Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

ảnh hưởng của thị trường lao động đến sự lựa chọn nghề của học sinh thpt tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.54 KB, 97 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







NGUYỄN THỊ DỊU




ẢNH HƢỞNG CỦA THỊ TRƢỜNG LAO ĐỘNG
ĐẾN SỰ LỰA CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH THPT
TỈNH BẮC GIANG






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC














THÁI NGUYÊN, NĂM 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGUYỄN THỊ DỊU



ẢNH HƢỞNG CỦA THỊ TRƢỜNG LAO ĐỘNG
ĐẾN SỰ LỰA CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH THPT
TỈNH BẮC GIANG




CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC HỌC
MÃ SỐ: 60.14.01




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH. Nguyễn Văn Hộ






THÁI NGUYÊN, NĂM 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban lãnh đạo cùng toàn thể
các thầy cô giáo khoa Tâm Lý- Giáo dục trường Đại học Sư phạm- Đại học
Thái Nguyên đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi hoàn thành cuốn Luận văn này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới GS.TSKH Nguyễn Văn Hộ-
thầy giáo đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, các thầy, cô giáo và
các em học sinh các trường THPT Bố Hạ (Yên Thế), THPT Tân Yên số 2
(Tân Yên), THPT Nguyên Hồng (TP Bắc Giang) đã giúp tôi hoàn thành
luận văn này.
Trong quá trình hoàn thành luận văn không tránh khỏi những hạn
chế, thiếu xót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp và chỉ dẫn của các thầy
cô giáo.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2011
Tác giả






Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


BẢNG CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

Trung học phổ thông : THPT
Trung học cơ sở : THCS
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa : CNH- HĐH
Hoạt động : HĐ
Giáo dục hướng nghiệp : GDHN
Kinh tế thị trường : KTTT
Công nghệ thông tin : CNTT

Giáo viên : GV
Học sinh : HS
Số lượng : SL
Trung bình : TB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 4
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4
4. Giả thuyết khoa học 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
6. Phương pháp nghiên cứu 5
8. Những đóng góp của đề tài 5
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ẢNH HƢỞNG CỦA THỊ TRƢỜNG
LAO ĐỘNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH THPT
TỈNH BẮC GIANG 7
1.1.Tổng quan nghiên cứu vấn đề 7
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới 7
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước 10
1.2. Một số khái niệm công cụ 13
1.2.1. Khái niệm kinh tế thị trường và cơ chế thị trường 13
1.2.2. Ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối với đời sống xã hội 14
1.2.3. Thị trường và thị trường lao động1.2.3.1. Thị trường 18

1.2.3.2. Thị trường lao động 19
1.2.4. Nghề nghiệp 21
1.2.4.1. Nghề nghiệp và việc làm 21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1.2.4.2. Giáo dục hướng nghiệp 23
1.2.4.3. Sự phù hợp nghề 24
1.2.4.4. Năng lực nghề 25
1.2.4.5. Định hướng nghề nghiệp 26
1.2.4.6. Lựa chọn nghề 27
1.2.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề của học sinh THPT 29
1.2.5.1. Yếu tố gia đình 29
1.2.5.2. Yếu tố giáo dục hướng nghiệp của nhà trường 30
1.2.5.3. Yếu tố bạn bè 31
1.2.5.4. Ảnh hưởng của các phương tiện thông tin đại chúng và các tổ
chức xã hội 32
1.2.6. Ảnh hưởng của thị trường lao động đến sự lựa chọn nghề của học sinh 33
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG ẢNH HƢỞNG CỦA THỊ TRƢỜNG LAO
ĐỘNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH THPT TỈNH
BẮC GIANG 36
2.1.Vài nét về khách thể điều tra 36
2.2. Thực trạng ảnh hưởng của thị trường lao động đến sự lựa chọn nghề
của học sinh THPT Tỉnh Bắc Giang 37
2.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên và học sinh THPT về tầm
quan trọng của việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh 37
2.2.2. Nhận thức của giáo viên và học sinh THPT về mục đích của định
hướng nghề nghiệp cho học sinh 39
2.2.3.Thực trạng tham gia các hoạt động giáo dục hướng nghiệp của học
sinh THPT 41
2.2.3.1. Thực trạng hành vi của học sinh khi tham gia các hoạt động giáo

dục hướng nghiệp của nhà trường 41
2.2.3.2. Thực trạng thái độ của học sinh khi tham gia các hoạt động giáo
dục hướng nghiệp của nhà trường 43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.2.4. Thực trạng dự định nghề nghiệp của học sinh sau khi tốt nghiệp
THPT tỉnh Bắc Giang 44
2.2.5. Thực trạng những nhóm ngành nghề mà học sinh THPT ưu tiên
lựa chọn 46
2.2.6. Những tiêu chí học sinh THPT quan tâm khi lựa chọn nghề 51
2.2.7. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề của học sinh THPT 53
2.2.8. Thực trạng những khó khăn học sinh gặp phải khi lựa chọn nghề 56
2.2.8. Thực trạng tổ chức các hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh THPT 58
2.2.8.1. Thực trạng hiệu quả của việc tổ chức giáo dục hướng nghiệp
trong nhà trường Phổ thông hiện nay 59
2.2.8.2. Thực trạng nguyên nhân dẫn đến những sai lầm khi chọn nghề
của học sinh 60
Chƣơng 3. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƢỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH THPT DƢỚI ẢNH HƢỞNG
CỦA THỊ TRƢỜNG LAO ĐỘNG 64
3.1. Những cơ sở có tính nguyên tắc để xây dựng biện pháp 64
3.1.1. Đảm bảo tính mục đích của giáo dục hướng nghiệp 64
3.1.2. Đảm bảo tính hệ thống của giáo dục hướng nghiệp 64
3.1.3. Đảm bảo sự phù hợp với những đặc điểm tâm lí và nhân cách của
học sinh 65
3.1.4. Đảm bảo xây dựng biện pháp theo quan điểm tiếp cận hoạt động
và nhân cách 65
3.1.5. Đảm bảo tính khả thi 66
3.2. Các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học

