
6 –
Tổ chức cơ sở Đảng là hạt nhân chính trị cơ sở của tổ chức
Tổ chức cơ sở Đảng Là bộ phận trong hệ thống chính trị
Tổ chức cơ sở Đảng là nơi bảo đảm cho mọi hoạt động của cơ sở, của cả chính quyền
các tổ chức đoàn thể .
Nội dung : Lịch sử Đảng (đọc thêm )
12
Câu hỏi 14. Đảng cộng sản VN đã lãnh đạo nhân dân ta qua các thời kỳ nào
1- Thời kỳ chính (1930-1945 ) Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng , giành
chính quyền đỉnh cao là cách mạng tháng 8 – 1945
2- Thời kỳ thứ 2 (1945-1954) - vừa kháng chiến vừa kiến quốc giải phóng hoàn toàn
Miền Nam
3- Thời kỳ thứ 3 (1954-1975) - thực hiện 2 chiến lược xây dựng cách mạng xã hội Miền
Bắc, đấu tranh giải phóng Miền Nam xây dựng đất nước
THắng lợi năm 1975 giải phóng hoàn toàn đất nước.
4 Thời kỳ thứ 4 (1975- 1986) cả nước xây dựng CNXH tiến hành 2 cuộc chiến tranh
Xâm lược biên giới Tây Nam và phía Bắc
5. Thời kỳ thứ 5 (1986 – nay ) đổi mới toàn diện CNH, HĐH
đất nước to lớn, of
Câu 15- Nền tảng tư tưởng của Đảng
Lịch sử Đảng Cộng sản VN lấy CM Max Lê nin, tư tưởng HCM là kim chỉ nam
1. Chủ nghĩa Max Lê nin là thế giới quan và phương pháp luận khoa học là chiến lược
và sách lược chung cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
- tư tưởng HCm cùng với chủ nghĩa Max Lê Nin tư tưởng HCM là hệ thống
giáo dục sâu sắc là kết quả của sáng tạo of tư tưởng HCM
- Thực tế lịch sự đã chứng minh nhờ có trung thành và phát triển sáng tạo CM Max Lê
Nin Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng thành công.
-
*********/Chương III: Đảng câm quyền xây dựng cương lĩnh đường lối đúng đắn tổ
chức thực hiệntốt, củng cố nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường chính trị , bản lĩnh đúng
đắn, củng cố nâng cao uy tín vai trò lãnh đạo của Đảng
* Xdựng Đảng về tư tưởng
Trung thành, kiên định xd Đảng, trung thành tuyệt đối
Tài liệu phục vụ kỳ thi cho viên chức khối Đảng, đoàn thể năm
201X
Chuyên đề I
CHẾ ĐỘ CÔNG VỤ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI
13
CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
PHẦN MỞ ĐẦU
Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng, Nhà
nước chúng ta đã quan tâm đến hoạt động công vụ và đội ngũ cán bộ, công chức. Quá
trình xây dựng hệ thống thể chế về quản lý cán bộ, công chức và công vụ đã liên tục
được đổi mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển từng bước đáp
ứng yêu cầu cải cách hành chính Nhà nước. Những mốc son ghi lại dấu ấn quan trọng
trong quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam kể từ
năm 1945 đến năm 1998 được thể hiện qua việc ban hành các văn bản sau:
- Sắc lệnh số 75/SL ngày 10/11/1945 về trưng tập công chức;
- Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành Quy chế công chức Việt Nam;
- Sắc lệnh số 02/SL ngày 9/3/1998 của Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam công bố ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức.
Kể từ đây, cán bộ, công chức đã từng bước tiếp cận, xây dựng đội ngũ theo
những quy định của Pháp lệnh, từ khâu tuyển dụng dưới hình thức thi tuyển đầu vào
đến các khâu thực hiện chế độ, chính sách, đánh giá, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật…
đều theo những quy định thống nhất. Trong thời gian 10 năm (từ năm 1998 đến 2008),
kể từ ngày ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 và được sửa đổi, bổ sung
vào năm 2000 và năm 2003 cùng với hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện đã tạo
thành hệ thống thể chế và cơ sở pháp lý quan trọng để đổi mới cơ chế quản lý cán bộ,
công chức.
