Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Nghiên cứu sinh trưởng rừng trồng Luồng (Dendrocalamuss membranaceus Munro) thuần loài theo các phương thức canh tác khác nhau tại huyện Lang Chánh – Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.87 KB, 43 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
1
Rừng là một loại đệm đặc biệt có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ,
duy trì hệ sinh thái toàn cầu, những chức năng sinh thái quan trọng nhất của
rừng là điều hòa khí hậu, giữ và điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất. Rừng và tài
nguyên rừng từ xa xưa đã gắn bó chặt chẽ với đời sống con người. Nhân dân
Việt Nam ta từ các thế hệ trước đã bảo vệ và sử dụng tài nguyên rừng để đảm
bảo cho nhu cầu mưu sinh của mình về lương thực, thực phẩm, thuốc men, gỗ
làm nhà và củi đốt….
2
Một trong những loài cây ưa sáng, mọc nhanh được gây trồng phổ biến ở
nước ta là cây luồng (Dendrocalamuss membranaceus Munro) thuộc họ hòa
thảo (Poaceae), họ phụ tre nứa (Bambusoideae). Đây là loài cây ưa ẩm, ưa sáng
mọc nhanh, có nhiều công dụng đối với đời sống con người. Mặt khác chu kỳ
kinh doanh ngắn, có thể khai thác cho sản phẩm hàng năm, là loài cây đa tác
dụng và hiện nay được gây trồng rộng rãi, có giá trị kinh tế cao.
Luồng được phân bố khá rộng ở Việt Nam nhưng tỏ ra rất phù hợp với
điều kiện lập địa tại tỉnh Thanh Hóa, là nơi có diện tích rừng Luồng lớn nhất cả
nước Việt Nam với trên 70.000 ha rừng Luồng các loại, có thể nói nơi đây là
một “xứ Luồng”. Người dân nơi đây gọi cây Luồng là “Cây xóa đói giảm
nghèo”, Lang Chánh là một trong những huyện điển hình có diện tích lớn đất
trồng Luồng của tỉnh, nơi đây được mệnh danh là “vua Luồng xứ Thanh”. Mặc
dù có tiềm năng, lợi thế diện tích lớn rừng Luồng. Tuy nhiên năng suất và chất
lượng rừng Luồng còn rất thấp, hiện nay đang trên đà suy thoái, giảm cả về
chất và lượng, do chưa chú trọng các biện pháp kỹ thuật canh tác, hiện tại vẫn
chưa tìm ra phương thức canh tác nào là phù hợp và cho năng suất cao, [Lê
Nam, Ngọc Chi, 2010].
Xuất phát từ thực tế trên thì việc tìm ra phương thức canh tác phù hợp
nhằm làm tăng năng suất, chất lượng rừng Luồng là vấn đề cấp thiết để hướng
tới mục đích kinh doanh và lợi dụng rừng Luồng một cách lâu dài, bền vững và
ổn định. Đề tài: “Nghiên cứu sinh trưởng rừng trồng Luồng (Dendrocalamuss


membranaceus Munro) thuần loài theo các phương thức canh tác khác nhau
tại huyện Lang Chánh – Thanh Hóa” được thực hiện nhằm góp phần giải quyết
nhu cầu thực tế trên.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Tre trúc là một nguồn lâm sản ngoài gỗ chiếm một vị trí quan trọng
trong tài nguyên rừng ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt các nước vùng phía
Nam và Đông Nam Á. Ở các nước này người dân đã biết sử dụng tre trúc từ lâu
đời để tạo ra hàng trăm sản phẩm cho đời sống hàng ngày. Nhiều loài tre trúc
là nguồn nguyên liệu quan trọng cho ngành thủ công mỹ nghệ, công nghiệp chế
biến nông lâm sản, công nghiệp giấy sợi, công nghiệp chế biến ván nhân tạo.
Tre trúc cũng là vật liệu trong xây dựng kiến trúc, giao thông vận tải…Một số
loài tre trúc cho măng ăn ngon đã trở thành đối tượng cung cấp thực phẩm có
giá trị.
Chính vì vị trí quan trọng của nguồn tài nguyên này nên tre trúc là đối
tượng được các nhà khoa học nghiên cứu từ rất lâu về nhiều mặt như: Chọn
giống, gây trồng, khai thác, sử dụng. Gần đây có nhiều nghiên cứu nhằm phát
triển gây trồng một số loài tre trúc theo mô hình rừng công nghiệp thâm canh
với năng suất, chất lượng cao, hướng theo muc đích sử dụng nhất định.
Từ đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều nghiên cứu tre trúc về các mặt như:
lâm học, tái sinh, khai thác…Như công trình nghiên cứu của I.J.Haig,
M.A.Huberman, U.Aung.Dig với tên “Rừng tre nứa” được FAO (Food and
Agriculture Organization) xuất bản năm 1959, công trình đã cung cấp rất nhiều
thông tin về tre nứa tuy nhiên công trình này chỉ công bố về các thuộc tính tự
nhiên của chúng.
Năm 1960 giáo sư Koichiro Ueda xuất bản cuốn “Sinh lý tre trúc”. Theo
giáo sư người Nhật Bản này thì trên thế giới có khoảng 1250 loài thuộc 47
giống họ Bambusaceae, trong đó Châu Á có 37 chi, Châu Mỹ có 10 chi, Châu