sinh THPT 66
3.2.1. Xây dựng bài học có nội dung giới thiệu về những lĩnh vực cụ thể . 66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3.2.2. Tổ chức tọa đàm ở lớp hoặc khối với chủ đề nghề nghiệp. lựa chọn nghề . 67
3.2.3. Tổ chức cho học sinh tiếp xúc thực tế tại cơ sở sản xuất 68
3.2.4. Tổ chức hội nghị trao đổi với cha mẹ học sinh về nghề nghiệp
tương lai của con em họ 69
3.2.5. Lập hồ sơ hướng nghiệp cho học sinh 71
3.3. Khảo nghiệm các biện pháp trên cơ sở lấy ý kiến chuyên gia 72
3.3.1. Mục đích của khảo nghiệm 72
3.3.2. Đối tượng khảo nghiệm 72
3.3.3. Quá trình tiến hành khảo nghiệm 72
3.3.4. Kết quả khảo nghiệm 72
3.3.4.1. Đánh giá của chuyên gia về tầm quan trọng của việc xây dựng
các biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT 72
3.3.4.2. Đánh giá của chuyên gia về mức độ phù hợp của cơ sở có tính
nguyên tắc trong việc xây dựng các biện pháp 73
3.3.4.3. Đánh gía về mức độ phù hợp của các biện pháp 74
3.3.4.4. Đánh giá về mức độ phù hợp của các bước tiến hành biện pháp 74
3.3.4.5. Đánh giá về mức độ khả thi của phương pháp 75
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHI 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
PHỤ LỤC 49



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU

Trang
Bảng 2.1: Nhận thức của giáo viên và học sinh về tầm quan trọng của định
hướng nghề nghiệp cho học sinh 38
Bảng 2.2.Nhận thức của giáo viên và học sinh về mục đích của hoạt động
giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông 39
Bảng 2.3: Hành vi của học sinh khi tham gia hoạt động giáo dục hướng nghiệp 41
Bảng 2.4: Thực trạng thái độ của học sinh khi tham gia các hoạt động giáo
dục hướng nghiệp của nhà trường 43
Bảng 2.5: Thực trạng dự định nghề nghiệp của học sinh sau khi tốt nghiệp
THPT Tỉnh Bắc Giang 44
Bảng 2.6: Mức độ ưu tiên lựa chọn các ngành nghề của học sinh THPT 47
Bảng 2.7: Nhận xét của giáo viên về nhóm ngành, nghề được học sinh ưu
tiên lựa chọn 50
Bảng2.8: Những tiêu chí học sinh quan tâm khi lựa chọn nghề 51
Bảng 2.9: Những yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề của học sinh THPT 53
Bảng 2.10: Nhận xét của giáo viên về các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa
chọn nghề của học sinh THPT 55
Bảng 2.11: Những khó khăn khi lựa chọn nghề của học sinh THP 56
Bảng 2.12: Thực trạng tổ chức các hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh THPT 58
Bảng 2.13: thực trạng hiệu quả tổ chức hoạt động GDHN ở trường THPT 59
Bảng 3.1: Đánh giá của chuyên gia về mức độ phù hợp của cơ sở có tính
nguyên tắc trong việc xây dựng các biện pháp 73
Bảng 3.2: Đánh giá của chuyên gia về sự phù hợp của các biện pháp 74
Bảng 3.3: Đánh giá của chuyên gia về mức độ khả thi của các phương pháp 75


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. L do chọn đề ti
Đất nước ta đang bước vào thời k CNH - HDH vớ i nề n kinh tế m ở,
năng động bao gồm nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà Nước. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế trong
những năm qua cùng với sự hội nhập của các nước trong khu vực và trên thế
giới đã tác động to lớn đến tất cả các mặt của đời sống xã hội. Kéo theo đó là
sự đa dạng và phong phú của hệ thống nghề nghiệp, tạo cho con người có
nhiều cơ hội nhưng cũng gặp nhiều khó khăn thử thách. Trước tình hình đó
vấn đề phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH-HDH đất nước
đã và đang trở thành nhiệm vụ cấp thiết được Đảng, Nhà nước, xã hội quan
tâm hàng đầu. Nghị quyết Hội nghị lần II, BCHTW Đảng khóa VIII nhấn
mạnh: “ Muốn tiến hành CNH- HĐH thắng lợi phải biết phát triển mạnh giáo
dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản của sự phát triển
nhanh và bền vững ”.[7]. Con người là trọng tâm của sự phát triển, là yếu tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Vì thế việc đào tạo
chuẩn bị cho thế hệ trẻ có được phẩm chất, năng lực nghề nghiệp phù hợp với
các hoạt động kinh tế xã hội, khoa học công nghệ (hay nói một cách khác là
những năng lực nghề nghiệp đó đáp ứng được yêu cầu của xã hội) là nhiệm
vụ đặc biệt quan trọng mang tính chiến lược.
Việc đào tạo con người cho xã hội là nhiệm vụ trọng tâm, trước tiên,
đồng thời giúp cho con người phát triển toàn diện nhân cách. Với ý nghĩa đó,
hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông giúp cho học
sinh có được những hiểu biết cơ bản về các ngành nghề trong xã hội, hình
thành hứng thú và năng lực nghề. Từ đó lựa chọn cho mình một nghề cụ thể
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí cá nhân (hứng thú, năng lực, sở trường, sức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2