Trong quá trình tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước và hoàn thiện chế độ
công vụ, công chức, gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác cán
bộ, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, trong nhiệm kỳ vừa qua,
Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã thông qua hai Bộ Luật quan trọng về
quản lý công chức, viên chức, đó là Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên
chức năm 2010. Đây là bước tiến mới, mang tính cách mạng về cải cách chế độ công
vụ, công chức, thế chế hoá quan điểm, đường lối của Đảng về công tác cán bộ, đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
PHẦN I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỘ CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC
1. Khái quát quá trình phát triển pháp luật về cán bộ, công chức
Ở Việt Nam, trải qua một thời gian dài cho đến trước khi Luật cán bộ,
công chức được ban hành năm 2008, trong nhận thức cũng như trong các hoạt
14
động quản lý, chúng ta chưa xác định được rõ ràng các khái niệm: cán bộ; công
chức; viên chức. Trong hệ thống pháp luật của nước ta, kể từ Hiến pháp 1992
(đã sửa đổi, bổ sung) cho đến các luật khác (ví dụ như Luật tổ chức Chính phủ;
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Luật bình đẳng giới; Luật
Luật sư; Luật chứng khoán; Luật Bảo hiểm xã hội; Luật trợ giúp pháp lý; Luật
công nghệ thông tin; Luật đấu thầu; Luật công an nhân dân; Luật nhà ở; Luật
phòng chống tham nhũng; Luật giáo dục; ) đều có những điều, khoản quy
định sử dụng nhiều lần các thuật ngữ "cán bộ", "công chức", "viên chức".
Nhưng chưa có một văn bản luật nào giải thích các thuật ngữ này. Trong điều
kiện thể chế chính trị của Việt Nam, có một điểm đặc biệt là đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức luôn có sự liên thông với nhau. Theo yêu cầu nhiệm vụ, cơ
quan có thẩm quyền có thể điều động, luân chuyển họ giữa các cơ quan, tổ chức
của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội. Với điểm đặc thù này, việc
nghiên cứu để xác định rõ cán bộ; công chức; viên chức một cách triệt để rất khó
và phức tạp. Bên cạnh đó, việc xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý, chính sách
đãi ngộ đối với cán bộ cũng như đối với công chức và viên chức chưa thể hiện
được những điểm khác nhau giữa các nhóm, chưa gắn với đặc điểm và tính chất
hoạt động khác nhau của cán bộ với công chức, viên chức. Vấn đề làm rõ thuật
ngữ “cán bộ”; “công chức”; “viên chức” được coi là vấn đề cơ bản, quan trọng,
là một nhu cầu cần thiết xuất phát từ thực tiễn đổi mới cơ chế quản lý đặt ra hiện
nay.
Nhìn lại lịch sử, năm 1950 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 76/SL
ban hành Quy chế công chức, trong đó khái niệm công chức Việt Nam chỉ được
xác định trong phạm vi các cơ quan Chính phủ. Theo Sắc lệnh 76/SL, những
công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển dụng, giao giữ một chức
vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ở ngoài nước, đều
là công chức theo Quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ
định. (trích Điều 1, Sắc lệnh Số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950). Do hoàn
cảnh kháng chiến sau đó, nên tuy không có văn bản nào bãi bỏ Sắc lệnh 76/SL
nhưng trên thực tế các nội dung của quy chế đó không được áp dụng.
Sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, thống nhất đất nước, chúng ra
thực hiện chế độ cán bộ trên phạm vi cả nước, theo đó tất cả những người làm
việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, doanh
nghiệp nhà nước, nông trường, lâm trường và lực lượng vũ trang đều được gọi
chung trong một cụm từ là “cán bộ, công nhân viên nhà nước”. Hầu như mọi
người khi kê khai lý lịch nếu đang làm việc trong các cơ quan, tổ chức của
Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp nhà nước đều ghi ở
mục thành phần bản thân là "cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước". Nghị định
15
169/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày 25 tháng 5 năm 1991 quy
định công chức theo một phạm vi rộng hơn, bao gồm:
“a/ Những người làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà nước ở
Trung ương, ở các tỉnh, huyện và cấp tương đương.
b/ Những người làm việc trong các Đại sứ quán, lãnh sự quán của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài.
c/ Những người làm việc trong các trường học, bệnh viện, cơ quan nghiên
cứu khoa học, cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà nước và nhận
lương từ ngân sách.
d/ Những nhân viên dân sự làm việc trong các cơ quan Bộ Quốc phòng.
e) Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường
xuyên trong Bộ máy của các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát các cấp.
g/ Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường
xuyên trong bộ máy của văn phòng Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng
Nhân dân các cấp.