phi có 10 chi. Tác giả củng cho biết Đông Nam Á là vùng trung tâm phân bố
của tre trúc.
4
Một trong những trung tâm nghiên cứu về tre trúc điển hình trên thế giới
là trường đại học Kyoto Nhật Bản. các mẫu đưa vào nghiên cứa ở đây được thu
thập từ khắp nơi trên lãnh thổ Nhật Bản. Nội dung nghiên cứu chủ yếu là đặc
điểm sinh thái, sinh lý và cách thức nhân giống của các loài tre trúc. Ngoài ra
trung tâm còn có những công trình nghiên cứu vượt qua lãnh thổ quốc gia, điển
hình là tiến sĩ Koichiro, ông đã nghiên cứu các đặc điểm sinh lý, sinh thái các
loài tre trúc ở Ấn Độ và các vùng lân cận, công trình nghiên cứu của tiến sĩ
Kyamashta, Yinamori về mặt di truyền tế bào học của tre trúc.
Những nghiên cứu đầu tiên về tre trúc là nghiên cứu về mặt phân loại,
hình thái và sinh thái học. Munro (1868) có công trình “Nghiên cứu về
Bambusaceae” được coi là công trình nghiên cứu về tre trúc đầu tiên, trong đó
đã khái quát được một cách tổng quát về họ phụ tre trúc.
Năm 1994, tổ chức PROSEA (Plant Resourcer of South - East Asia)
đưa ra công trình nghiên cứu “Tre nứa khu vực Đông Nam Á” tại Indonesia.
Trong công trình nghiên cứu tác giả đã đặt ra đặc điểm sinh thái học, phân bố,
gây trồng, khai thác và sử dụng các loài tre nứa trong khu vực và một số loài
của Việt Nam. Tuy nhiên, công trình vẫn chưa nghiên cứu hết các loài có
trong khu vực cũng như ở Việt Nam.
Công trình “Các loài tre trúc” của Gamble (1896) đã đề cập tương đối
chi tiết về phân bố, hình thái và một số đặc điểm sinh thái của 151 loài tre trúc
có ở các nước Ấn Độ, Pakistan, Mianma, Malayxia và Indonexia.
Công trình “Bamboo rediscovered” của Victor Cusack (1997) đề cập đến
biện pháp bón phân làm cho nhiều loài tre trúc phát triển tốt, măng to, nhưng
phải bón một cách hợp lý tùy thuộc vào loài nhất định.
5
Tại Ấn Độ: Nghiên cứu của Dr.Dn.Tewari (1997) đã nghiên cứu về
phân bố và cách nhận biết của các loài tre trúc, tác giả đã chỉ ra được giá trị sử

dụng hiện tại, chiến lược và dự kiến các chương trình nghiên cứu, đưa ra đánh
giá tài nguyên tre trúc cho từng nước về số lượng loài và tiềm năng phát triển.
Một số tác giả trong nghiên cứu về tác động của chính sách và bài học kinh
nghiệm trong phát triển kinh tế xã hội từ Tre và Mây.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở việt Nam
Tre trúc và những sản phẩm của nó đã gắn bó và gần gũi với người dân
Việt Nam từ bao đời nay trên tất cả các mặt của đời sống vật chất, văn hóa và
tinh thần, trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, gậy tầm vông đã cùng
nhân dân ta đuổi đánh quân xâm lược. Hòa bình lập lại, tre trúc lại cùng
chúng ta bước vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội.
Giá trị của tre trúc thật phong phú và đa dạng, không chỉ trong phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội mà còn có ý nghĩa cao trong việc cải thiện bảo vệ môi
trường sinh thái. Vì vậy, hình ảnh tre trúc đã trở thành những ấn tượng tốt đẹp
và ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam.
Các vấn đề về quản lý và kinh doanh tre trúc cũng ngày càng thu hút
được sự quan tâm hơn của các nhà nghiên cứu trong nước. Tuy nhiên việc
nghiên cứu tre trúc ở Việt Nam mới chỉ được bắt đầu từ những năm đầu của
thập niên 60, một số công trình nghiên cứu và những kết quả có thể kể đến là:
Năm 1964 Nguyễn Ngọc Bình mở đường cho nghiên cứu về đất trồng
Luồng qua công trình “Bước đầu nghiên cứu đặc điểm đất trồng Luồng”.
Năm 1967, Nguyễn Thị Phi Anh đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu trồng
Diễn ở Cầu Hai - Phú Thọ”
Năm 1972, Lê Nguyễn và các cộng sự đưa ra công trình nghiên cứu
“Nhận biết, gây trồng, bảo vệ và khai thác tre trúc”
6
Phạm Bá Minh (1972) đã “nghiên cứu nhân giống cây Luồng bằng
phương pháp ươm cành trong bầu dinh dưỡng”. Công trình này đã nêu rất kỹ
phương pháp, kỹ thuật gây trồng Luồng trong bầu dinh dưỡng và phương
pháp để cây giống có chất lượng tốt.
Trần Nguyễn Giảng (1961- 1967) đã nghiên cứu về kỹ thuật trồng và