khỏe) của bản thân. Sự lựa chọn nghề một cách có ý thức, có cơ sở khoa học
sẽ giúp học sinh phát huy tối đa những tố chất của mình, từ đó nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đáp ứng được “đơn đặt hàng của xã hội”.
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đang chuyển dần từ nền kinh
tế hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhiều thị trường trong nước đã
từng bước hình thành và phát triển. Song sự phát triển còn thấp hoặc thiếu
đồng bộ. Một trong những thị trường đó là thị trường sức lao động (hay còn
gọi là thị trường lao động). Kinh tế thị trường làm cho định hướng giá trị nói
chung và định hướng giá trị nghề nghiệp nói riêng của thế hệ trẻ có nhiều thay
đổi so với trước đây. Xã hội ngày càng xuất hiện nhiều ngành nhiều nghề làm
cho thế giới nghề nghiệp ngày càng phong phú. Cùng với sự phát triển ấy thì
yêu cầu của xã hội đối với nghề nghiệp ngày càng cao. Để đáp ứng được yêu
cầu đó, người lao động phải lựa chọn đúng hướng đi, phải được đào tạo một
cách khoa học để luôn thích ứng và phát triển không ngừng.
Thực tế cho rằng một vài năm gần đây, học sinh THPT phần lớn không tự
đánh giá đúng bản thân nên đã lúng túng hoặc không biết lựa chọn nghề nào.
Số đó nộp hồ sơ thi vào đại học, cao đẳng thì quá sức hoặc khi thi vào trường
rồi mới nhận ra trường đó không phù hợp với mình dẫn đến tình trạng chán
nản, bỏ bê học tập, kết quả học không cao. Một số dự thi Đại học nhiều lần để
mong không phải làm ruộng hay làm công nhân, công việc chân tay…hoặc
khi đang theo học thấy không phù hợp thì chuyển sang trường khác. Điều này
gây ra nhiều vấn đề cho gia đình và xã hội như lãng phí thời gian, tiền bạc,
công sức đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực thấp, vấn đề thất nghiệp, nảy
sinh nhiều tệ nạn xã hội Một thực tế đáng quan tâm hiện nay là tình trạng
nước ta đang thiếu những lao động lành nghề trong các nhà máy, công xưởng.
Trong khi đó đội ngũ sinh viên ra trường chưa có việc làm tương đối cao. Mặt
khác nhiều sinh viên sau khi ra trường không muốn về quê mà muốn ở lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
thành phố nên sự mất cân bằng lao động giữa thành thị và nông thôn, giữa
đồng bằng và miền núi còn cao. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng trên là do công tác định hướng nghề nghiệp của các cơ quan giáo dục
còn mang tính hình thức và thiếu hiệu quả. Phải thay đổi hoàn toàn công tác
định hướng nghề nghiệp cho thanh niên, đưa công tác Giáo dục hướng
nghiệp đến với mọi đối tượng: thanh niên ngoài nhà trường, học sinh THPT,
học sinh trường nghề, sinh viên các trường ĐH-CĐ và cả những người đã ra
trường… Thị trường lao động là một thành phần đang đòi hỏi ngày càng cao
ở người lao động. điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự lựa chọn nghề của
học sinh.
Xã hội ngày càng phát triển thì yêu cầu đặt ra ngày càng cao. Vì thế
trong nhà trường phổ thông việc tổ chức giáo dục hướng nghiệp có vai trò đặc
biệt quan trọng giúp cho xã hội có được thị trường lao động ổn định, chất
lượng cao, cân bằng được lực lượng lao động trong các ngành nghề và khu
vực… Tuy nhiên ở các trường phổ thông hiện nay, so với các mặt giáo dục
khác thì giáo dục hướng nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Việc thực
hiện, kiểm tra, đánh giá còn mang tính hình thức, đối phó. Điều này đã khiến
cả giáo viên, học sinh đều coi giáo dục hướng nghiệp không thực sự là hoạt
động chính yếu trong chương trình dạy học và giáo dục. Chưa nhận thức được
vai trò của giáo dục hướng nghiệp dẫn đến một loạt những sai lầm trong sự
lựa chọn nghề của học sinh THPT. Mặt khác chúng ta có thể nhận thấy nhà
trường có thể tạo ra định hướng đúng nhưng chưa được thử nghiệm trong
cuộc sống. Khi ra hành nghề người lao động cần tiếp tục được định hướng để
thích ứng và thăng tiến. Người lao động phải thích ứng vì họ bị tác động bởi
nhiều yếu tố mà quan trọng là sự thay đổi của công nghệ (nếu không thích
ứng sẽ bị sa thải). Người lao động cũng cần phải phát triển, thăng tiến nên cần
định hướng để họ đi theo đúng hướng, có sự phù hợp giữa bản thân và người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4
sử dụng lao động. Mà ở nước ta, số lượng lao động tay trái còn nhiều nên khả
năng thích ứng với những biến đổi của xã hội còn thấp. Làm sao để nâng cao
chất lượng nguồn lao động đáp ứng yêu cầu của xã hội là câu hỏi đặt ra cho
toàn xã hội.
Vì tất cả những lí do trên chúng tôi lựa chọn đề tài: “Ảnh hưởng của thị
trường lao động đến sự lựa chọn nghề của học sinh THPT tỉnh Bắc Giang”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận và thực trạng về sự lựa chọn nghề của học sinh
THPT dưới ảnh hưởng của thị trường lao động. Trên cơ sở đó xây dựng biện
pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp phù hợp cho học sinh. Giúp các
em có được lựa chọn đúng đắn và phù hợp với năng lực, sở trường của mình và
đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, góp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả lao động sản xuất và chất lượng giáo dục trong nhà trường.
3.Khách thể v đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Mối quan hệ giữa thị trường lao động của xã hội với sự lựa chọn nghề
của học sinh THPT
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Ảnh hưởng của thị trường lao động đến sự lựa chọn nghề của học sinh
THPT tỉnh Bắc Giang
4. Giả thuyết khoa học
Nếu tìm hiểu được thực trạng ảnh hưởng của thị trường lao động đến sự
lựa chọn nghề của học sinh thì có thể đưa ra biện pháp giáo dục hướng nghiệp
khoa học, giúp các em lựa chọn nghề một cách phù hợp, góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông, đáp ứng yêu
cầu của thị trường lao động rộng lớn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về ảnh hưởng của thị trường lao động đến
sự lựa chọn nghề của học sinh THPT tỉnh Bắc Giang
5.2. Thực trạng ảnh hưởng của thị trường lao động đến sự lựa chọn
nghề của học sinh THPT tỉnh Bắc Giang
5.3. Đề xuất các biện pháp
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Bao gồm: phân tích, tổng hợp lí thuyết, phân loại hệ thống hóa, khái
quát hóa lí thuyết trên cơ sở nghiên cứu tài liệu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Bao gồm: phương pháp điều tra bằng Anket, trao đổi, trò chuyện, lấy ý
kiến chuyên gia.
6.3. Phương pháp toán học
7. Phạm vi nghiên cứu
Mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế xã hội với sự lựa chọn nghề của
học sinh THPT là vấn đề quan trọng và rộng lớn. Căn cứ vào điều kiện và khả
năng thực hiện của đề tài, chúng tôi đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của thị
trường lao động đến sự lựa chọn nghề của học sinh THPT tỉnh Bắc Giang.
Khảo sát trên 3 trường thuộc huyện Yên Thế (huyện Miền núi), huyện Tân
Yên (huyện vùng trung du) và Thành phố Bắc Giang.
8. Những đóng góp của đề ti
8.1. Về mặt lí luận
- Đề tài góp phần hệ thống hóa được mối quan hệ giữa sự phát triển
kinh tế- xã hội nói chung và thị trường lao động nói riêng đến sự lựa chọn
nghề của học sinh THPT