Những trường hợp riêng biệt khác do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quy định”.
Những trường hợp không thuộc phạm vi công chức, bao gồm:
“a/ Các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
b/ Những người giữ các chức vụ trong các hệ thống lập pháp, hành pháp,
tư pháp được Quốc hội hoặc Hội đồng Nhân dân các cấp bầu ra hoặc cử ra
theo nhiệm kỳ.
c/ Những hạ sĩ quan, sĩ quan tại ngũ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam,
bộ đội biên phòng.
d/ Những người làm việc theo chế độ tạm tuyển, hợp đồng và những
người đang thời kỳ tập sự chưa được xếp vào ngạch.
e/ Những người làm việc trong các tổ chức sản xuất, kinh doanh của Nhà
nước.
g/ Những người làm việc trong các cơ quan của Đảng và Đoàn thể nhân
dân (có quy chế riêng của Đảng và Đoàn thể nhân dân.”
1
Đến năm 1998, khi Pháp lệnh cán bộ, công chức được ban hành, những
người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước, đoàn thể
được gọi chung trong một cụm từ là” cán bộ, công chức”. Lúc này, phạm vi và
đối tượng đã được thu hẹp lại hơn so với trước nhưng vẫn gồm cả khu vực hành
1
Trích điều 2, Nghị định 169/HĐBT, ngày 25 tháng 5 năm 1991
16
chính, khu vực sự nghiệp và các cơ quan của Đảng, đoàn thể. Vấn đề ai là cán
bộ, ai là công chức cũng chưa xác định được. Những người làm việc trong các tổ
chức, đơn vị còn lại như doanh nghiệp nhà nước, lực lượng vũ trang thì do các
văn bản pháp luật về lao động, về sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, về công
an nhân dân điều chỉnh. Với quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức, các
tiêu chí: Công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương từ Ngân sách nhà
nước mới chỉ là những căn cứ để xác định một người có phải là "cán bộ, công
chức" hay không. Tuy nhiên, vấn đề ai là cán bộ, ai là công chức vẫn chưa được
giải quyết.
Năm 2003, khi sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công
chức, Nhà nước đã thực hiện việc phân định biên chế hành chính với biên chế sự
nghiệp. Việc phân định này đã tạo cơ sở để bước đầu đổi mới cơ chế quản lý đối
với cán bộ, công chức trong các cơ quan Nhà nước với cán bộ, công chức trong
các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Nhưng vấn đề làm rõ thuật ngữ “công
chức” và thuật ngữ “viên chức” cũng chưa được giải quyết. Có chăng, trong
Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ đã gọi tắt cán
bộ, công chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước là viên chức và
Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ đã gọi tắt cán
bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước là công chức. Nhưng như
thế, cách gọi tắt này không giải quyết được vấn đề làm rõ thuật ngữ ‘cán bộ”,
“công chức”, “viên chức”.
Vì không xác định và phân biệt được rõ thuật ngữ “cán bộ”; “công chức”,
“viên chức” nên đã dẫn đến những hạn chế và khó khăn trong quá trình xác định
những điểm khác nhau (bên cạnh những điểm chung) liên quan đến quyền và
nghĩa vụ, đến quy định về cơ chế quản lý, tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi
dưỡng, kỷ luật, chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ phù hợp với tính chất,
đặc điểm hoạt động của cán bộ cũng như của công chức và viên chức. Do đó,
nhiệm vụ cơ bản, quan trọng và đầu tiên mà Luật cán bộ, công chức đã giải
quyết thành công, đó là làm rõ được những tiêu chí xác định ai là cán bộ, ai là
công chức Từ đó, mới có cơ sở và căn cứ để đưa ra những nội dung đổi mới và
cải cách thể hiện trong Luật cán bộ, công chức, tạo cơ sở để giải quyết những
vấn đề mà thực tiễn quản lý đang đặt ra. Đồng thời, đây cũng là căn cứ để xác
định rõ phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Luật cán bộ, công chức năm 2008 và
tiếp theo Luật viên chức được ban hành năm 2010 để điều chỉnh đối với đội ngũ
viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
2. Phân định cán bộ, công chức và viên chức
Theo quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008 và Luật viên chức
năm 2010 thì cán bộ, công chức và viên chức có những tiêu chí chung là: công
17
dân Việt nam; trong biên chế; hưởng lương từ Ngân sách nhà nước (riêng
trường hợp công chức và viên chức làm việc trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập thì tiền lương được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật); giữ một công vụ, nhiệm
vụ thường xuyên; làm việc trong công sở; cán bộ và công chức được phân định
theo cấp hành chính (cán bộ ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; cán bộ cấp xã;
công chức ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; cán bộ, công chức cấp xã). Cán
bộ, công chức và viên chức được phân định rõ theo tiêu chí riêng, gắn với cơ
chế hình thành hoặc chế độ làm việc.
