Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học luyện từ và câu cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.72 MB, 74 trang )

DANH MỤC VIẾT TẮT

BĐTD : Bản đồ tư duy
LTVC : Luyện từ và câu
BCHTW : Ban chấp hành Trung ương
NXBGD : Nhà xuất bản giáo dục
MRVT : Mở rộng vốn từ
SGK : Sách giáo khoa
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông

















MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
2.1 Việc nghiên cứu và ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy học trên thế giới 2
2.2 Việc nghiên cứu và sử dụng bản đồ tư duy vào dạy học ở Việt Nam 4
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 5
3.1 Mục đích 5
3.2 Nhiệm vụ 6
4. Phương pháp nghiên cứu 6
4.1 Phương pháp phân tích lí thuyết 6
4.2 Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu 6
4.3 Phương pháp khảo sát thực tế 6
4.4 Phương pháp thực nghiệm 7
5. Giới hạn của đề tài 7
6. Giả thuyết khoa học 7
7. Đóng góp mới của đề tài 7
8. Cấu trúc khóa luận 8
PHẦN NỘI DUNG 9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƢ DUY TRONG DẠY HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 5 9
1. Cơ sở lí luận 9
1.1 Một số vấn đề liên quan đến bản đồ tư duy 9
1.2 Sự cần thiết của bản đồ tư duy đối với việc dạy học luyện từ và câu ở tiểu
học 11
2. Cơ sở thực tiễn 15
2.1 Nội dung, chương trình phân môn luyện từ và câu lớp 5 15
2.2 Đặc điểm nhận thức của HS lớp 5 với việc sử dụng BĐTD 17
2.2.1 Đặc điểm của quá trình nhận thức 17
2.2.2 Hứng thú học tập của HS khi sử dụng BĐTD 21

2.3 Tình hình sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học luyện từ và câu lớp 5 22
2.3.1 Mục đích nghiên cứu 23
2.3.2 Nội dung nghiên cứu 23
2.3.3 Địa bàn nghiên cứu, đối tượng khảo sát 23
2.3.4 Tiêu chuẩn và thang đánh giá 23
2.3.5 Kết quả nghiên cứu 23
Tiểu kết chương 1 24
CHƢƠNG 2: THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƢ DUY TRONG DẠY
HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 5 25
1. Các hình thức thiết kế bản đồ tư duy 25
1.1 Thiết kế bản đồ tư duy bằng tay 25
1.2 Thiết kế BĐTD bằng máy tính 26
2. Một số lưu ý khi vận dụng BĐTD trong dạy học LTVC ở lớp 5 34
3. Quy trình sử dụng BĐTD trong dạy học LTVC 36
4. Tổ chức cho HS sử dụng BĐTD trong dạy học các loại bài học LTVC 38
4.1. Tìm hiểu các dạng bản đồ 38
4.2. Đọc hiểu Bản đồ 42
4.3. Vẽ Bản đồ, ghi chú thích 42
Tiểu kết chương 2 49
CHƢƠNG 3: THỂ NGHIỆM 50
3.1. Mục đích thể nghiệm 50
3.2. Đối tượng và địa bàn thể nghiệm 50
3.2.1 Đối tượng thể nghiệm 50
3.2.2 Địa bàn thể nghiệm 50
3.3 Nội dung và cách thức thể nghiệm 50
3.3.1 Nội dung thể nghiệm 50
3.3.2 Cách thức tiến hành thể nghiệm 51
3.4 Đánh giá kết quả thể nghiệm 51
3.4.1 Các tiêu chí đánh giá 52
3.4.1.1 Về định tính 52

3.4.1.2 Về định lượng 52
3.4.2 Kết quả thể nghiệm 52
3.4.2.1 Đối với giáo viên 52
3.4.2.2 Đối với học sinh 53
3.4.3. Nhận xét về quá trình thể nhiệm 53
3.4.3.1 Về phía giáo viên 53
3.4.3.2 Về phía học sinh 54
Tiểu kết chương 3 55
PHẦN KẾT LUẬN 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO



















1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa,
từng bước đổi mới từ một nước nông nghiệp lạc hậu sang một nước công nghiệp
tiên tiến, hiện đại. Hòa chung trong không khí đổi mới đó, ngành giáo dục cũng
đã và đang có sự đổi mới đáng kể về cả nội dung và phương pháp dạy học.
Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ
rõ: "Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các bậc học, kết hợp tốt học và
hành, học tập với lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn
nhà trường với xã hội. Áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi
dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề Đẩy
mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ, nghiên cứu những vấn đề
khoa học phục vụ cho mục tiêu phát triển và sự nghiệp giáo dục."
Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII nhấn
mạnh: " Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và các phương tiện hiện
đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh".
Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khóa VIII nhấn mạnh: " Đổi mới căn
bản và toàn diện nội dung, phương pháp dạy và học "
Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khóa IX, khi đề cập đến lĩnh vực
giáo dục - đào tạo cũng nhấn mạnh : "Đổi mới căn bản và toàn diện nội dung,
phương pháp dạy và học "
Cùng với những định hướng đổi mới của đảng, đổi mới mục tiêu và nội
dung dạy học thì vấn đề đổi mới phướng pháp dạy học theo quan điểm : "Lấy
người học làm trung tâm" cũng đang được đặt ra rất bức thiết. Bản chất của dạy
học "Lấy người học làm trung tâm" là nhằm phát huy cao độ tính tự giác, tích
cực, độc lập, sáng tạo của người học. Có rất nhiều phương pháp dạy học mới
đang được triển khai nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, trong đó việc dạy học
bằng bản đồ tư duy là một phương pháp mới đang thu hút sự chú ý của nhiều