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6
- Đưa ra cơ sở khoa học và hệ thống hóa được đến các yếu tố ảnh
hưởng đến sự lựa chọn nghề của học sinh THPT
8.2. Về mặt thực tiễn
- Phản ánh thực trạng của thị trường lao động đến sự lựa chọn nghề của
học sinh THPT tại tỉnh Bắc Giang
- Đề xuất một số biện pháp Giáo dục hướng nghiệp khoa học giúp học
sinh có được sự lựa chọn đúng đắn.
9. Cấu trúc của luận văn
Nội dung cơ bản của luận văn được trình bày trong 3 chương
Chương 1: Cơ sở lí luận về ảnh hưởng của thị trường lao động đến sự
lựa chọn nghề của học sinh THPT tỉnh Bắc Giang
Chương 2: Thực trạng ảnh hưởng của thị trường lao động đến sự lựa
chọn nghề của học sinh THPT tỉnh Bắc Giang
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp, kiến nghị












Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ẢNH HƢỞNG CỦA THỊ TRƢỜNG
LAO ĐỘNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH
THPT TỈNH BẮC GIANG

1.1.Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Từ thời cổ đại, tư tưởng về hướng nghiệp và định hướng nghề nghiệp
đã được hình thành ở dạng sơ khai. Tư tưởng ấy được hình thành và biểu hiện
thông qua việc phân chia giai cấp, tùy thuộc vào địa vị và tầng lớp xuất thân
của con người trong xã hội. Sự áp đặt của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị
trị thể hiện sự bất bình đẳng trong sự phân công lao động xã hội.
Khi xã hội thay đổi, yêu cầu đối với một nghề nào đó cũng như với
người lao động cũng thay đổi theo nhiều hướng khác nhau. Vì thế yêu cầu đặt
ra là phải đào tạo học vấn và tay nghề cho người lao động. Điều này cho thấy
người lao động phải có đủ năng lực, phẩm chất, trí tuệ, đáp ứng được yêu cầu
của nghề thì mới có khả năng đảm bảo sản xuất lao động và thúc đẩy xã hội
phát triển.
Năm 1849, cuốn sách “hướng dẫn lựa chọn nghề” được xuất bản lần
đầu ở Pháp là cuốn sách đầu tiên nói về hướng nghiệp. Cuốn sách cho
rằng giáo dục hướng nghiệp góp phần thúc đẩy xã hội phát triển ngày
càng mạnh mẽ.
Năm 1883, nhà Tâm lí học người Mĩ Ph.Ganton đã trình bày công
trình thí nghiệm với mục đích lựa chọn nghề. Năm 1890, James Mc Keen
Cattell- giáo sư Tâm lí học trường đại học Penylvania (Mĩ) đã xây dựng các
Test đầu tiên để đo lường và đánh giá thành công học đường của sinh viên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
Năm 1908, Frank.Parson đã xuất bản cuốn “Lựa chọn nghề nghiệp” (choosing
vacation). Sau này cuốn sách được coi là nền tảng của ngành Tư vấn hướng
nghiệp. Cuốn sách trình bày cơ sở của việc hướng nghiệp và lựa chọn nghề.
Đồng thời nêu lên tiêu chí về sự phù hợp nghề của mỗi cá nhân. Từ đó có sự
lựa chọn nghề phù hợp.
Ở Nga cuốn sách về hướng nghiệp “Lựa chọn khoa và điểm qua
chương trình Đại học tổng hợp” có nêu lên ý nghĩa về lựa chọn nghề khi thi
vào trường đại học được xuất bản lần đầu tiên năm 1897 (tác giả giáo sư
trường Đại học Tổng hợp Petecbua.B.F.Kapeev). Tất cả việc lựa chọn nghề
ở nhiều nước trên thế giới vẫn còn giới hạn trong sự bất bình đẳng xã hội.
Các tác phẩm nghiên cứu về hướng nghiệp trên thế giới chỉ nhằm mục đích
tăng cường lợi nhuận thông qua việc bóc lột tối đa sức lao động của con
người lao động.
Sau cách mạng Tháng 10 Nga, vấn đề lựa chọn nghề đã có dấu hiệu
mới. Nó đã gắn liền với vai trò tích cực chủ động của con người. Không chỉ
gắn liền với lợi ích kinh tế mà còn tạo điều kiện phát triển nhân cách cho mỗi
cá nhân. Từ những năm 20, 30 của thế kỉ XX, công tác hướng nghiệp được
triển khai trên đất nước Xôviết nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CHNH-
HĐH. Việc đào tạo nhân lực và đội ngũ cán bộ đặc biệt là vấn đề lựa chọn
nghề cho mỗi công nhân của đất nước được đặc biệt quan tâm. Năm 1927, ở
Lêningrat đã tổ chức hướng nghiệp để tuổi trẻ và cha mẹ học sinh làm quen
và có sự hiểu biết nhất định về nghề nghiệp. Năm 1930 ở Matxcơva thành lập
phòng tư vấn và lựa chọn nghề trực thuộc TW Đoàn Thanh niên cộng sản
Lênin. Phòng đã nghiên cứu, phổ biến những kinh nghiệm tiêu biểu của cơ
quan tư vấn nghề, đặc biệt là sự lựa chọn nghề của tuổi trẻ trong các trường
phổ thông Mĩ thuật. Hoạt động giúp cho thế hệ trẻ hiểu được rằng, xã hội