Cán bộ: Khoản 1 Điều 4 của Luật cán bộ, công chức quy định cán bộ là
công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh
theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị- xã hội ở trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước. Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ
gắn với cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ. Những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được
tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã
hội thông qua con đường bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh
theo nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ. Thực tế cho thấy, cán bộ luôn gắn
liền với chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; hoạt động của họ gắn với quyền lực
chính trị được nhân dân hoặc các thành viên trao cho và chịu trách nhiệm chính
trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Việc quản lý cán bộ phải thực hiện theo
các văn bản Pháp luật tương ứng chuyên ngành điều chỉnh hoặc theo Điều lệ. Do
đó, căn cứ vào các tiêu chí do Luật cán bộ, công chức 2008 quy định, những ai
là cán bộ trong cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị xã hội sẽ được các cơ quan
có thẩm quyền của Đảng căn cứ Điều lệ của Đảng, của tổ chức chính trị- xã hội
quy định cụ thể. Những ai là cán bộ trong cơ quan nhà nước sẽ được xác định
theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức
Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Kiểm toán nhà nước và các quy định khác
của pháp luật có liên quan và do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể.
Công chức: Khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ, công chức quy định công chức
là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức
danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị-
xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân mà không phải là sĩ quan quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
18
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
Theo quy định này thì tiêu chí để xác định công chức gắn với cơ chế
tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh. Những người đủ các
tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển dụng vào làm việc trong
các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thông qua quy chế tuyển dụng
(thi tuyển, xét tuyển), bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh thì được xác
định là công chức. Công chức là những người được tuyển dụng lâu dài, hoạt
động của họ gắn với quyền lực công (hoặc quyền hạn hành chính nhất định)
được cơ quan có thẩm quyền trao cho và chịu trách nhiệm trước cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Việc
quy định công chức trong phạm vi như vậy xuất phát từ mối quan hệ liên thông
giữa các cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị xã hội trong hệ
thống chính trị. Đây là điểm đặc thù của Việt Nam rất khác so với một số nước
trên thế giới nhưng lại hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể và thể chế chính
trị ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc quy định công chức có trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của các đơn vị sự nghiệp công lập là phù hợp với Hiến pháp của Việt Nam, thể
hiện và khẳng định được trách nhiệm của Nhà nước trong việc tổ chức cung
cấp các dịch vụ công thiết yếu và cơ bản cho người dân, bảo đảm sự phát triển
cân đối giữa các vùng, lãnh thổ có mức sống chênh lệch, thực hiện mục tiêu
dân chủ và công bằng xã hội. Hiện nay, khi vai trò của Nhà nước đang được
nhấn mạnh trong điều kiện kinh tế thị trường, nhằm khắc phục ảnh hưởng của
suy thoái kinh tế tác động đến sự ổn định đời sống xã hội thì việc quy định
công chức có trong bộ máy lãnh đạo, quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập lại
càng có ý nghĩa và thể hiện tư duy pháp lý tiến bộ của Luật cán bộ, công chức
2008. Tuy nhiên, phạm vi công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý các đơn vị
sự nghiệp công lập rộng hay hẹp còn tuỳ thuộc vào quy mô, phạm vi hoạt động
của từng đơn vị sự nghiệp; vào cấp có thẩm quyền thành lập và quản lý.
Công chức trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã
hội, bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập, lực lượng vũ trang đã
được quy định cụ thể tại Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25-01-2010 của
Chính phủ quy định những người là công chức.
Theo Nghị định số 06/2010/NĐ-CP, công chức được xác định theo các
tiêu chí: là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo
19
đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật,
làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính
trị- xã hội và bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập.
