Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

ĐỀ TÀI: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ DẠY VẬT LÍ LỚP 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.85 KB, 16 trang )

A. PHẦN THỨ NHẤT
I : Lý do chọn đề tài
1.Vị trí, tầm quan trọng của đề tài:
- Thực hiện nguyên lý giáo dục của đảng “Học đi đôi với hành” trong thời kỳ đất
nước trên đà phát triển- thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; trong chiến lược phát
triển,đảng ta xác định, lấy giáo dục làm quốc sách hàng đầu: Đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, nâng cao dân trí…trong nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh.Một nhân cách mang bản sắc dân tộc Việt
Nam,đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội đang thời kỳ mở cửa của kinh tế thị trường.
Như vậy, chất lượng giáo dục trong nhà trường luôn là nỗi bức xúc cúa toàn xã hội. Nhà
trường với nhiệm vụ trọng tâm là đào tạo thế hệ trẻ thành những con người phat triển
toàn diện thông qua quá trình giảng dạy, vì vậy học sinh được tiếp xúc với các môn
khoa học tự nhiên và xã hội trong hệ thống các môm học đó, thì môn vật lý đóng vai trò
quan trọng trong việc thực hiện nguyên lý gíao dục “học đi đôi với hành”.
- Môn vật lý có tầm quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của bậc THCS
có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số kiến thức vật lý cơ bản ở trình độ phổ thông
cơ sở . Bước đầu hình thành ở học sinh các kỹ năng cơ bản thói quen làm việc khoa học,
góp phần hình thành ở học sinh các nhân lực thức và các phẩm chất cách mà mục tiêu
giáo giục bậc THCS đề ra .
- Môn vật lý có mối quan hệ gắn bó qua lại với các môn khác. Nhiều kiến thức và kỹ
năng đạt được qua môn vật lý cơ sở đối với việc học tập các môn khoa học khác, đặc
biệt môn khoa học thực nghiệm đã được toán học ở mức độ cao nên nhiều kiến thức và
kỹ năng toán học được sử dụng rộng rãi trong việc học tập môn vật lý .
- Môn vật lý ở trường PTCS có vị trí cầu nối quan trọng một mặt nó phát triển hệ
thống kiến thức kỹ năng và thái độ mà học sinh đã lĩnh hội và hình thành ở tiểu học,
mặt khác nó góp phần chuẩn bị cho học sinh những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần
thiết để tiếp tục học lên trung học phổ thông và trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc
đi vào lĩnh vực lao động sản xuất, đòi hỏi những hiểu biết nhất định về vật lý .
- 1 -
- Việc giảng dạy vật lý có những khả năng to lớn góp phần hình thành và rèn luyện
học sinh cách thức tư duy và làm việc khoa học, cũng như góp phần giáo dục học sinh ý


thức, thái độ, trách nhiệm đối với cuộc sống gia đình xã hội và môi trường .
B. PHẦN THỨ HAI
I / Cơ sở xây dựng của đề tài .
1. Cơ sở lý luận :
Mục tiêu của môn vật lý THCS là chuyển mạnh từ việc nặng nề chuyền thụ kiến
thức, sang việc chú trọng bồi dưỡng năng lực cho học sinh đặc biệt là năng lực sáng tạo
và năng lực thực hành . Vì thế ngoài việc đổi mới SGK, phải tập trung vào đổi mới
phương pháp dạy học .
Sự đổi mới phương pháp dạy học môn vật lý được thể hiện trên các mạt sau :
a. Khắc phục lối chuyền thụ một chiều
Truyền thụ một chiều là kiểu dạy học đã tồn tại lâu năm trong nền giáo dục của
chúng ta, nét đặc
trưng của nó là : “ giáo viên đối thoại, giảng giải, minh hoạ, làm mẫu kiểm tra, đánh giá
còn học sinh thụ động ngồi nghe, ngồi nhìn thầy cô mà ghi nhớ và nhắc lại’’.
Theo cách đó, giáo viên trình bày giảng giải kiến thức cần truyền thụ cho học sinh
một cách rõ ràng, chính xác, đầy đủ, dễ hiểu . Biểu diễn thực nghiệm một cách thành
công đúng như trong lý thuyết hay đúng như mong muốn cần đạt được, còn học sinh có
hiểu được, làm được phát triển được hay không là trách nhiệm của học sinh.
Việc khắc phục lối truyền thụ một chiều là một hoạt động có tính cách mạng nhằm
chống lại một thói quen đã có từ lâu đời , chống lại biểu hiện đặc quyền của người giáo
viên và dành cho học sinh vị trí chủ động trong học tập .
b. Rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho học sinh .
Muốn rèn luyện thành nếp tư duy, sáng tạo cho học sinh điều quan trọng nhất là giáo
viên phải biết tổ chức hướng dẫn tạo điều kiện cho học sinh tích cực, tự lực tham gia
vào các quá trình tái tạo cho mình những kiến thức phân loại đã có, tham gia giải quyết
các vấn đề học tập. Trong quá trình học tập môn vật lý, sự sáng tạo thể hiện nhiều nhất
ở hai khâu :
- 2 -
+ Đưa dự toán ( xác định giả thiết )
+ Đề xuất phương án thực nghiệm kiểm tra giả quyết