muốn phát triển cần sự góp sức, khả năng, trí tuệ của bản thân họ. Đồng thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
giúp họ chọn cho mình một vị trí trong cơ cấu nghề nghiệp xã hội phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lí của mỗi cá nhân. Trên cơ sở ấy, Lênin cũng yêu cầu
học sinh phải làm quen với khoa học, kĩ thuật, với cơ sở của nền sản xuất hiện
đại. Nhà giáo dục lỗi lạc N.K. Crupxkaia đã từng nêu luận điểm “tự do chọn
nghề” cho mỗi thế hệ trẻ. Họ phải nhận thức được yêu cầu ngày càng lớn của
xã hội đối với sản xuất và người lao động. Vì thế giáo dục hướng nghiệp phải
giúp các em phát huy hững thú, năng lực nghề nghiệp, đồng thời có thái độ
lao động đúng đắn và động cơ chọn nghề trong sáng.
Trên cơ sở luận điểm của Các Mác- Lênin, các nhà giáo dục Liên Xô
như: B.E.Kapeev, X.IA Batusev, X.A.Saporunxki, V.A.Poliacov trong quá
trình nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa hướng nghiệp và các hoạt động
sản xuất xã hội, những nguyên tắc, phương pháp thực hành lao động nghề
nghiệp cho học sinh THPT tại cơ sở học tập. Nếu thực hiện giáo dục hướng
nghiệp cho thế hệ trẻ kịp thời sẽ giúp cho họ có được sự phù hợp giữa bản
thân và nhu cầu xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, thế giới đang bước vào thời kì công nghiệp
và phát triển hậu công nghiệp. Xã hội có thêm rất nhiều ngành nghề trong hệ
thống nghề nghiệp ở tất cả các lĩnh vực từ nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ…Vì vậy ở tất cả các quốc gia trên thế giới phải xác định vai trò cần thiết
của công tác giáo dục hướng nghiệp. Đã xuất hiện trung tâm nghiên cứu khoa
học hướng nghiệp, trung tâm hướng nghiệp, đào tạo giáo viên, chuyên gia tư
vấn trong và ngoài trường Đại học. Ví dụ: INETOP (Viện nghiên cứu quốc
gia về lao động và hướng nghiệp); CNAM (học viện quốc gia về nghệ thuật
và nghề nghiệp ở Pháp). Kết quả của công tác giáo dục hướng nghiệp không
thể nhìn thấy trong thời gian ngắn mà nó thể hiện trong sự phân công lao
động xã hội, kết quả sản xuất xã hội trong thời gian dài. Kết quả đó còn là sự
phù hợp giữa nhu cầu của xã hội và sự đáp ứng được nhu cầu xã hội của
người lao động.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
1.1.2. Các nghiên cứu trong nƣớc
Ở Việt Nam, giáo dục hướng nghiệp còn là nội dung mới mẻ cả về mặt
lý luận và thực tiễn. Nên việc thiếu về lực lượng tổ chức hoạt động là điều
không thể tránh khỏi. Giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT vẫn còn tính
hình thức, đối phó với yêu cầu đặt ra của Bộ giáo dục – Đào tạo. Vấn đề
hướng nghiệp chỉ thực sự được quan tâm khi nước ta bước vào thời k CNH-
HDH với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự đa dạng của các ngành
nghề trong xã hội và nhu cầu rất lớn về chất lượng nguồn nhân lực. Đến trước
những năm 1970 thì những tư tưởng về hướng nghiệp chỉ dừng lại ở các quan
điểm, chỉ thị, nghị quyết mang tính lãnh đạo của Đảng, Nhà Nước và Bác Hồ
chứ chưa phải là luận điểm mang tính khoa học hay những công trình nghiên
cứu khoa học thực sự .
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói trong bài “Học sinh và lao động”:
“Thi đỗ tiểu học rồi thì muốn vào Trung học, đỗ Trung học rồi thì muốn vào
Đại học. Riêng về mỗi cá nhân thì ý muốn ấy không có gì là lạ. Nhưng chung
đối với xã hội thì ý muốn ấy trở thành vô lí. Vì ở bất xứ nước nào số trường
Trung học ít hơn số trường tiểu học, số trường đại học ít hơn số trường Trung
học. Thế thì những học trò tiểu học và trung học không được chuyển cấp sẽ
làm gì?”[4]. Câu hỏi Bác đặt ra trở thành vấn đề thời sự không chỉ đương thời
mà còn thời sự cho đến tận ngày nay. Bác đã khẳng định chắc chắn rằng “họ
sẽ lao động”. Chỉ có lao động là con đường duy nhất và đúng đắn nhất để các
em tiếp tục phấn đấu. Câu nói của Bác cũng cho thấy một điều không nhất
thiết phải vào đại học con người ta mới thành công được. Trong bài “học cày,
cày giỏi” Người cũng đề cập đến một yếu tố kĩ thuật sản xuất công nghiệp và
nông nghiệp. Đồng thời người cũng chỉ ra rằng những ngành sản xuất chủ yếu
trong xã hội. Điều đó chứng tỏ rằng Bác Hồ là người đầu tiên quan tâm đến