kinh doanh rừng trồng luồng. Trịnh Đức Trình và Nguyễn Thị Hạnh (1986 –
1990) có công trình “Thâm canh rừng luồng lấy măng xuất khẩu”. Ngoài ra
còn có một số nghiên cứu về nhân giống luồng của các tác giả như Trịnh Đức
Trình (1972); Pham Bá Minh (1972); Phạm Quang Liên (1999)….
Năm 1994 Ngô Quang Đê đã nghiên cứu và đưa ra cuốn “Gây trồng tre
trúc”, tác giả đã giới thiệu tóm tắt về đặc điểm sinh vật học, kỹ thuật gây
trồng, chăm sóc và sử dụng tre trúc nói chung. Ngoài ra tác giả cũng đã giới
thiệu kỹ thuật gây trồng của một số loài cụ thể đang được quan tâm hiện nay
như: Luồng, Mây Sang, Vầu Đắng.
Nghiên cứu về phân bố, trữ lượng, số loài và tình hình sinh trưởng của
các loài tre trúc ở Việt Nam được thực hiện qua công tác điều tra quy hoạch
rừng của Viện điều tra quy hoạch rừng (1995 – 1998), đã cho thấy sự phong
phú và đa dạng về tổ thành các loài tre trúc, khả năng sinh trưởng nhanh và
vùng phân bố rộng rãi tre trúc ở nước ta. Các tác giả Nguyễn Đình Hưng,
Nguyễn Tử Ưởng, Nguyễn Hoàng Nghĩa, Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Tử Kim
(2000) qua công trình “Tài nguyên tre trúc ở Việt Nam” đã nghiên cứu về
sinh thái, trữ lượng, diện tích rừng tre trúc của Việt Nam, tác động của khai
thác và đặc điểm cấu trúc rừng tre trúc, nguồn gen và thành phần loài, đặc
điểm sinh trưởng, thực trạng của tre trúc, nguy cơ bị tàn phá. Nghiên cứu
cũng đã nêu ra được các phương pháp bảo tồn như, bảo tồn tại chỗ và bảo tồn
ngoại vi, phát triển trồng rừng tre trúc.
7
Công trình nghiên cứu về Luồng theo phương thức hỗn giao với các
loài cây lá rộng tại Phú Thọ (Nguyễn Trường Thành, 2001) cho thấy: Việc
trồng rừng Luồng thuần loài trên đất đồi đã xuống cấp dẫn đến sự kém bền
vững về mặt sinh thái cũng như năng suất. Luồng trồng hỗn giao với cây lá
rộng như Lim, Sồi Phảng hoặc Keo lá to có sinh trưởng về đường kính, chiều
cao và chất lượng cao hơn trồng thuần loài. Các loài cây lá rộng có ý nghĩa
tích cực trong cải thiện tính chất lý hóa của đất dưới tán rừng Luồng.
Công trình nghiên cứu về trồng Luồng hỗn giao với keo tai tượng và

trồng Luồng dưới tán rừng thứ sinh nghèo kiệt cho thấy Luồng trồng hỗn giao
với Keo tai tượng và dưới tán rừng thứ sinh nghèo kiệt với độ tàn che của cây
thân gỗ từ 0,3 – 0,5 cho chất lượng, sản lượng cao hơn so với rừng trồng
thuần loài, đất được bảo vệ tốt hơn, tính đa dạng sinh học của rừng cao hơn
(Lê Xuân Trường, 2002).
8
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Đạo (2003) trong đề tài tốt nghiệp về thực
trạng quản lý rừng Luồng tại huyện Ngọc Lặc đã cho thấy những diện tích
rừng Luồng được quản lý tốt, thực hiện các biên pháp thâm canh như bón
phân, làm cỏ, xới đất, vệ sinh rừng tốt thì có năng suất và chất lượng sản
phẩm cao hơn rõ rệt so với các lâm phần rừng quảng canh. Tình trạng đất
rừng, thảm thực vật rừng cũng được cải thiện hơn
Nghiên cứu của Phạm Thị Quyên (2003) trong đề tài tốt nghiệp, về ảnh
hưởng của một số công thức bón phân đến sinh trưởng rừng Luồng tại trạm
Lâm Nghiệp – Ngọc Lặc – Thanh Hóa làm cơ sở đề xuất biện pháp thâm canh
rừng Luồng, đã cho thấy địa hình và công thức bón phân ảnh hưởng rất lớn
đến sinh trưởng của rừng Luồng.
9
Nguyễn Đức Hạnh (2005) trong đề tài tốt nghiệp, đã nghiên cứu ảnh
hưởng của điều kiện hoàn cảnh đến sinh trưởng và phát triển của rừng Luồng
thuần loài tại lâm trường Đoan Hùng, Phú Thọ. Kết quả đã cho thấy ở vị trí
chân đồi cây Luồng sinh trưởng tốt hơn sườn đồi và đỉnh đồi.
Nhìn chung, các tác giả trên đã đi sâu nghiên cứu các biện pháp kỹ
thuật lâm sinh từ khâu gây trồng đến khâu chăm sóc, quản lý, cũng như các
tác động kỹ thuật vào rừng sau khi khép tán. Nghiên cứu sinh trưởng của
Luồng có nhiều tác giả nghiên cứu ảnh hưởng của các vị trí địa hình đến sự
sinh trưởng và phát triển của nó nhưng chưa đi sâu vào nghiên cứu biện pháp
canh tác nào thì cây Luồng sinh trưởng tốt và cho năng suất cao.
1.3. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
1.3.1. Đặc điểm sinh thái học