2
người. Bản đồ tư duy đã được ứng dụng rất nhiều và thành công trong hầu hết
các lĩnh vực của cuộc sống.
Trên thực tế hiện nay, nhiều học sinh còn học tập một cách thụ động, máy
móc theo khuôn khổ, chưa biết cách tư duy. Học sinh chỉ học gì biết đó chưa có
sự liên hệ giữa các mạch kiến thức, nên các em chưa có được sự tư duy logic và
có hệ thống.
Để có thể giúp học sinh dễ nhớ và nhớ lâu, kích thích hứng thú học tập
của các em, thì sử dụng bản đồ tư duy chính là một phương pháp học tập đạt
hiệu quả cao. Học tập bằng bản đồ tư duy sẽ giúp các em nắm tri thức một cách
có hệ thống, dễ nhớ, hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề
một cách khoa học, sâu sắc. Các em không chỉ học tốt các kiến thức trong sách
vở mà còn nắm bắt được các kiến thức từ thực tế cuộc sống. Vì vậy nếu giáo
viên giúp các em biết sử dụng BĐTD cũng có nghĩa là giúp các em có phương
pháp học tập tốt nhằm nâng cao hiệu quả học tập.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài "SỬ DỤNG
BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC
SINH LỚP 5".
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1 Việc nghiên cứu và ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy học trên thế giới
Bản đồ tư duy được mệnh danh là "Công cụ vạn năng cho bộ não" là
phương pháp ghi chú để sáng tạo.
Phương pháp này được phát triển vào cuối thập niên 60 của thế kỉ XX,
bởi Tony Buzan (ông sinh năm 1942 tại London). BĐTD được chính thức giới
thiệu với thế giới lần đầu tiên vào mùa xuân năm 1947 với ấn bản của cuốn đi
trước được mang tên sử dụng trí tuệ của bạn (Use Your Head). Ông đã xuất
bản bộ sách dành cho trẻ em từ 7- 14 tuổi gồm có các cuốn: Bí quyết học giỏi ở
trường, các kĩ năng học giỏi, rèn luyện trí nhớ và khả năng tập trung. Trong các
cuốn sách này Tony Buzan đã chỉ ra chìa khóa để có thể nhớ tốt là: " Trí tưởng

tượng và sự liên tưởng". Giới thiệu, hướng dẫn các em sử dụng BĐTD để học
sao cho có hiệu quả. Bên cạnh BĐTD Tony Bzan còn giới thiệu cho các em bốn

3
công cụ làm chủ trí nhớ, đó là: Cuốn phim kí ức, lâu đài hồi tưởng, và hai kĩ
thuật ghi nhớ số: Dựa vào hình dạng để ghi nhớ con số và dùng từ đồng âm.
BĐTD là một công cụ tư duy nền tảng. Nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết
hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động
và chức năng của bộ não giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
Theo Tony Buzan thì " Một hình ảnh có giá trị hơn cả ngàn từ", và " Màu sắc
cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Màu sắc mang đến cho BĐTD
những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng vô tận cho tư
duy sáng tạo".
Cùng với sự phát triển của thế giới thì BĐTD cũng đang rất phát triển và
được sử dụng rộng rãi. Càng ngày số người sử dụng BĐTD càng tăng lên, cho
đến hiện nay có khoảng hơn 250 triệu người trên thế giới đang sử dụng BĐTD
vào nhiều lĩnh vực trong cuộc sống như: Lập kế hoạch, hội thảo, thuyết trình,
kinh doanh, giáo dục…
Giữa thập niên 70, Peter Russell đã làm việc chung với Tony Buzan và họ đã
truyền bá kĩ xảo về Mind Map cho nhiều cơ quan quốc tế và học viện giáo dục.
Năm 1975 Joyce Wycoff đã kết hợp chặt chẽ với Tony Buzan để phát
triển BĐTD thành một công cụ tư duy hiệu quả. Trong cuốn Ứng dụng bản đồ
tư duy bà đã đưa ra hướng dẫn cụ thể trong hành trình khám phá khả năng của
bộ não, khám phá bản thân đồng thời cung cấp những gợi mở thiết thực, có thể
áp dụng tức thì, giúp chúng ta ghi nhớ, thuyết trình, học tập, lập kế hoạch …
trong công việc cũng như cuộc sống bằng BĐTD.
Adam Khoo là một triệu phú trẻ giàu nhất Singapore, doanh nhân và là
nhà diễn giả hàng đầu của Châu Á, từ một học sinh cá biệt, có thành tích học tập
kém cỏi đã vươn lên thành một học sinh giỏi toàn diện và thành công vang dội
khắp Châu Á nhờ sử dụng thành công BĐTD. Trong cuốn sách Tôi tài giỏi bạn

cũng thế Adam Khoo đã dạy cách sử dụng BĐTD trong học tập để đạt hiệu quả
cao, tăng cường khả năng ghi nhớ của học sinh.
Jean-Luc Deleadriere với cuốn sách Sắp xếp ý tưởng với sơ đồ tư duy
trong cuốn sách này tác giả đã hướng dẫn cách sắp xếp các ý tưởng trong công