Viên chức: Theo quy định tại Luật viên chức được Quốc hội thông qua
ngày 15 tháng 11 năm 2010, viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng
theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng
làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật. Theo đó, viên chức được xác định theo các tiêu chí: được
tuyển dụng theo vị trí việc làm; làm việc theo chế độ hợp đồng làm việc; hưởng
lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là những người mà hoạt
động của họ nhằm cung cấp các dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho người dân như
giáo dục, đào tạo, y tế, an sinh xã hội, hoạt động khoa học, văn hoá, nghệ thuật,
thể dục, thể thao Những hoạt động này không nhân danh quyền lực chính
trị hoặc quyền lực công, không phải là các hoạt động quản lý nhà nước mà
chỉ thuần tuý mang tính nghề nghiệp gắn với nghiệp vụ, chuyên môn.
Việc phân định cán bộ và công chức, viên chức của Luật cán bộ, công
chức và Luật viên chức là căn cứ pháp lý để quy định cơ chế quản lý phù hợp
với cán bộ ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; công chức ở trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện; cán bộ cấp xã, công chức cấp xã cũng như quy định cơ chế quản lý
phù hợp với viên chức. Với những quy định mới này, pháp luật về cán bộ, công
chức và về viên chức đã tiếp tục quy định những vấn đề thể hiện tính đặc thù
trong hoạt động công vụ của cán bộ khác với hoạt động công vụ của công chức;
hoạt động nghề nghiệp của viên chức liên quan đến các nội dung như: quyền và
nghĩa vụ, bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm; tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi
dưỡng; điều động, luân chuyển; đánh giá; Ví dụ như:
- Bên cạnh các quyền và nghĩa vụ chung mà cán bộ và công chức đều có.
Đối với cán bộ do chịu sự điều chỉnh của cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
nên cán bộ còn phải chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước, nhân dân và trước
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được
giao. Điểm này thể hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ. Đối với viên chức,
pháp luật cũng đã có những quy định riêng về quyền và nghĩa vụ khác với cán
bộ và công chức. Đồng thời, theo cơ chế hợp đồng làm việc, viên chức được
quản lý theo cơ chế linh hoạt, mềm hơn so với cán bộ, công chức và căn cứ vào
các nội dung hợp đồng đã thoả thuận với đơn vị sự nghiệp công lập.
Đối với công chức, do chịu sự điều chỉnh của cơ chế tuyển dụng, bổ
nhiệm nên công chức còn phải chịu trách nhiệm trước cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Điểm này thể
hiện trách nhiệm hành chính của công chức.
20
- Việc quy định đánh giá cán bộ đã có những nội dung khác với đánh giá
công chức. Theo Luật quy định, đánh giá cán bộ thực hiện theo 5 nội dung,
trong đó có những nội dung khác với đánh giá công chức là: cán bộ phải đánh
giá năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; tinh thần trách
nhiệm trong công tác; kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Còn đánh giá công
chức gồm 6 nội dung đánh giá. Điểm khác với đánh giá cán bộ là việc đánh giá
công chức gắn với năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ; tiến độ và kết quả
thực hiện nhiệm vụ; tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm
vụ; thái độ phục vụ nhân dân. Tương tự, việc đánh giá viên chức cũng được quy
định phù hợp với đặc điểm và tính chất hoạt động chuyên môn nghiệp nghiệp
của viên chức.
- Việc áp dụng hình thức kỷ luật đối với cán bộ cũng khác với công chức
và viên chức. Cán bộ có 4 hình thức kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, cách chức,
bãi nhiệm), còn công chức có 6 hình thức kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc
lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc). Viên chức có 4 hình thức kỷ luật
là khiển trách, cảnh cáo, cách chức, buộc thôi việc. Viên chức bị kỷ luật bằng
một trong 4 hình thức kỷ luật này còn có thể bị hạn chế thực hiện hoạt động
nghề nghiệp theo quy định của pháp luật có liên quan.
Như vậy, theo Luật Cán bộ, công chức 2008 và theo Luật viên chức năm
2010, những người làm việc trong các tổ chức kinh tế của nhà nước không phải
là cán bộ và cũng không phải là công chức, viên chức. Đó là những người làm
việc trong những thực thể hoạt động dựa trên nguyên tắc lợi nhuận. Đối với
nhóm lực lượng vũ trang, công an nhân dân, những người là sỹ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, hạ sỹ quan chuyên nghiệp cũng không
thuộc vào phạm vi công chức, viên chức.