Cây Luồng, tên khoa hoc là (Dendrocalamuss membranaceus Munro) là
cây ưa khí hậu nóng, ẩm, nhiệt độ bình quân là 22
o
C – 24
o
C, bình quân tháng
thấp nhất không dưới 10
o
C, lượng mưa từ 1600 – 2000mm, có mùa khô rõ rệt
nhưng không kéo dài. Độ ẩm không khí lớn hơn 80%. Yêu cầu về đất đai
không quá khắt khe, Luồng sinh trưởng tốt trên đất sét pha, tầng đất sâu, đủ ẩm
và thoát nước. Đất Feralit phát triển trên phiến thạch Poocfia, Phylit hoặc đất
phù sa cổ, trên các đất nương rẫy cũ, có nhiều mùn, đất còn tính chất đất rừng
thì Luồng mọc tốt hơn và cho sản lượng cao hơn. Luồng có thể sinh trưởng từ
vùng đồng bằng đến vùng núi thấp, nơi có độ cao dưới 400m, tuy nhiên nơi đất
bằng hoặc đất thoải sinh trưởng tốt hơn nơi đất dốc, (Ngô Quang Đê, 2003).
1.3.2. Đặc tính sinh vật học
Cơ quan sinh dưỡng của Luồng gồm: thân ngầm, thân khí sinh, măng,
cành, lá, rễ. Thân ngầm và thân khí sinh hợp thành thể thống nhất. Thân ngầm
sinh ra măng, măng mọc thành cây (thân khí sinh). Thân khí sinh lại nuôi
dưỡng thân ngầm hay sinh thân ngầm mới nên cả vùng Luồng là một thể thống
nhất.
10
Cơ quan sinh sản của Luồng là hoa, quả, hạt nhưng Luồng lại chủ yếu
được nhân giống sinh dưỡng vì Luồng rất lâu ra hoa, có khi đến vài chục năm
mới ra hoa kết quả một lần. Hàng năm Luồng đều sinh ra măng mọc thành thân
khí sinh vì vậy trong bụi Luồng, lâm phần Luồng luôn có nhiều thế hệ thân khí
sinh khác nhau. Trong kinh doanh người ta thường chặt cây già, cây sâu bệnh,
cây đến tuổi thành thục công nghệ, nuôi dưỡng măng và cây non nên hình
thành phương thức kinh doanh liên tục mà không cần trồng mới.

Cây măng sau khi định hình, ra cành, lá đầy đủ thì những mầm ở gốc bắt
đầu phát triển để cho thế hệ măng tiếp theo. Sinh trưởng của măng có thể chia
thành 3 thời kỳ chính:
- Thời kỳ 1: Măng phát triển ngầm trong đất, khoảng từ tháng 9 - 10
năm trước đến thánh 4 - 5 năm sau.
- Thời kỳ 2: Măng nhú lên khỏi mặt đất và phát triển nhanh về chiều
cao, khoảng tháng 4 - 5 đến tháng 7 - 8 gọi là mùa ra măng.
- Thời kỳ 3: Cây măng phát triển hoàn chỉnh cành lá và rễ, khoảng từ
tháng 7 – 8 đến tháng 10 – 11. Sau giai đoạn này cây măng có thể sống độc lập.
Luồng 1 – 2 năm tuổi có thân non màu xanh nhạt, bóng, có ít phấn
trắng, các đốt có vòng lông trắng mịn, thịt trắng. Luồng 3 – 4 năm tuổi là cây
vừa, mầu xanh sẫm: Luồng 5 tuổi trở lên là cây già và là đối tượng khai thác,
cây càng già màu mặt lá càng xám lại và xuất hiện nhiều vết địa y, thịt hồng
đỏ, bó mạch rõ, tuổi thọ của Luồng khoảng 8 - 10 năm. Quan hệ giữa cây
trong khóm vừa cung cấp chất dinh dưỡng vừa làm chỗ dựa cho nhau. Sau khi
trồng 5 - 6 năm rừng Luồng đã có thể đưa vào khai thác. Một khóm Luồng
trung bình có khoảng 20 - 40 cây, sau khai thác có khoảng 15 - 20 cây và 30 -
40 cây trong một khóm khi đến chu kỳ khai thác. Tỷ lệ các cấp tuổi gần bằng
nhau và có 5 - 8 măng mới được sinh ra hàng năm.
11
Trong mùa sinh trưởng của măng thì tốc độ tăng trưởng lớn nhất măng
có thể đạt được trong một ngày đêm vào khoảng 70 - 80 cm, tốc độ sinh
trưởng ban ngày của măng lớn hơn ban đêm (ban ngày khoảng 60%, ban đêm
khoảng 40% so với lượng sinh trưởng cả ngày đêm), (Ngô Quang Đê, 1994).
Luồng sinh trưởng nhanh, sau 3 tháng tuổi đã hoàn thành sinh trưởng
về đường kính và chiều cao. Sau thời gian này chỉ là quá trình hoàn thiện, tích
lũy Cellulose giúp cây cứng hơn. Cây Luồng thành thục nếu ở nơi đất tốt đạt
chiều cao trung bình từ 10 - 17 m, đường kính đạt từ 10 - 12 cm, thân thẳng,
vách dầy, cứng (Ngô Quang Đê, 1994).
Sinh trưởng của Luồng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên như

khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm, độ cao, lượng mưa, đất đai,… Cùng một điều kiện
lập địa nhưng ở đâu đất tốt hơn thì sẽ cho cây Luồng cao hơn, đường kính lớn
hơn, thể hiện ở số lóng của cây, chiều dài lóng, độ to và dầy của lóng…(Ngô
Quang Đê, 1994).
12
1.3.3. Giá trị sử dụng
Thân Luồng chứa Cellulose (54%) cao nhất trong các loài tre đã được
phân tích, Lignin (22,4%), Pentozan (18,8%), kích thước sợi có bề dầy
2,944mm, chiều rộng 17.84 mm. Nếu dùng làm nguyên liệu sản xuất giấy sẽ
cho hiệu quả cao và chất lượng giấy tốt. Độ bền kéo dọc thớ của đốt 867
kgf/cm
2
, mẫu lóng 2846 kgf/cm
2
. Đốt có độ bền khi uốn tĩnh tiếp tuyến 1531
kgf/cm
2
, ngoài vào 1431 kgf/cm
2
và trong ra 1328 kgf/cm
2
; Lóng có độ bền
khi uốn tĩnh tiếp tuyến 1603 kgf/cm
2
, ngoài vào 1578 kgf/cm
2
và trong ra
1418 kgf/cm
2
. Độ bền khi trượt dọc thớ của đốt 70 kgf/cm