4
việc, quản lí công việc hàng ngày, ghi chú hiệu quả, quản lí các dự án, lập sơ đồ
tư duy bằng máy tính.
Như vậy ta thấy được hiệu quả của BĐTD trong tất cả các lĩnh vực của
cuộc sống, đặc biệt là trong giáo dục. BĐTD đang được sự quan tâm của rất
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và cả thầy cô giáo.
2.2 Việc nghiên cứu và sử dụng bản đồ tư duy vào dạy học ở Việt Nam
BĐTD đã được ứng dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới cách đây 20-30
năm. Thế nhưng ở việt nam chỉ mới biết đến BĐTD trong những năm gần đây.
Việc sử dụng BĐTD trong cuộc sống và học tập ở Việt Nam còn rất hạn chế,
chưa được ứng dụng rộng rãi. Đặc biệt việc vận dụng BĐTD vào trong dạy học
ở tiểu học nói chung và dạy học Tiếng việt nói riêng còn quá ít.
Trong khi cả xã hội đang bức xúc với việc “ đọc – chép”, thói quen “ học
vẹt” của học sinh thì việc sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học
tích cực đã đem lại nhiều hiệu quả và lợi ích thiết thực.
Năm 2010, dự án Việt – Bỉ với chuyên đề “ Nâng cao chất lượng đào tạo
và bồi dưỡng giáo viên tiểu học” cũng đã giới thiệu tài liệu Dạy và học tích cực
– Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học. Tài liệu này đã giới thiệu một số
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: phương pháp học tập theo góc,
mảnh ghép, kĩ thuật khăn phủ bàn, đặc biệt là BĐTD.
Trong nhưng năm gần đây TS Trần Đình Châu cùng các cán bộ nghiên
cứu thuộc viện nghiên cứu giáo dục Việt Nam, dự án phát triển giáo dục kết hợp
với vụ giáo dục Trung học và cục nhà giáo của bộ giáo dục và đào tạo các tỉnh
đã đến các vùng miền trên khắp đất nước để nghiên cứu và nhân rộng phương
pháp mới này.

TS Trần Đình Châu và TS Đặng Thị Thu Thủy đã có nhiều bài báo cáo
khoa học và xuất bản nhiều cuốn sách có liên quan đến BĐTD như: dạy tốt - học
tốt các môn học bằng bản đồ tư duy, thiết kế BĐTD dạy – học môn Toán và
cuốn dạy tốt – học tốt ở tiểu học bằng BĐTD. Ngay khi vừa được phát hành các
cuốn sách này đã thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của các nhà quản lí giáo dục, đội
ngũ giáo viên, phụ huynh và các em học sinh.

5
Năm 2010 ứng dụng BĐTD trong dạy và học đã được triển khai thí điểm tại
355 trường trên toàn quốc và được nhiều giáo viên và học sinh hồ hởi tiếp nhận.
Kết quả ban đầu cho thấy: Việc vận dụng BĐTD trong dạy học khắc phục
được dần thói quen học vẹt, tư duy máy móc và dần hình thành cho học sinh tư
duy mạch lạc, hiểu biết và nắm bắt vấn đề một cách sâu sắc, “ định vị trong đầu”
được các kiến thức, sự kiện cơ bản, có cách nhìn nhận vấn đề một cách khoa
học, hệ thống, không chỉ học tốt các kiến thức trong sách vở mà còn nắm bắt
được các kiến thức trong thực tế cuộc sống.
Trước kết quả khả quan này, năm 2011 Bộ Giáo Dục – Đào Tạo đã quyết
định đưa phương pháp dạy học bằng BĐTD là một trong năm chuyên đề dạy
học tích cực được tập huấn cho 4000 giáo viên.
Mặc dù vậy cho đến nay việc sử dụng BĐTD trong dạy học vẫn chưa
được ứng dụng ở diện rộng và chưa thực sự trở thành một phương pháp phổ
biến. Đặc biệt việc vận dụng BĐTD vào trong dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học
vẫn chưa được trao đổi thảo luận nhiều, dù trên thực tế chúng ta cũng sử dụng
không ít những kiểu sơ đồ cho giảng dạy.
Có thể nói: Việc vận dụng BĐTD vào dạy học Tiếng Việt ở tiểu học vẫn
đang là vấn đề khá mới mẻ. Vì vậy để cụ thể hóa phương pháp này trong giảng
dạy Tiếng Việt, ứng dụng và triển khai trên diện rộng là vấn đề cần được tiếp tục
bàn luận, trao đổi. Hơn nữa để nâng cao chất lượng dạy và học ở tiểu học thì con
đường sử dụng BĐTD là một trong những con đường dạy học khá hiệu quả.
Tất cả những nghiên cứu trên thế giới và trong nước nói trên một mặt là gợi mở,

định hướng cho chúng tôi chọn đề tài này để tiếp tục nghiên cứu. Mặt khác
những nghiên cứu đó góp phần quan trọng tạo nên nội dung của khóa luận. Trên
cái nền tảng ấy chúng tôi nghiên cứu và đề xuất thêm những vấn đề mới. Với đề
tài này, chúng tôi mong muốn được góp phần vào việc cải tiến phương pháp dạy
học nói chung và phương pháp dạy học ở Tiểu học nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích
Đề xuất quy trình sử dụng BĐTD và tổ chức cho học sinh sử dụng BĐTD
trong dạy học luyện từ và câu lớp 5 nhằm nâng cao chất lượng dạy học.

6
Giúp cho giáo viên có thêm một phương pháp dạy học mới góp phần cải
tiến chất lượng bài dạy và nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện.
3.2 Nhiệm vụ
Xây dựng cơ sở lí luận và thực tiễn cho đề tài.
Quy trình sử dụng BĐTD và tổ chức cho học sinh sử dụng BĐTD trong
dạy học luyện từ và câu.
Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra kết quả nghiên cứu của đề tài.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận này chúng tôi đã phối hợp sử dụng các phương
pháp sau:
4.1 Phương pháp phân tích lí thuyết
- Chúng tôi sử dụng phương pháp này để xem xét, tìm hiểu những vấn đề
có lí thuyết liên quan đến đề tài.
- Một số vấn đề cơ bản của lí thuyết BĐTD
- Vận dụng lí thuyết BĐTD vào dạy học LTVC ở lớp 5
- Những lí thuyết mà chúng tôi nghiên cứu thông qua sách báo, tạp chí,
văn kiện, nghị quyết của đảng và một số luận văn sau đại học
Chúng tôi vận dụng điều đó để xây dựng BĐTD của một số bài LTVC lớp 5
4.2 Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu

Những phương pháp này chủ yếu dùng vào việc điều tra, khảo sát và xử lí
các kết quả thu nhận được trong quá trình thực nghiệm. Đây là những phương
pháp giúp chúng tôi có điều kiện nhìn nhận được những vấn đề được nghiên cứu
trong khóa luận, có sự so sánh và đối chiếu lẫn nhau (cụ thể là lớp thực nghiệm
và lớp đối chứng). Từ đó có thể rút ra những kết luận hợp lí, vừa có cơ sở lí
luận, vừa có cơ sở thực tiễn. Tuy những con số đưa ra trong khóa luận chưa đạt
đến độ chính xác tuyệt đối nhưng với những số liệu ấy, người đọc sẽ có phần tin
cậy hơn về tính khả thi của vấn đề đưa ra trong khóa luận.
4.3 Phương pháp khảo sát thực tế
Sau khi nghiên cứu những vấn đề lí thuyết , chúng tôi tiến hành khảo sát
thực tế. chúng tôi dùng phương pháp này để khảo sát về thực trạng sử dụng
BĐTD trong dạy học LTVC lớp 5

7

Nếu không trực tiếp xúc, tìm hiểu thực tế thì những vấn đề đặt ra sẽ rất
mơ hồ, tính chính xác không cao dẫn đến tính khả thi của các giải pháp đặt ra
chắc chắn sẽ thấp. Vì thế mà trong đề tài này chúng tôi rất coi trọng phương
pháp khảo sát thực tế. Đấy được coi là phương pháp chủ đạo để điều chỉnh, đưa
ra các biện pháp để học sinh học tập hiệu quả.
4.4 Phương pháp thực nghiệm
Đây là một phương pháp rất quan trọng không thể thiếu khi đi vào nghiên
cứu đề tài này. Phương pháp thực nghiệm nhằm kiểm tra khả năng ứng dụng
thực tiễn và tính khả thi của những vấn đề đưa ra trong khóa luận.
Phương pháp thực nghiệm thể hiện ở cách thức tiến hành thực nghiệm. Vì
vậy, nếu biết vận dụng phương pháp này một cách tối ưu thì sẽ thu được kết quả
thực nghiệm tốt. Kết quả này lại là cơ sở thực tế củng cố cho những đề xuất ở
chương 2. Có thể nói rằng: Thực nghiệm vừa là phương pháp thức cứu vừa là
nội dung không thể thiếu trong khóa luận.
5. Giới hạn của đề tài

Với đề tài : "Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học luyện từ và câu cho
học sinh lớp 5". Phạm vi nghiên cứu của khóa luận giới hạn trong việc dạy học
các bài về luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.
6. Giả thuyết khoa học
Chất lượng dạy học LTVC ở trường tiểu học Thị Trấn Thuận Châu còn
gặp nhiều khó khăn, nếu các phương án đề suất được thông qua thì sẽ góp phần
tháo gỡ những khó khăn hiện nay.
Chất lượng dạy học LTVC, kĩ năng của học sinh sẽ được nâng cao.
7. Đóng góp mới của đề tài
Góp phần giúp giáo viên nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn về vai trò của
BĐTD trong dạy học LTVC ở lớp 5.
Đề xuất các bước ứng dụng bản đồ tư duy vào trong dạy học LTVC ở lớp 5.



8
8. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận của chúng tôi gồm 3 phần với những nội dung sau đây:
Phần mở đầu: Phần này trình bày những vấn đề chung bao gồm:
- Lí do chọn đề tài
- Lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp nghiên cứu
- Giới hạn nghiên cứu của đề tài
- Giả thuyết khoa học
- Đóng góp mới của đề tài
Phần nội dung: Gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.
Ở chương này, chúng tôi tập chung đi sâu vào tìm hiểu lí thuyết về
BĐTD, cách tạo lập sử dụng BĐTD, những đổi mới về phương pháp dạy học và

đặc điểm nhận thức của học sinh. Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát tình hình sử
dụng BĐTD trong dạy học LTVC ở lớp 5 hiện nay.
Chương 2: Thiết kế và sử dụng BĐTD trong dạy học LTVC ở lớp 5.
Đây là chương thể hiện cụ thể rõ nhất sự đóng góp của khóa luận vào việc
đổi mới phương pháp dạy học. Trong chương này chúng tôi đi vào tìm hiểu việc
thiết kế và sử dụng BĐTD trong việc dạy học LTVC ở lớp 5.
Chương 3: Thực nghiệm
Ở chương này chúng tôi tập chung mô tả quá trình tiến hành thực nghiệm
từ đối tượng, nội dung, phương pháp Cho đến kết quả và việc xử lí kết quả
thực nghiệm để có được những kết luận cần thiết về nội dung nghiện cứu và qua
đó bước đầu đánh giá được tính khả thi của những vấn đề nêu trong khóa luận.

9
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƢ DUY TRONG DẠY HỌC
LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 5

1. Cơ sở lí luận
1.1 Một số vấn đề liên quan đến bản đồ tƣ duy
BĐTD còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy Là hệ thống ghi chép
nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một
mạch kiến thức Bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường
nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về BĐTD, các quan điểm này
tùy thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi người về nó.
Trong cuốn Lập bản đồ tư duy Tony Buzan cho rằng: BĐTD là phương
pháp dễ nhất để truyền tải thông tin vào bộ não của bạn và đưa thông tin ra
ngoài bộ não. Nó là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo
đúng nghĩa của nó.