công tác hướng nghiệp cho học sinh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Theo tư tưởng của Người, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới công
tác hướng nghiệp. Điều này được thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết, văn
kiện và các nguyên lí giáo dục. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX ghi rõ: Coi
trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh Trung học, chuẩn bị cho
thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong cả nước và địa phương. Luật giáo dục 2005 đã khẳng
định: giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của Trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn để tiếp tục học Đại
học, Cao đẳng, Trung học, học nghề và đi vào cuộc sống lao động. Chiến lược
phát triển giáo dục 2001-2010 xác định: thực hiện chương trình phân ban hợp
lí nhằm đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ thông, cơ bản theo một chuẩn
thống nhất, đồng thời tạo điều kiện phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp
học sinh có được những hiểu biết kĩ thuật, chú trọng hướng nghiệp tạo điều
kiện thuận lợi cho phân luồng học sinh sau phổ thông, để học sinh vào đời
hoặc chọn nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp.[8].
Theo con đường nghiên cứu khoa học hướng nghiệp ở nước ta, ngành
hướng nghiệp Việt Nam đã có những phát triển mạnh mẽ vào những năm
1970, 1980. Đi đầu phải kể đến GS. Phạm Tất Dong; GS. Phạm Huy Thụ;
GS. Nguyễn Văn Hộ; PGS. Đặng Danh Ánh.
GS Phạm Tất Dong là người có đóng góp to lớn cho giáo dục hướng
nghiệp Việt Nam. Ông đã nghiên cứu các vấn đề về lí luận và thực tiễn của
giáo dục hướng nghiệp. Xác định mục đích, ý nghĩa, vai trò của hướng
nghiệp, nhu cầu, động cơ nghề nghiệp, hệ thống các quan điểm nguyên tắc,
nội dung, phương pháp, biện pháp giáo dục hướng nghiệp…Các công trình
nghiên cứu của ông thể hiện qua những bài báo cáo, bài báo, sách, giáo trình