2
và lóng 57
kgf/cm
2
. Vì vậy, dùng Luồng làm cột chống, xà đỡ trong xây dựng, giao
thông vận tải, chèn hầm lò rất tốt. Luồng dùng làm nguyên liệu sản xuất ván
ghép thanh cho sản phẩm vừa đẹp vừa bền, được nhiều người ưa chuộng và là
mặt hàng xuất khẩu rất có giá trị. Măng Luồng ăn ngon, kích thước lớn nên
ngoài ăn tươi còn được phơi khô. Trọng lượng bình quân của măng luồng là
1,15 kg/1măng; tỷ lệ sử dụng khá cao (65 - 72%). Phân tích măng Luồng ta
thu đươc các kết quả như sau: hàm lượng nước 92.01%, Protein 2,26%, Sugar
2,47%, Gluid 2.33%, Cellulose 0.58%, và Lipid 0.12% (Nguyễn Danh Minh,
2005). Trong thập kỷ 70, tỉnh Thanh Hóa đã có xí nghiệp đóng hộp măng
Luồng để xuất khẩu.
Ngoài ra Luồng còn được sử dụng làm nguyên liệu giấy: Do đặc điểm
là có sợi Xellulose dài mà tre trúc có vai tro quan trọng trong ngành công
nghiệp sản xuất bột giấy. Muốn sản xuất được giấy, nhất là giấy có chất lượng
cao thì trong nguyên liệu để làm giấy, tre trúc phải chiếm một tỉ lệ đáng kể.
Bên cạnh đó Luồng còn được sử dụng làm đồ thủ công mỹ nghệ: thân,
gốc Luồng qua bàn tay khéo léo của các nghệ nhân sẽ trở trở thành những tác
phẩm nghệ thuật độc đáo.
13
Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
14
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu sinh trưởng rừng trồng Luồng thuần loài theo các phương
thức canh tác khác nhau tại huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa nhằm đề
xuất các biện pháp tác động thích hợp để nâng cao năng suất chất lượng rừng
Luồng với mục đích kinh doanh lâu dài bền vững và hiệu quả.

2.2. Đặc điểm của Luồng thuộc đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là lâm phần rừng Luồng thuần loài nằm trên địa
bàn xã Quang Hiến và xã Tân Phúc, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.
- Tại xã Quang Hiến rừng trồng Luồng theo hình thức quảng canh.
+ Quảng canh: quảng canh là phương thức canh tác nông, lâm nghiệp
chủ yếu theo chiều rộng, trên cơ sở mở rộng diện tích gieo trồng, tăng thêm
đầu gia súc để đáp ứng nhu cầu về nông sản và thực phẩm của xã hội. Kỹ
thuật sản xuất lạc hậu và không có sự đầu tư, chủ yếu dựa vào việc khai thác
độ phì tự nhiên sẵn có của đất đai và lợi dụng điều kiện thời tiết khí hậu của
khu vực.
+ Khu rừng này được giao cho hộ gia đình quản lý, chăm sóc và khai
thác. Đặc điểm của rừng Luồng này là không có sự đầu tư về phân bón và
không được bảo vệ chặt chẽ vì vậy rừng bị gia súc của người dân trong khu
vực chăn thả tàn phá.
- Tại xã Tân Phúc rừng trồng Luồng theo hình thức thâm canh.
+ Thâm canh: Thâm canh là phương thức canh tác nông, lâm nghiệp
theo chiều sâu, là cách đầu tư thêm về phân bón, phương pháp, khoa học, kỹ
thuật vào nông nghiệp để tăng năng suất trên “một diện tích” trồng trọt.
+ Khu rừng này được giao cho hội cụ lão quản lý và chăm sóc. Đặc
điểm rừng Luồng này được các cụ trồng và chăm sóc tốt, được bón phân
(0.5kg NPK + 10kg phân chuồng cho một khóm) theo định kỳ, ngoài ra khu
rừng còn được bảo vệ chặt chẽ, vào mùa cây sinh măng nghiêm cấm chăn thả
gia súc, vì vậy rừng Luồng này sinh trưởng tốt, khóm lớn, các cây trong bụi
có sự vượt trội về đường kính và chiều cao so với các khu rừng Luồng lân cận
15
Thực trạng về tình hình khai thác, sử dụng rừng Luồng của 2 xã trên
như sau:
- Tại xã Quang Hiến mô hình rừng trồng Luồng theo hình thức quảng
canh được người dân trồng và khai thác bán hàng năm, cây Luồng đạt tuổi 4
đã được khai thác bán. Vì vậy tại khu rừng nghiên cứu những cây có tuổi 4,