Trong cuốn Sử dụng trí tuệ của bạn do Lê Huy Lâm dịch đã định nghĩa:
BĐTD là phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não.
Đây là cách ghi nhớ chi tiết, tổng hợp hay để phân tích vấn đề thành một dạng
của lược đồ phân nhánh.
Trong cuốn Sơ đồ tư duy cho trẻ em do Thanh Huyền biên dịch quan
niệm rằng: BĐTD là một công cụ tổ chức tư duy, là một phương tiện ghi chép
hiệu quả thể hiện sự " Sắp xếp " ý nghĩ của bạn.
Bên cạnh đó, trên một số trang Wed cũng đưa ra một số quan niệm về
BĐTD: Theo nguồn tin từ Bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia, BĐTD
(Mindmap) là phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận
dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách ghi nhớ chi tiết, tổng
hợp, phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với
máy tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo một trình tự nhất
định chẳng hạn như trình tự xuất hiện của một câu chuyện) thì não bộ có khả

10
năng liên lạc, liên hệ các dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai
khả năng của bộ não.
BĐTD là một công cụ tư duy nền tảng, BĐTD được hiểu như là một hình
thức ghi chép theo mạch tư duy của mỗi người bằng việc kết hợp nét vẽ, màu
sắc và chữ viết. Đặc biệt đây là một sơ đồ tư duy mở, việc thiết kế BĐTD theo
mạch tư duy của mỗi người (theo báo GD & ĐT).
Đây là một hình thức ghi chép sử dụng nhiều màu sắc, hình ảnh để lập kế
hoạch hay giải quyết một vấn đề nào đấy. Với BĐTD thì chúng ta có thể có một
cái nhìn tổng thể và đầy đủ về các kế hoạch, dự án, đồng thời phát huy tối đa sức
mạnh trí tuệ để giải quyết vấn đề một cách sáng tạo.
Có một quan niệm đơn giản hóa BĐTD bằng công thức sau:
Ghi nhớ tốt + Từ khóa + Não trái, phải = BĐTD



Bản đồ tƣ duy của bộ não

Tuy có rất nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng tất cả các quan niệm này
đều hướng tới một kết luận chung BĐTD là công cụ tổ chức tư duy, giúp con
người làm việc khoa học, sáng tạo.
Như vậy BĐTD là kĩ thuật dạy học nhằm tổ chức và phát triển tư duy,
giúp người học truyền tải thông tin vào bộ não một cách dễ dàng, đồng thời là
phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và hiệu quả:

11
+ Ghi chép một cách logic, mạch lạc
+ Trực quan, dễ nhìn, dễ hiểu, dễ nhớ do nó được thể hiện bởi màu sắc,
liên kết, liên hệ giữa các ý của vấn đề.
+ Nhìn thấy " bức tranh " tổng thể mà lại chi tiết
+ Dễ dạy, dễ học, dễ nhớ
+ Kích thích hứng thú học tập của học sinh
+ Giúp mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức
+ Giúp hệ thống hóa kiến thức
+ Giúp ôn tập kiến thức
+ Giúp ghi nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu kiến thức
1.2 Sự cần thiết của bản đồ tƣ duy đối với việc dạy học luyện từ và câu ở
tiểu học
Trong chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học, LTVC được tách ra thành
một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với các phân môn khác như Tập
đọc, Chính tả, Tập làm văn… Ngoài ra LTVC còn được đặt trong các phân môn
khác thuộc môn Tiếng Việt và các môn học khác như tự nhiên xã hội, âm
nhạc…Như vậy nội dung dạy về LTVC trong chương trình môn Tiếng Việt nói
riêng và các môn học khác ở Tiểu học nói chung, chiếm một tỉ lệ đáng kể. Điều
này cho thấy ý nghĩa quan trọng của việc dạy LTVC ở Tiểu học.
Nói đến dạy LTVC ở Tiểu học người ta thường nói tới 3 nhiệm vụ chủ yếu

là giúp HS phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích cực hoá vốn
từ. Phong phú hoá vốn từ còn gọi là mở rộng vốn từ (MRVT), phát triển vốn từ
nghĩa là xây dựng một vốn từ ngữ phong phú, thường trực và có hệ thống trong
trí nhớ HS, để tạo điều kiện cho từ đi vào hoạt động ngôn ngữ (nghe - đọc, nói -
viết) được thuận lợi. Chính xác hoá vốn từ là giúp HS hiểu nghĩa của từ một
cách chính xác - nhất là đối với những từ ngữ mà HS thu nhận được qua cách
học tự nhiên, đồng thời giúp HS nắm được nghĩa của những từ ngữ mới. Tích
cực hoá vốn từ là giúp HS luyện tập, sử dụng từ ngữ trong nói - viết, nghĩa là
giúp HS chuyển hoá những từ ngữ tiêu cực (từ ngữ mà chủ thể hiểu nhưng

12
không hoặc ít dùng) thành những từ ngữ tích cực (từ ngữ được chủ thể sử dụng
trong nói - viết) phát triển kỹ năng, kỹ xảo, phát triển từ ngữ cho HS.
Trong 3 nhiệm vụ cơ bản nói trên, nhiệm vụ phong phú hoá vốn từ, phát
triển, MRVT được coi là trọng tâm. Bởi vì, đối với HS tiểu học, từ ngữ được
cung cấp trong phân môn LTVC sẽ giúp các em hiểu được các phát ngôn khi
nghe - đọc.
Ngoài ra, ở một chừng mực nào đó, phân môn LTVC ở Tiểu học còn có
nhiệm vụ cung cấp cho HS một số khái niệm có tính chất sơ giản ban đầu về cấu
tạo từ và nghĩa của từ Tiếng Việt (như các khái niệm từ đồng nghĩa, từ trái
nghĩa, từ đồng âm, nghĩa của từ, ). Những kiến thức có tính chất lý thuyết về
từ này có tác dụng làm cơ sở, làm chỗ dựa cho việc thực hành luyện tập về từ
ngữ của HS.
Với việc lập BĐTD, HS không chỉ là tiếp nhận thông tin mà còn cần phải
suy nghĩ về các thông tin đó, giải thích nó và kết nối nó với cách hiểu biết của
mình. Và điều quan trọng hơn là HS học được một quá trình tổ chức thông tin,
tổ chức các ý tưởng.
Sử dụng BĐTD đối với việc dạy học LTVC ở Tiểu học sẽ mang lại hiệu
quả cao, phát huy tính tích cực của HS. BĐTD phù hợp với tâm lý HS, đơn giản,
dễ hiểu thay cho việc ghi nhớ lý thuyết bằng ghi nhớ dưới dạng bản đồ hóa kiến