như bài: “Hướng nghiệp cho Thanh niên” đăng trên tạp chí Thanh niên 8-
1982; Báo cáo “một con đường hình thành lí tưởng nghề nghiệp cho học sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
lớn”; tác phẩm “ nghề nghiệp tương lai giúp bạn chọn nghề”; cuốn “ tư vấn
hướng nghiệp- sự lựa chọn cho tương lai”…Trong công trình nghiên cứu gần
đây, ông chỉ ra rằng công tác hướng nghiệp góp phần điều chỉnh việc chọn
nghề của thanh niên theo hướng chuyển đổi kinh tế. Theo ông đất nước đang
trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp CNH- HDH, xu hướng chọn nghề của
thanh niên sẽ phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
GS. TSKH Nguyễn Văn Hộ là một trong những người có đóng góp rất
lớn trong việc chuyên sâu nghiên cứu về hướng nghiệp. Các công trình nghiên
cứu của thầy đã xây dựng một hệ thống quan điểm rất có ý nghĩa về giáo dục
hướng nghiệp của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong thời gian gần đây nhằm thực hiện hóa những phương hướng mà
Đại hội Đảng toàn quốc lần IX đề ra về giáo dục hướng nghiệp với nhiều cách
tiếp cận khác nhau. Có thể kể đến tác giả Trần Quốc Thành có bài “ Định
hướng giá trị nghề nghiệp cho học sinh lớp 12 THPT một số tỉnh miền núi
phía Bắc” đăng trên tạp chí Tâm lí học 2002. Tác giả Phạm Thị Đức với “
Những nguyên nhân ảnh hưởng tới sự định hướng trong việc học tập, chọn
nghề ở học sinh THPT” trên tạp chí Giáo dục học 2002; Bài “ Giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh phổ thông với việc phát triển nguồn nhân lực” của
tác giả Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê đăng trên tạp chí phát triển giáo
dục 2004; tác giả Hà Thế Truyền, Nguyễn Văn Lê với bài “Để nâng cao chất
lượng giáo dục trong tình hình mới” trên tạp chí Giáo dục 2004… Các tác giả
đã nêu lên xu hướng, động cơ chọn nghề của lớp trẻ, nguyên nhân dẫn đến
động cơ chọn nghề, đồng thời nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục hướng
nghiệp và vấn đề phát triển nguồn nhân lực phục vụ đất nước trong điều kiện

CNH- HĐH. Bên cạnh đó còn phải kể đến các công trình nghiên cứu của các
tác giả Đặng Danh Ánh, Nguyễn Thế Trường, Phạm Huy Thụ, Nguyễn Thanh
Huyền…đã làm rõ thực trạng Giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề cho học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
sinh THPT, đề ra và làm rõ các vấn đề tổ chức hoạt động lao động, tư vấn
nghề cho học sinh PT…
Các nghiên cứu trên thế giới và trong nước đã nói lên một cách hệ
thống cơ sở lí luận về hướng nghiệp cho học sinh nói riêng và cho thế hệ trẻ
nói chung. Từ xu hướng, động cơ, nguyên nhân, cách thức tổ chức tổ chức
hoạt động, định hướng nghề, lựa chọn nghề, thích ứng nghề… nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực và đẩy nhanh sự phát triển của đất nước.
Thực tế cho thấy rằng, xã hội muốn phát triển cần có sự hài hòa giữa
phát triển nguồn nhân lực và nhu cầu của xã hội. Nếu nguồn nhân lực đáp ứng
đủ yêu cầu của xã hội thì sản xuất phát triển, kéo theo sự phát triển của xã hội.
Ngược lại, xã hội có chính sách phát triển đúng đắn để tận dụng nguồn nhân
lực một cách hiệu quả sẽ là động lực để xã hội và người lao động phát triển.
Chính vì vậy, chúng tôi thấy rằng việc nghiên cứu về ảnh hưởng của thị
trường lao động đến sự lựa chọn nghề của học sinh là rất mới mẻ và cần thiết.
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Khái niệm kinh tế thị trƣờng v cơ chế thị trƣờng
Theo từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý (chủ biên) kinh tế thị
trường được định nghĩa là “Giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa
được quyết định bởi thị trường, là sự hoạt động và mở rộng khách quan của
quan hệ hàng – tiền và những quy luật giá trị là đặc trưng nhất”.[6].
Theo từ điển điện tử bách khoa toàn thư: Kinh tế thị trường là nền
kinh tế lấy khu vực kinh tế tư nhân làm chủ đạo. những quyết định kinh tế
được thực hiện một cách phi tập trung bởi các cá nhân người tiêu dung và

các công ty. Việc định giá hàng hóa và phân bổ nguồn lực nền kinh tế cơ bản
được tiến hành theo quy luật cung- cầu. Trái với kinh tế thị trường là kinh tế
hóa tập trung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin có định nghĩa: “KTTT là mô
hình kinh tế mà ở đó các mối quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị
trường thông qua quá trình trao đổi- mua bán. Quan hệ hàng hóa tiền tệ phát
triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. KTTT là giai
đoạn phát triển của kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng
sản xuất”.[1].
Theo tôi kinh tế thị trường là một mô hình mà ở đó có các mối quan hệ
trao đổi- mua bán, quan hệ hàng – tiền, người cung cấp- người sử dụng…
Khi nói đến các quy luật sản xuất hàng hóa của KTTT, chúng ta phải
nói đến cơ chế thị trường. Theo các nhà Kinh tế học thì cơ chế thị trường là
tổng thể các nhân tố quan hệ, môi trường, động lực và quy luật chi phối sự
vận động của thị trường. Nói đến cơ chế thị trường là nói đến cơ chế tự vận
động của thị trường theo quy luật nội tại vốn có của nó mà Nhà Kinh tế học
người Anh thế kỉ XVIII A.Smith đã hình dung nó như “bàn tay vô hình”,
trong đó có một loạt các quy luật kinh tế cùng vận động và quan hệ hữu cơ
với nhau. Đó là các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật lưu
thông tiền tề, quy luật lợi nhuận, cạnh tranh Sự vận động của các quy luật
này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội.
1.2.2. Ảnh hƣởng của kinh tế thị trƣờng đối với đời sống xã hội
KTTT xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội là một tất yếu khách
quan. KTTT không có nghĩa là đồng nhất với Chủ nghĩa Tư bản vì nó là sản
phẩm chung của toàn nhân loại trong quá trình sản xuất hàng hóa và phát triển
của xã hội. Hiện nay nền kinh tế của các nước trên thế giới đều đã, đang phát