tuổi 5, tuổi 6 là không đáng kể.
- Tại xã Tân Phúc mô hình rừng trồng Luồng theo hình thức thâm canh
do các cụ tuổi cao, sức đề kháng yếu nên hay bị ốm vì vậy rừng Luồng cũng
được khai thác hàng năm với số lượng lớn lấy tiền làm quỷ chữa bệnh cho các
cụ, nên khu rừng này những cây Luồng đạt tuổi 4 trở lên cũng không còn
đáng kể.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu các đặc điểm sinh trưởng của rừng Luồng tại Lang Chánh.
- Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, năng suất
và chất lượng của rừng Luồng.
- So sánh sự khác nhau về sinh trưởng của rừng trồng Luồng ở các
phương thức canh tác khác nhau.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Kế thừa tài liệu
Các tài liệu kế thừa:
+ Bản đồ địa hình tại khu vực nhằm phục phụ cho việc phân chia ranh
giới giữa các trạng thái rừng khác nhau.
+ Tài liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội tại khu vực.
2.4.2. Phương pháp ngoại nghiệp
- Chuẩn bị dụng cụ:
+ Thước dây
+ Địa bàn
+ Thước kẹp kính
+ Thước đo cao Blumeleiss
16
+ Bản đồ
+ Sổ ghi chép và bảng biểu
+ Dao, cuốc, xẻng…
- Thu thập tài liệu, bản đồ khu vực điều tra
- Sơ thám để nắm được tình hình tài nguyên khu vực nơi điều tra

- Phỏng vấn người dân trong khu vực để biết thêm các vấn đề liên quan
như: hiện trạng rừng, vấn đề trồng bảo vệ và chăm sóc, các hình thức canh tác,…
2.4.2.1. Điều tra tình hình sinh trưởng của Luồng
- Lập 6 ô tiêu chuẩn ở các phương thức canh tác khác nhau. Mỗi
phương thức lập 3 ô tiêu chuẩn ở các vị trí địa hình khác nhau (1 ô ở chân đồi,
1 ô ở sườn đồi, 1 ô ở đỉnh đồi). Diện tích mỗi ô tiêu chuẩn là 1000 m2, kích
thước 25x40m, Trong mỗi ô tiêu chuẩn tiến hành:
+ Đánh số thứ tự khóm, số cây trong khóm.
+ Xác định tuổi của từng cây trong khóm.
+ Đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng:
• Đo chu vi gốc khóm ở vị trí cách mặt đất 1.3 (m) bằng thước dây (C
k1.3
)
• Đo chu vi C
1.3
(cm) thân cây bằng thước dây.
• Đo chiều cao vút ngọn bằng thước Blume-leiss.
+ Đánh giá chất lượng cây qua tiêu chí sau:
• Cây tốt: là cây không cụt ngọn, cong queo, sâu bệnh, đường kính D1.3 ≥ 9cm
• Cây trung bình: là cây không cụt ngọn, cong queo,sâu bệnh, đường kính 7cm
≤ D1.3 ≤ 9cm
• Cây xấu là cây cụt ngọn, cong queo, sâu bệnh, đường kính D1.3 ≤ 7cm
- Tiến hành phân chia cấp tuổi bằng kinh nghiệm của người điều tra
dựa vào đặc điểm hình thái bên ngoài của thân khí sinh.
+ Do rừng Luồng trồng được khai thác hàng năm vì vậy những cây
Luồng đã thành thục công nghệ sẽ được khai thác bán, đó là những cây đã có
năm tuổi từ 3 trở lên vì vậy những cây Luồng từ tuổi 4, tuổi 5… còn lại trong
rừng là không đáng kể nên ta sẽ tiến hành phân cấp tuổi như sau.
+ Cây cấp tuổi 1: Cây non (1 năm tuổi), thân có màu xanh bên ngoài
phủ một lớp lông và phấn trắng.

17
+ Cây cấp tuổi 2: Cây trung niên (2 năm tuổi), thân có màu xanh lục,
phấn trắng không xuất hiện trên thân nữa.
+ Cây cấp tuổi 3: Cây già (trên 3 năm tuổi), thân khí sinh màu hơi
vàng, không còn phấn trắng nhưng thân xuất hiện những lớp địa y.
- Kết quả điều tra được ghi vào mẫu biểu sau :
Mẫu biểu 01: Biểu điều tra rừng Luồng
STT
khó
m
C
1.3
khó
m
(m)
D
1.3
khó
m
(m)
SST
Cây
C
1.3
cây
(cm)
D
1.3
cây
(cm)

Hvn
cây
(m)
Cấp
tuổi
Chất
lượn
g
Ghi
chú
1
1
2
3

n1
2
1
2
3

n2
2.4.2.2. Điều tra tình hình cây bụi thảm tươi
Trong OTC tiến hành lập 5 ô dạng bản: 4 ô ở 4 góc và 1 ô ở giữa mỗi ô
có diện tích 4 m
2
kích thước 2x2 m.
Trong các ô dạng bản xác định tên loài, chiều cao trung bình,độ che phủ.
Các kết quả điều tra và thu thập được tổng hợp vào mẫu biểu sau:
Mẫu biểu 02: Điều tra cây bụi

Số hiệu OTC:………………………. Trạng thái rừng:……………………
Độ dốc:……………………………… Người điều tra:……………………
Hướng dốc:………………………… Ngày điều tra:………………………
STT ODB Loài H
tb
Số cây
Độ che
phủ
Tình hình sinh
trưởng
18
2.4.3. Phương pháp nội nghiệp
Tính các chỉ tiêu sinh trưởng:
- Tính các đặc trưng mẫu
+ Số tổ: m = 5 * log (N) (2.1)
m: là số tổ
N: là dung lượng mẫu
+ Cự ly tổ k =
(2.2)
Xmax: là chỉ số quan sát lớn nhất
Xmin: là chỉ số quan sát nhỏ nhất
Trị số giữa tổ
(Xi)
Tần số xuất
hiện (fi)
Xi
2
fi*Xi fi*Xi
2
+ Tính trung bình mẫu:

=
(2.3)
19
+ Sai tiêu chuẩn được tính theo công thức:
(2.4)
(2.5)
+ Hệ số biến động được tính theo công thức:
S% = 100
+ Kiểm tra sự thuần nhất giữa các ô tiêu chuẩn ở các vị trí địa hình theo
tiêu chuẩn U của phân bố chuẩn
2
2
2
1
2
1
21
n
S
n
S
XX
U
+

=
(2.6)
Trong đó:
X
1

: Là trị số bình quân ô tiêu chuẩn 1
X
2
: Là trị số bình quân ô tiêu chuẩn 2
n
1
: Dung lượng mẫu ô quan sát số 1
n
2
: Dung lượng mẫu ô quan sát số 2
S
1
: Sai tiêu chuẩn ô số 1
Nếu│U│≤ 1,96 giữa hai ô chưa có sai dị rõ ràng.
Nếu│U│> 1,96 giữa hai ô có sai dị rõ ràng.
20
n
i=1
Các chỉ tiêu về chất
- Tiến hành đánh giá tỷ lệ phần trăm (%) cây tốt, xấu,trung bình theo
công thức sau:
N% = x 100 (2.7)
Trong đó:
N% : Tỷ lệ tương ứng của số cây tốt, xấu, trung bình (%)
n: số cây tốt, sấu, trung bình (cây)
N: Tổng số cây (cây)
- Sử dụng tiêu chuẩn χ2 để kiểm tra sự thuần nhất về chất lượng:
(2.8)
Trong đó:
f

ij
: là tần số quan sát tương ứng với từng mẫu và từng cấp chất lượng
Ts: là tổng số quan sát toàn thí nghiệm
Bậc tự do k = (a-1).(b-1).
+ Nếu χ
n
2
> χ
0.5
tra bảng thì các mẫu quan sát không thuần nhất về chất.
+ Nếu χ
n
2
< χ
0.5
tra bảng thì các mẫu quan sát thuần nhất về chất.
21
n
i=1
Chương 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI
3.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
Lang Chánh là huyện miền núi cao nằm ở phía Tây -Tây Bắc của tỉnh
Thanh Hóa, có diện tích tự nhiên là 58.659,18 ha chiếm 5,3% tổng diện tích
tự nhiên toàn tỉnh. Trung tâm huyện Lang Chánh cách thành phố Thanh Hóa
101 km.
Tọa độ địa lý từ 20
0
đến 20

0
17’ vĩ bắc và 104
0
57’ đến 105
0
18’ kinh
đông, cụ thể:
- Điểm cực Bắc có vĩ độ 20
0
17’B thuộc địa phận bản tiên, xã Lâm Phú.
- Điểm cực Nam có vĩ độ 20
0
00’B tại đỉnh Pù Ran cao 689m thuộc địa
phận làng Bí Ngưu, xã Giao Thiện.
- Điểm cực tây có kinh độ 104
0
57’Đ tại đỉnh PuSoLat, thuộc địa phận
bản Hằng, xã Yên Khương.
- Điểm cực Đông có kinh độ 105
0
18’Đ thuộc địa phận làng Thung, xã
Đồng Lương (Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa, 2009)
3.1.2. Địa hình, địa thế
Lang Chánh có địa hình đa dạng và phức tạp với độ cao tăng dần từ
400 - 500 mở phía đông lên 700 - 900m ở phía tây. Đỉnh cao nhất là núi Pù
Rinh 1.291. Độ dốc trung bình từ 20 -30
0
, có nơi tới 40 - 50
0
Theo số liệu nghiên cứu, đo đạc thực tế trong nhiều năm qua của cơ

quan chức năng huyện Lang Chánh có một số đặc điểm địa hình như sau:
- Địa hình đồi núi thấp, chia cắt khá phức tạp.
- Do sự chia cắt phức tạp mà ở đây không có cao nguyên và sơn nguyên.
- Các dãy núi đều nghiêng dốc và kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam.
- Nơi có độ cao tuyệt đối lớn nhất Lang Chánh là đỉnh Pù Rinh
(1291m) và nơi có độ cao tuyệt đối thấp nhất là đáy Sông Âm (41m)
- Trên địa bàn Lang Chánh có các dãy núi chính sau: Dãy núi phía Bắc
sông Âm, dãy núi trung tâm, dãy núi phía Nam.
22
Nhìn chung địa hình bị chia cắt bởi sông suối, địa thế thấp dần từ Tây
sang Đông. Đặc điểm địa hình, địa thế tuy có khó khăn nhưng vẫn có nhiều
điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh theo hướng tập trung lâu dài và
liên tục (Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa, 2009).
3.1.3. Địa chất, thổ nhưỡng
Địa bàn Lang Chánh có 3 nhóm đá mẹ chính là cơ sở để hình thành lớp
vỏ phong hóa và cùng với các nhân tố tự nhiên khác (khí hậu, sinh vật, thủy
văn, địa hình…) để hình thành các loại đất khác nhau.
Nhóm đá Macma: Gồm đá Gabro, Granit, Foocphirit,…phân bố ở các
xã Trí Nang, Tam Văn, Giao An, Giao Thiện, Yên Khương và Đồng Lương.
Nhóm đá trầm tích: đá vôi, Sa thạch, Phiến thạch, Sét,…phân bố ở khu
vực các xã Giao Thiện, Giao An, Yên Khương, Yên Thắng, Tân Phúc, Đồng
Lương.
Nhóm đá biến chất gồm: Gnai, Phiến thach mica, phân bố ở xã Lâm Phú.
Nhờ sự tác động tổng hợp của các nhân tố: đá mẹ, địa hình, khí hậu,
sinh vật và cả sự tác động của con người mà Lang Chánh có nhiều loại đất
khác nhau. Theo nghiên cứu của Viện Nông Hóa Thổ Nhưỡng và Sở Tài
Nguyên & Và Môi Trường Thanh Hóa (2009) thì huyện Lang Chánh có 11
loại đất khác nhau và được phân thành ba nhóm: nhóm đất phù sa ven sông
suốt, nhóm đất Feralit đồi núi và nhóm đất mùn trên núi.
3.1.4. Khí hậu thủy văn