thức. Nhờ BĐTD, HS sẽ hiểu sâu bản chất của vấn đề và phát triển tư duy logic,
khả năng phân tích tổng hợp, giúp HS hiểu bài, nhớ lâu, thay cho việc ghi nhớ
dưới dạng thuộc lòng, học vẹt.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ
lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của
mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy động
tối đa tiềm năng của bộ não. Việc HS tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa
tính sáng tạo của HS, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của HS, các em tự
do chọn lựa những màu sắc yêu thích (xanh, đỏ, tím, vàng, …), những đường
nét (thẳng, cong, đậm, nhạt, …). Mỗi tác phẩm BĐTD mà HS vẽ được thể hiện

13
rõ cách hiểu, cách trình bày của từng HS và qua đó HS sẽ biết yêu quý và trân
trọng tác phẩm do mình làm ra.
Sử dụng BĐTD đối với việc dạy học LTVC ở Tiểu học còn có tác dụng là
dạy cho HS phương pháp tự học một cách khoa học ngay từ bậc tiểu học, giúp
HS biết cách ghi chép có hiệu quả và nắm vững ý chính khi đọc tài liệu tham
khảo, biết hệ thống hóa các bài học cụ thể, tự ôn tập các chủ điểm hay tổng kết
vốn từ của mình theo một hệ thống logic.
Với việc lập BĐTD, HS không chỉ tiếp nhận thông tin mà còn phải suy
nghĩ về các thông tin đó, giải thích và kết nối nó bằng cách hiểu biết của mình.
Với cách thể hiện gần như là cơ chế hoạt động của bộ não, BĐTD rất phù
hợp với nhận thức và tâm lý HS, BĐTD sẽ giúp HS:
- Tự tin, sáng tạo hơn.
- Tiết kiệm thời gian.
- Học có hiệu quả hơn, bài học sinh động hơn.
- Trao đổi thông tin và ghi nhớ tốt hơn. Quan hệ giữa HS tốt hơn .
- Nhìn thấy bức tranh tổng thể, tổ chức và phân loại.
- Hoạt động học tập phong phú hơn, HS hoạt động nhiều hơn .
- Động não về một vấn đề phức tạp…

- Trẻ vui học, học vui.
- GV có nhiều cơ hội giúp đỡ HS hơn và phát triển được tính độc lập, sáng
tạo của HS .
Như vậy sử dụng BĐTD trong dạy học đã phát huy được tính sáng tạo, tối
đa hoá khả năng của mỗi cá nhân đồng thời kết hợp sức mạnh cá nhân thành sức
mạnh tập thể để có thể giải quyết được các vấn đề một cách hiệu quả. BĐTD tạo
cho mỗi cá nhân cơ hội được giao lưu học hỏi và phát triển chính mình một cách
hoàn thiện hơn.
Để cho việc sử dụng BĐTD trong dạy học đạt hiệu quả thiết thực, GV cần
có kế hoạch:
- Đối với HS trung bình: Tập cho HS có thói quen tự ghi chép, tổng kết một
vấn đề, một chủ đề đã đọc, đã học theo cách hiểu của các em dưới dạng BĐTD.

14

- Cho HS tập “đọc hiểu” và tự vẽ BĐTD sau từng bài học. Ban đầu, GV cho
các em làm quen với một số BĐTD có sẵn, sau đó tập cho các em vẽ bằng cách cho
từ khóa (key words) – tên chủ đề hoặc một hình ảnh, hình vẽ của chủ đề chính vào
vị trí trung tâm rồi đặt ra các câu hỏi gợi ý để các em tiếp tục vẽ ra các nhánh cấp 1,
cấp 2, cấp 3… Hướng dẫn, gợi ý để các em tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến
thức cần nhớ của mỗi bài học vào một trang giấy. Có thể vẽ chung trên một cuốn
vở hoặc để thành các trang giấy rời, rồi kẹp thành một tập. Mỗi bài học được vẽ
giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần, chỉ cần rút tờ BĐTD của bài đó ra
là các em nhanh chóng ôn lại kiến thức một cách dễ dàng.
- Với cách làm này, GV sẽ rèn luyện cho bộ óc các em hướng dần tới cách
suy nghĩ lôgic, mạch lạc và cũng là cách giúp các em hiểu bài, ghi nhớ kiến
thức vào não chứ không phải là học thuộc lòng, học vẹt.
- Đối với HS khá giỏi: Sử dụng BĐTD để tìm hiểu cách giải quyết một vấn
đề, hay tìm nhiều hướng giải của một bài toán, hệ thống hóa kiến thức … Việc
vẽ ra BĐTD theo nhóm nên thực hiện trước khi nghiên cứu tài liệu mới, kiến