triển theo hướng KTTT (tuy rằng mỗi nước có một mô hình kinh tế riêng phụ
thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế - xã hội…). Ở nước ta KTTT được đánh
dấu từ Đại hội lần VI của Đảng (12-1986) thực sự chuyển từ nền kinh tế hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Sau gần 30 năm thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bộ mặt đất nước
ta đang có sự thay đổi từng ngày và nhanh chóng. Từ một đất nước bị tàn phá
nặng nề sau chiến tranh, cơ sở hạ tầng lạc hậu, nền kinh tế nghèo nàn và đời
sống nhân dân vô cùng khó khăn đến nay, nhờ phát triển KTTT theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lí của Nhà nước, nước ta đã và đang
khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Nước ta là thành viên tích cực
của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như ASEAN, WTO, Liên hợp quốc và
mới đây trở thành ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc. Việt Nam đang là nước đững thứ 2 thế giới về xuất khẩu gao, cà phê và
hạt điều, đứng thứ 4 về xuất khẩu cao su, đứng thứ 1 về xuất khẩu hạt tiêu và
là một trong những nước đứng đầu về xuất khẩu thủy sản và hàng may mặc.
Nước ta đang được đánh giá là một trong những nước có tốc độ phát triển
Internet và viễn thông nhanh nhất thế giới. Trước những năm đổi mới, cơ sở
vật chất, giao thông thủy lợi nước ta xếp hàng lạc hậu. Song cho đến nay, hệ
thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt… được nâng cấp và xây
dựng mới với chất lượng tốt, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, các nhà
máy, xí nghiệp, khu công nghiệp được xây dựng ngày càng nhiều trên khắp
mọi miền của tổ quốc, đời sống nhân dân được cải thiện hơn. KTTT tạo sự
năng động cho tất cả các thành phần kinh tế, từ vùng núi, nông thôn tới thành
thị. Ở đó mỗi cá nhân có thể phát huy hết khả năng của mình, đáp ứng yêu
cầu và khẳng định được mình trong xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực mà nền KTTT đem lại, chúng

ta cũng thấy được mặt trái của nó (đặc biệt là trong thời kì quá độ lên nền
KTTT hoàn chỉnh như ở nước ta hiện nay) gây ảnh hưởng không nhỏ đến tất
cả các mặt của đời sống.
KTTT phát triển làm gia tăng khoảng cách giàu – nghèo trong xã hội.
Nó làm cho sự phân biệt giàu nghèo ngày càng trở nên nghiêm trọng. Trong
bước chuyển đổi đi vào kinh tế thị trường, điều kiện của các chủ thể sản xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
luôn biến đổi, họ có cơ hội phát triển, có điều kiện và có cả những sa sút thất
bại… Do nhiều nguyên nhân, một bộ phận dân số không có khả năng để thỏa
mãn những nhu cầu cơ bản, nhu cầu tối thiểu của con người. Cuộc sống của
họ gắn liền với đói nghèo và lạc hậu, đặc biệt là ở các vùng núi, vùng dân tộc
thiểu số, vùng sâu – vùng xa, vùng thuần nông nghiệp. Bộ phận này không
chỉ nghèo trong việc hưởng thụ các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa mà còn
nghèo khổ cả về lương thực, thực phẩm phục vụ cuộc sống hàng ngày. Bên
cạnh đó, một bộ phận dân cư (đặc biệt ở thành thị, trung tâm dịch vụ thương
mại) giàu lên nhanh chóng. Họ đã giàu lại càng giàu hơn. Sự gia tăng và phân
hóa giàu nghèo đã kéo theo hàng loạt những tệ nạn và bất bình đẳng trong xã
hội. Nhà nước cần có những chính sách, biện pháp làm sao cho mọi người dân
đều được hưởng những phúc lợi của xã hội, giảm thiểu sự chênh lệch giữa
người giàu và người nghèo, làm cho xã hội ngày càng phát triển theo tinh thần
Xã hội chủ nghĩa.
KTTT còn làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như lạm phát, đầu cơ tích
trữ (xăng dầu, lương thực…) gây ra biến động giá cả, các tệ nạn xã hội (ma
túy, mại dâm, cờ bạc, hàng giả, hàng kém chất lượng, tệ nạn buôn bán phụ nữ
và trẻ em, tuyên truyền văn hóa phẩm đồ trụy…), ô nhiễm môi trường Tất cả
đang trở thành vấn đề toàn cầu đòi hỏi cả thế giới phải quan tâm.
Một trong những vấn đề phải kể đến đó là sự ảnh hưởng của kinh tế thị

trường đến sự định hướng giá trị của thế hệ trẻ. Giá trị đạo đức truyền thống
là kết quả của sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa nhân loại, phát triển
những giá trị dân tộc trong suốt 4000 năm lịch sử. Nó thể hiện trong lối sống,
quan điểm, quan hệ gia đình, dòng tộc… Từ khi KTTT phát triển, đất nước
mở cửa giao lưu văn hóa, giao thương kinh tế hòa nhập với thế giới, sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, giáo dục thì xã hội có rất nhiều thay đổi.
Thay đổi từ lối sống, chuẩn mực giao tiếp, quan hệ giữa người với người…

×