Công chức và viên chức có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ
thuộc vào mục đích phân loại. Ở Việt Nam có một số cách phân loại cơ bản sau:
a) Căn cứ vào ngạch được bổ nhiệm, công chức được phân thành loại A,
loại B, loại C và loại D, cụ thể như sau:
- Loại A gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên cao cấp
hoặc tương đương;
- Loại B gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên chính
hoặc tương đương;
- Loại C gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên hoặc
tương đương;
- Loại D gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch cán sự hoặc tương
đương và ngạch nhân viên.
21
Đối với viên chức, Luật viên chức đã quy định việc sử dụng “chức danh
nghề nghiệp” áp dụng đối với người được tuyển vào viên chức để phân biệt với
việc sử dụng “ngạch” áp dụng đối với người được tuyển vào công chức. Việc
phân loại theo “chức danh nghề nghiệp” của viên chức có sự khác biệt với
“ngạch” của công chức, theo đó việc phân “hạng chức danh nghề nghiệp” được
chia theo từng cấp độ từ cao xuống thấp, bao gồm 4 cấp độ: viên chức giữ chức
danh nghề nghiệp hạng I, hạng II, hạng III và hạng IV.
b) Căn cứ vào vị trí công tác, công chức, viên chức được phân loại
như sau:
- Công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý;
- Công chức, viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
2. Nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức và viên chức
2.1 Nghĩa vụ và quyền của cán bộ, công chức
Nghĩa vụ và quyền của cán bộ, công chức là những vấn đề cơ bản của chế
độ công vụ, được quy định trong pháp luật về công vụ, công chức. Nghĩa vụ và
quyền của cán bộ, công chức thể hiện mối quan hệ giữa cán bộ, công chức với
Nhà nước, nhân dân trong quá trình thực thi công vụ. Đây là những chế định
quan trọng để điều chỉnh hành vi của cán bộ, công chức trong hoạt động công
vụ. Mặt khác, nó còn là căn cứ để Nhà nước thực hiện trách nhiệm của mình đối
với cán bộ, công chức, nhằm bảo đảm các điều kiện cần thiết của một chủ thể
công quyền đối với đối tượng quản lý của mình là cán bộ, công chức (phương
tiện làm việc; đời sống vật chất, tinh thần; an toàn, an ninh cho cán bộ, công
chức trong công vụ). Các văn bản luật, pháp lệnh hoặc quy chế của các quốc gia
trên thế giới quy định về công chức, công vụ đều ghi nhận các nghĩa vụ và
quyền của công chức như một tiền đề thiết yếu để nâng cao hiệu quả của hoạt
động công vụ. Nghĩa vụ và quyền của cán bộ, công chức thường gắn liền với
nhau. Nghĩa vụ là những việc mà cán bộ, công chức có trách nhiệm và bổn phận
phải thực hiện. Quyền của cán bộ, công chức là các điều kiện để bảo đảm thực
hiện tốt các nghĩa vụ. Các quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền của cán
bộ, công chức thường được quy về hai nhóm. Trước hết, bản thân cán bộ, công
chức là công dân nên họ có các nghĩa vụ và quyền như mọi công dân. Thứ hai,
đặc điểm và lao động của cán bộ, công chức có những điểm khác với các dạng
lao động khác trong xã hội nên họ có các nghĩa vụ và quyền mang tính đặc thù
của hoạt động công vụ. Trong quá trình thực hiện công vụ, cán bộ, công chức
được giao một số quyền lực công nhất định (không phải là quyền theo nghĩa
thông thường). Đó là giới hạn về khả năng thực hiện các hành vi được pháp luật
quy định, mặt khác, đó cũng là nghĩa vụ mà cán bộ, công chức phải thực hiện
22
các quyền hạn đó. Quyền hạn được coi là phương tiện pháp lý để cán bộ, công
chức thực thi công vụ, không phải là những đặc quyền, đặc lợi. Nghĩa vụ và
quyền là hai mặt của một vấn đề, tạo nên địa vị pháp lý của cán bộ, công chức.
Thực hiện quyền cũng chính là thực hiện nghĩa vụ và ngược lại. Chẳng hạn,
quyền được hưởng lương của cán bộ, công chức cũng chính là nghĩa vụ phải
thực hiện có hiệu quả hoạt động công vụ tương ứng với tiền lương được hưởng.