thức mới để cả nhóm tìm cách giải quyết vấn đề hoặc cũng có thể thực hiện để
hệ thống hóa kiến thức một chủ đề, một chương. Sau khi mỗi nhóm “vẽ” xong,
đại diện mỗi nhóm hoặc một số thành viên trong mỗi nhóm “thuyết trình”
BĐTD cho cả lớp nghe để thảo luận, góp ý, bổ sung (nếu cần thiết).
Ngoài việc vẽ BĐTD trong học tập, nên tập cho các em có thói quen sử
dụng BĐTD tự ghi tóm nội dung chính của sách dưới dạng BĐTD khi các em
đọc sách. Hoặc gợi ý cho các em lập kế hoạch học tập, vạch kế hoạch cho bản
thân để biến ước mơ thành hiện thực trong tương lai, các kế hoạch này có thể bổ
sung dần dần theo năm tháng bằng cách vẽ thêm nhánh khi mỗi người có sự điều
chỉnh kế hoạch. Khuyến khích HS ôn luyện bài, học bài ở nhà, ở lớp hoạt động
nhóm bằng BĐTD.




15
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Nội dung, chƣơng trình phân môn luyện từ và câu lớp 5
 Nội dung dạy LTVC trong sách TV 5
Nội dung
Số tiết dạy
Học kì I
Học kì II
Cả năm
- Mở rộng và hệ thống hóa vốn từ
-Nghĩa của từ (từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa,
từ đồng âm, từ nhiều nghĩa)
- Từ loại (đại từ, quan hệ từ).
- Câu ghép.
- Văn bản (liên kết câu).

- Ôn tập (về từ loại, cấu tạo từ, câu đơn,
dấu câu, tổng kết vốn từ).
Tổng số
12

11
5


4

32
10



8
4
8

30
22

11
5
8
4
12

62


 Yêu cầu kiến thức, kỹ năng của phân môn LTVC lớp 5
 Yêu cầu kiến thức
a. Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ:
Từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá trong phân môn LTVC ở lớp 5 bao
gồm các từ thuần Việt, Hán Việt, các thành ngữ và tục ngữ phù hợp với chủ
điểm học tập của từng đơn vị học.
b. Trang bị các kiến thức sơ giản về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và văn
bản; Rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu, liên kết câu và sử dụng dấu câu
* Ngữ âm
+ Các bộ phận của vần.
+ Cách đánh dấu thanh trên phần vần.
* Từ và nghĩa của từ
+ Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ theo chủ điểm.
+ Nghĩa của từ: Từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
+ Từ loại: - Đại từ.

16
- Quan hệ từ.
+ Câu: - Câu ghép là gì?
- Cách nối các vế của câu ghép: nối trực tiếp, nối bằng quan hệ từ, cặp
quan hệ từ và cặp từ hô ứng.
* Văn bản
+ Liên kết các câu trong bài bằng cách: Lập từ ngữ, thay thế từ ngữ, từ nối.
* Tổng kết vốn từ ở Tiểu học
* Ôn tập: - về cấu tạo từ, về từ loại, về câu và về dấu câu.
 Yêu cầu kỹ năng:
- Về ngữ âm và chữ viết:
+ Nhận biết cấu tạo của vần: âm đệm, âm chính, âm cuối. Biết quy tắc ghi
dấu thanh trên âm chính.

+ Biết viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam và nước ngoài.
- Về từ vựng:
+ Biết thêm các từ ngữ (gồm cả thành ngữ, tục ngữ và một số từ Hán Việt
thông dụng) về tự nhiên, xã hội, lao động sản xuất, bảo vệ Tổ quốc
+ Hiểu thế nào là từ nhiều nghĩa, nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa.
+ Bước đầu nhận biết và có khả năng lựa chọn từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa
trong nói và viết.
- Về ngữ pháp:
+ Nhận biết và có khả năng sử dụng các đại từ, quan hệ phổ biến.
+ Nhận biết và có khả năng tạo lập câu ghép trong nói và viết.
+ Biết dùng dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu
chấm phẩy, dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang.
- Phong cách ngôn ngữ và biện pháp tu từ:
+ Nhận biết và bước đầu cảm nhận được cái hay của những câu văn có sử
dụng biện pháp so sánh, nhân hóa trong các bài học.
+ Biết dùng các biện pháp nhân hóa và so sánh để nói và viết được câu
văn hay.


17
2.2 Đặc điểm nhận thức của HS lớp 5 với việc sử dụng BĐTD
2.2.1 Đặc điểm của quá trình nhận thức
Vấn đề đặc điểm lứa tuổi trẻ em ngày nay đang được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu và đặc biệt chú trọng đến sự phát triển. Sự phát triển là
thuật ngữ để chỉ sự phát triển nhanh về sinh lý, về tâm lý của trẻ em.
Sự phát triển sớm về trí tuệ, sự phát triển về tri thức ở trẻ em ngày nay có
thể xem như là sự phát triển tâm lý của trẻ em. Mặt khác, sự nhận thức của trẻ
em ngày nay cũng được mở rộng, năng khiếu, nhu cầu, hứng thú, thị hiếu thẩm
mĩ, trở nên phong phú và đa dạng hơn. Trẻ em ngày nay còn được tiếp nhận
những lượng thông tin nhờ sự tăng dần đáng kể của các phương tiện thông tin