Lang Chánh nhìn chung không quá nóng, mưa nhiều, lắm sương mù
(bình quân mỗi năm có tới 70-80 ngày sương mù), mùa đông lạnh và tương
đối khô, biên độ nhiệt tương đối lớn. Thiên tai cần đề phòng là rét đậm, lũ,
sương muối, sương giá. Khí hậu có sự khác nhau giữa phía đông và phía tây.
Phía đông có tổng nhiệt độ năm là 7.500 -8.000
o
C, lượng mưa trung bình
năm là 2.200mm (có nơi 2.500mm); mùa mưa kéo dài 6 - 7 tháng, bắt đầu từ
giữa tháng 4 và kết thúc vào cuối tháng 10; hàng năm có 20 - 25 ngày có gió
tây khô nóng.
23
Nhiệt độ trung bình năm từ 22
0
– 24
0
C. Cao nhất vào tháng 5, 6 khoảng
38,4
0
C, thấp nhất tháng 1 khoảng 12
0
C (Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh
Hóa, 2009).
3.1.5. Các nguồn tài nguyên
3.1.5.1. Tài nguyên nước
Tài nguyên nước rất phòng phú với ba con sông lớn là: Sông Cảy, sông
Sạo, sông Âm. Thác Ma Hao là thác lớn nhất của sông Cảy có tiềm năng phát
triển thuỷ điện và du lịch sinh thái. Đây là nguồn cung cấp nước ngọt cho
đồng bào các dân tộc, là con đường vận chuyển lâm sản về đồng.
3.1.5.2. Tài nguyên rừng
Huyện Lang Chánh hiện nay có 11.632 ha rừng tự nhiên và 9.732 ha

rừng trồng. Độ che phủ là 72%. Rừng Lang Chánh có nhiều loại gỗ quý như
Lim, Lát hoa, Pơ mu, Dỗi, Vàng Tâm, Luồng, Tre nứa và có nhiều dược liệu
quí như Quế, Xa nhân, Nấm hương, Trầm hương… cùng một số loại động vật
quí hiếm: Lợn rừng, Khỉ v.v
3.1.5.3. Tài nguyên khoáng sản
Về khoáng sản có mỏ đất sét dùng sản xuất gạch chịu lửa ở Làng En
(xã Trí Nang); mỏ Đồng ở xã Trí Nang; mỏ đá Granit chất lượng cao, trữ
lượng lớn ở dãy núi Bù Rinh. Bước đầu, các nhà khoa học xác định mỏ có
diện tích khoảng 0,5 Km
2
, trữ lượng khoảng 660.000m
3
. Đây là loại đá có độ
bóng độ liên kết khá bền vững, có giá trị kinh tế cao. Nếu khai thác với sản
lượng 100.000m3 sản phẩm/năm, mỏ này có thể khai thác được trên 80 năm.
3.3. Kinh tế - xã hội
3.3.1. Dân số và nguồn lao động
Dân số huyện năm 2008 là 48.794 người, mật độ dân số 83 người/km2,
(theo tổng điều tra dân số 1/4/2009 thì dân số toàn huyện là 45.637 người, mật
độ dân số 78 người/km2, giảm 3.157 người so với năm 2008), tỉ lệ sinh là 17,-
*39
24
Chương 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả nghiên cứu sinh trưởng của Luồng tại khu vực nghiên cứu
Sinh trưởng và phát triển là một trong những biểu hiện quan trọng của
động thái rừng, có ảnh hưởng tới mục tiêu kinh doanh. Rừng sinh trưởng và
phát triển theo những quy luật nhất định, các quy luật đó được chi phối bởi
đặc điểm di truyền và điều kiện hoàn cảnh sống. Ngoài ra sinh trưởng và phát
triển của rừng trồng Luồng còn phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp quản lý,

và phương thức canh tác của người trồng rừng (phương pháp tác động).
4.1.1. Kết quả nghiên cứu sinh trưởng đường kính D
1.3
Theo quy luật thông thường, đối với cây gỗ đường kính tăng dần theo
cấp tuổi. Song đối với cây Luồng thì không hẳn như vậy, sẽ ngừng tăng kích
thước khi cây Luồng nhú lên khỏi mặt khoảng đất 100 ngày, vì đối với cây
thuộc họ tre nứa chỉ cần trên 3 tháng (khoảng 100 ngày) đã hoàn thành sinh
trưởng về chiều cao và đường kính. (Ngô Quang Đê, 2003).
Như vậy đường kính của cây Luồng được xác định ngay ở tuổi còn
non. Việc nghiên cứu nắm bắt chính xác quy luật này đối với từng lâm phần
là cơ sở đầu tiên cho việc quyết định các biện pháp tác động lâm sinh trong
quá trình nuôi dưỡng và kinh doanh rừng Luồng.
Kết quả điều tra đặc điểm sinh trưởng đường kính (D
1.3
)

rừng Luồng
theo hai mô hình canh tác được mô tả trong biểu dưới đây:
25

×