Luật cán bộ, công chức vừa qua được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008 đã
hoàn thiện và bổ sung thêm một số nội dung mới về nghĩa vụ và quyền của cán
bộ, công chức, thể hiện rõ và đầy đủ mối quan hệ giữa cán bộ, công chức với
Nhà nước trong hoạt động công vụ.
a) Về nghĩa vụ của cán bộ, công chức:
Dưới góc độ pháp lý, nghĩa vụ của cán bộ, công chức được hiểu là bổn
phận phải thực hiện hoặc không được thực hiện những việc hay một hành vi nào
đó do pháp luật quy định. Bổn phận đó, vừa để công chức rèn luyện, phấn đấu,
vừa là cơ sở để cơ quan quản lý kiểm tra, giám sát, đánh giá trong quá trình sử
dụng, quản lý cán bộ, công chức. Chúng ta đều biết, cán bộ, công chức là những
người tự nguyện gia nhập vào hoạt động công vụ, được tuyển dụng theo chế độ
thuận nhận, làm việc trong các cơ quan nhà nước để phục vụ nhân dân, phụng sự
Tổ quốc, được nhận tiền lương từ ngân sách Nhà nước- thực tế là từ tiền đóng
thuế của người dân. Vì vậy, công chức phải có nghĩa vụ phục vụ nhân dân. Khác
với các hoạt động lao động khác trong xã hội, lao động của cán bộ, công chức
mang tính đặc thù, đòi hỏi phải có trí tuệ, sức sáng tạo cao, phải tận tuỵ và công
tâm; sử dụng quyền lực nhà nước để thực thi công vụ. Các hoạt động công vụ
được thực hiện bởi cán bộ, công chức có ảnh hưởng rất lớn đối với mọi lĩnh vực
của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, góp phần
quan trọng tạo nên sự hùng mạnh của quốc gia. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức
thường được xác định theo hai nhóm chính: trước hết, đó là nhóm nghĩa vụ liên
quan đến sự trung thành với thể chế, với quốc gia; thứ hai đó là nhóm nghĩa vụ
liên quan đến thực thi công vụ, thể hiện ở sự tận tuỵ, công tâm, trách nhiệm và
tuân thủ luật pháp. Bên cạnh đó, pháp luật các nước còn quy định thêm các
nhóm nghĩa vụ khác nhằm làm rõ và cụ thể hoá hai nhóm nghĩa vụ nêu trên.
Luật công chức của Pháp, Đức, Áchentina, Trung quốc, dù quy định nghĩa vụ
công chức ở một hoặc nhiều điều khoản thì cuối cùng vẫn tập trung vào hai
nhóm chính là nghĩa vụ trung thành với chế độ, với thể chế và nghĩa vụ thực thi
công vụ. Trước đây, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 của Chủ tịch
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về Quy chế công chức quy định công chức
Việt Nam “phải trung thành với Chính phủ”; bên cạnh đó, trong thực thi công vụ
“phải phục vụ nhân dân, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm”; “phải cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 đã
23
quy định nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong 3 điều ( 6, 7, 8). Theo đó, cán bộ,
công chức phải có trách nhiệm thực hiện 5 nhóm nghĩa vụ cụ thể:
- Nhóm nghĩa vụ liên quan đến thể chế: Trung thành với Nhà nước, bảo
vệ sự an toàn, danh dự và lợi ích quốc gia; chấp hành đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Nhóm nghĩa vụ liên quan đến đạo đức công vụ: tận tuỵ phục vụ nhân
dân, tôn trọng nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân; có nếp sống lành mạnh,
trung thực, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư; tham gia sinh hoạt nơi cư trú.
- Nhóm nghĩa vụ liên quan đến trách nhiệm công vụ và trật tự thứ bậc
như nghĩa vụ phải chấp hành sự điều động, phân công công tác của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền; nghĩa vụ phải chấp hành quyết định của cấp trên và cách
ứng xử khi quyết định được cho là trái pháp luật.
- Nhóm nghĩa vụ liên quan đến kỷ cương, tác phong và ý thức công dân
như các nghĩa vụ có ý thức kỷ luật, thực hiện nội quy cơ quan, bảo vệ công sản.