đại chúng,
Với những đặc điểm này, việc giáo dục trẻ em cũng dễ hơn và cũng khó
hơn trước. Dễ hơn là vì trẻ tiếp thu nhanh, có khả năng và điều kiện để vận dụng
những điều đã học. Khó hơn là vì tầm suy nghĩ của chúng rộng hơn, những vấn
đề chúng đặt ra phong phú và phức tạp hơn.
HS lớp 5 là những trẻ ở độ tuổi 9 đến 10 tuổi. Theo nghiên cứu của các nhà
tâm lý học, ở lứa tuổi này các em có những thay đổi rõ rệt về nhận thức. Nhìn
chung thì nhận thức của các em ở giai đoạn này vẫn là nhận thức cảm tính. Tư
duy của các em vẫn mang tính cụ thể, hình tượng. Việc dạy kiến thức cho HS
lớp 5 vẫn cần thiết sử dụng đồ dùng trực quan như tranh ảnh, vật thật, phim,
để các em có thể nhanh chóng nắm bắt được kiến thức cần thiết. Nhưng để hình
thành và phát triển năng lực tư duy trừu tượng cho HS thì cần tiến hành theo
nhiều mức độ khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. GV cần
hướng dẫn cho HS cách tiếp cận để có thể nhanh chóng tìm ra những định nghĩa
khái quát, trừu tượng đúng với cái mà từ ngữ cần biểu đạt. Nghĩa là GV phải để
HS tự thực hiện các thao tác tư duy như: phân tích, so sánh, cụ thể hóa, trừu
tượng hóa, khái quát hóa, Đây chính là các thao tác để HS đi vào suy nghĩ,
hình thành tư duy trừu tượng.



18
a. Nhận thức cảm tính
- Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác
đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện.
- Tri giác: Tri giác của HS tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và
mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành
động trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ
thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ
đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng - Tri giác có chủ định (trẻ

biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ
đến khó, )
Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới,
mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích
trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.
b. Nhận thức lý tính
* Tƣ duy
- Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan
hành động.
- Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng
khái quát
- Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 5 bắt đầu biết
khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ
đẳng ở phần đông HS tiểu học.
* Tƣởng tƣợng
- Tưởng tượng của HS tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm
non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên,
tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:
Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững
và dễ thay đổi.
Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những
hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương

19
đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm
thơ, làm văn, vẽ tranh, Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này
bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện
tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em.
Qua đây, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các
em bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có cảm xúc,

đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt
động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình nhận thức
lý tính của mình một cách toàn diện.
* Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Hầu hết HS tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu
xuất hiện ngôn ngữ viết và đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu
hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà
trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá
bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm
tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng
tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ
nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể
đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải
trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú
của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện
tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng, đồng thời cũng có thể kể cho trẻ nghe
hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách
viết nhật kí, Tất cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn ngữ phong phú
và đa dạng.
* Chú ý và sự phát triển nhận thức của HS tiểu học
Giai đoạn cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh
chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự

20
nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công
thức toán hay một bài hát dài, Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới
hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để
làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian

quy định.
Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những công việc hay
bài tập đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng
linh động theo từng độ tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đến tính cá thể
của trẻ, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo
dục trẻ.
* Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của HS tiểu học
Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic
Giai đoạn lớp 5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường.
Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ
định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của
các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú
của các em
Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát
hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng
cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ
hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú
và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.
* Ý chí và sự phát triển nhận thức của HS tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu
cầu của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen,
quét nhà để được ông cho tiền, ) Nhưng đến cuối tuổi tiểu học các em đã có
khả năng biến yêu cầu của người lớn thành mục đích hành động của mình, tuy
vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa thể trở thành nét tính cách của các
em. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào hứng thú nhất thời.

21
Để bồi dưỡng năng lực ý chí cho HS tiểu học đòi hỏi ở nhà giáo dục sự
kiên trì bền bỉ trong công tác giáo dục, muốn vậy thì trước hết mỗi bậc cha mẹ,
thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ.

Nói tóm lại, đây là bước ngoặc lớn của trẻ thơ. Môi trường thay đổi - Đòi
hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 - 35 phút. Chuyển từ hiếu kỳ,
tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu kiềm chế dần tính
hiếu động, bộc phát để chuyển thành tính kỷ luật, nề nếp, chấp hành nội quy học
tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao tác tinh khéo của đôi
bàn tay để tập viết, Tất cả đều là thử thách của trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt
những điều này thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và
xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.
2.2.2 Hứng thú học tập của HS khi sử dụng BĐTD
Hứng thú học tập của HS khi sử dụng BĐTD phụ thuộc vào các yếu tố:
Bản thân HS, GV, cơ sở vật chất Dạy học có sử dụng BĐTD sẽ làm cho giờ
học trở nên sinh động, thu hút được sự chú ý của HS vì đây là hình thức học tập
có tính mới la
̣
lại dễ thực hiện nên được các em tiếp nhận nhanh chóng . Giờ học
trở nên sôi nổi, các em được sáng tạo, được phát huy kỹ năng hội họa, trí tưởng
tượng khiến cho các em có hứng thú học và chờ đợi tới giờ để học. Nhờ thích
thú, có hứng thú học nên HS phát huy được tính tích cực của mình, các em hăng
hái tham gia giải quyết các vấn đề đặt ra trong quá trình học, tạo ra hiệu quả học
tập cao. Ứng dụng BĐTD vào dạy học sẽ tạo cho HS cảm thấy thoải mái trong
giờ học, giảm bớt gánh nặng lo ngại học bài (học vẹt), giảm áp lực về học tập
cho HS. Bước đầu được vẽ BĐTD theo ý mình, các em cảm thấy mới mẻ, thích
thú và làm tăng hứng thú học tập. Với những hình ảnh sinh động, hấp dẫn được
thiết kế theo trí tưởng tượng của mình sẽ tạo cho HS sự say mê, yêu thích môn
học, kích thích được sự sáng tạo của HS.
Trong quá trình dạy học bằng BĐTD, GV thiết kế trò chơi (thi đua vẽ
BĐTD nhanh nhất, đẹp nhất) lồng vào tiết học giúp HS vừa học vừa chơi, tiếp
thu kiến thức dễ dàng, nhanh chóng, mang lại kết quả học tập tốt hơn và HS
cũng thích thú hơn. Ngoài ra, với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học thì

×