- Nhóm nghĩa vụ liên quan đến trách nhiệm rèn luyện, học tập trau dồi
chuyên môn như thường xuyên học tập nâng cao trình độ, chủ động sáng tạo,
phối hợp công tác để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Bên cạnh đó, pháp lệnh cán bộ, công chức còn quy định những việc cán
bộ, công chức không được làm (có 6 điều). Các quy định này nhằm nâng cao kỷ
luật, kỷ cương trong công vụ; hạn chế cán bộ, công chức không được làm khi
thực hiện một số việc, hay khi giữ một số chức vụ; bảo đảm an ninh, quốc
phòng, bí mật quốc gia. Việc thực hiện các quy định này cũng chính là thực hiện
nghĩa vụ của cán bộ, công chức.
Sau thời gian hơn 10 năm thực hiện Pháp lệnh cán bộ, công chức, năm
2008, Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam đã thông qua Luật cán bộ,
công chức, theo đó nghĩa vụ của cán bộ, công chức đã được bổ sung và hoàn
thiện. Bên cạnh các nghĩa vụ được kế thừa từ Pháp lệnh, nghĩa vụ của cán bộ,
công chức còn được bổ sung quy định về nghĩa vụ đối với Đảng, Nhà nước và
nhân dân; nghĩa vụ trong thi hành công vụ- trong đó cán bộ, công chức là người
đứng đầu còn phải thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến chức trách ở vị trí
đứng đầu của mình. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức đã được hoàn thiện trong
các quy định của Luật cán bộ, công chức. Đó là, ngoài các nhóm nghĩa vụ liên
quan đến sự trung thành với thể chế, với trách nhiệm thực thi công vụ và các
nhóm nghĩa vụ khác, Luật cán bộ, công chức quy định những việc cán bộ, công
chức không được làm như là nội dung tất yếu mà cán bộ, công chức có bổn phận
phải thực hiện khi tham gia công vụ. Đây là điểm mới, thể hiện tính pháp quyền
24
cao của hoạt động công vụ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó,
luật đã bổ sung thêm một số quy định sau:
- Những việc không được làm liên quan đến đạo đức công vụ:
+ Không được tham gia đình công. Quy định này xuất phát từ yêu cầu xây
dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, yêu cầu xây
dựng một nền công vụ liên tục, thống nhất, thông suốt và ổn định. Nghĩa vụ của
công chức là phục vụ nhân dân, là trung thành với chế độ XHCN. Vì vậy, cán
bộ, công chức chỉ có thể có quyền khiếu nại, kiến nghị nhưng không thể và
không được phép tham gia đình công.
+ Không được sử dụng tài sản của Nhà nước và của nhân dân trái pháp
luật; lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến
công vụ để vụ lợi. Quy định như vậy để bảo đảm thực hiện sự minh bạch, công
khai trong công vụ và xây dựng đạo đức của công chức theo nguyên tắc cần,
kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Góp phần thực hiện tốt việc phòng, chống
tham nhũng và thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong hoạt động công vụ.
+ Không phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo dưới mọi hình thức. Nghĩa vụ này xuất phát từ chủ trương, đường lối
của Đảng về một nhà nước kiểu mới, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Xuất phát từ nguyên tắc, pháp luật là tối thượng và mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật. Do đó, hoạt động công vụ phải tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân. Vì vậy, liên quan đến vấn đề dân tộc, giới tính, thành phần xã hội và
tín ngưỡng tôn giáo, luật quy định công chức không được phép phân biệt đối xử
trong hoạt động công vụ.
- Những việc không được làm liên quan đến sản xuất, kinh doanh,
công tác nhân sự: Trước đây, Pháp lệnh cán bộ, công chức quy định nội dung
này ở các điều 17, 19 và điều 20, nhưng các quy định này qua thực tiễn áp dụng
chưa tạo ra hiệu quả đủ mạnh. Bên cạnh đó, một số văn bản luật như Luật
phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cũng đã
có một số điều khoản quy định về vấn đề này. Vì vậy, để bảo đảm tính thống
nhất giữa các văn bản luật đã ban hành với Luật cán bộ, công chức, tránh trùng
lặp và chồng chéo, Luật cán bộ, công chức có 1 điều quy định những việc cán
bộ, công chức không được làm liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác
nhân sự- theo đó cán bộ, công chức phải thực hiện theo quy định của Luật
phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những
việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền.
25