c. Áp dụng phương pháp dạy học tiên tiến , các phương pháp dạy hoạ hiện đại và quá
trình dạy học .
Nền giáo dục của hầu hết các nước tiên tiến trên thế giới của nửa cuối thế kỉ XX đều
rất quan tâm đến năng lực sáng tạo của học sinh, nhiều phương pháp dạy học mới được
thử nghiệm và được những kết quả rất khả quan, nhưng không có một phương pháp vạn
năng nào có thể áp dụng cho mọi hoàn cảnh và đối tượng học sinh .
Do đó khi dạy học môn vật lý, cần sử dụng nhiều phương pháp dạy học , đặc biệt là
các phương pháp như sau :
* Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề :
Phương pháp này đưa học sinh vào hoạt động tìm tòi, nghiên cứu, tự lực hoạt động.
Chương trình sách giáo khoa vật lý 6 chú trọng đến việc xây dựng tình huống có vấn đề,
tạo hứng thú học tập cho học sinh . Đồng thời rất quan trọng việc hướng dẫn học sinh
giải quyết các vấn đề như thu thập thông tin, đề xuất dự án giả thuyết, đưa ra phương
pháp kiểm tra giả thuyết, tập cho học nghiên cứu giải quyết các vấn đề học tập và các
vấn đề thường gặp trong cuộc sống .
* Phương pháp xuất phát từ kinh nghiệm, vốn sống và trình độ của học sinh :
Khi dạy học giáo viên cần coi trọng những kiuến thức có liên quan trực tiếp đến vốn
hiểu biết và kinh nghiệm sống của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh chính xác hoá và
phát triển vốn hiểu biết và kỹ năng của mình . Đặc biệt cần chú ý đến những nội dung
nhằm làm cho học sinh có thể vận dụng các kiến thức và kỹ năng đã chiếm lĩnh được
vào các hoạt động thường ngày, cũng như các hoạt động nghề nghiệp sau này. Như thế
kiến thức của học sinh sẽ vững vàng và sâu sắc hơn , hoạt động nhận thức có kết quả và
ngày càng nâng cao .
* Dạy học phương pháp thực nghiệm :
Phương pháp thực nghiệm được xêm như phương pháp cơ bản trong quá trình tìm
tòi nghiên cứu vật lý . Chương trình vật lý ở THCS chủ yếu là vật lý thực nghiệm , các
kiến thức vật lý được rút ra thực nghiệm và được kiểm tra bằng thực nghiệm. Bởi vậy
- 3 -
khi áp dụng phương pháp thực nghiệm , những kiến thức hiểu biết về phương pháp thực
nghiệm trở thành một loại kiến thức cơ bản quan trọng như các kiến thức vật lý khác .

* Tăng cường hoạt động nhóm , thảo luận lớp :
Việc thảo luận nhóm và tranh luận ở lớp không những tạo điều kiện cho học sinh có
thể giúp đỡ và hỗ trợ nhau trong việc tìm tòi nghiên cứu bảo vệ ý kiến của mình, mà còn
rèn luyện cho học sinh năng lực tự khẳng định, năng lực giao tiếp, ứng sử .
* Rèn luyện khă năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh :
Bất cứ việc học tập nào đều phải thông qua việc tự học của người học thì mới có kết
quả sâu sắc và bền vững . Trong môn vật lý 6 việc rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên
cứu thể hiện trong các hoạt động thu thập thông tin, vận dụng .
Việc áp dụng triệt để từng phương phấp trên , sẽ có hiệu quả rất lớn đến chất lượng
học tập và hình thành năng lực sáng tạo của học sinh . Tuy nhiên việc đó đòi hỏi một
trình độ phát triển khá cao ở học sinh và tốn khá nhiều thì giờ trong dạy học .
Trong điều kiện hiện nay của trường PTCS với trình độ ban đầu của học sinh nhỏ
tuổi bước vào học tập vật lý với vốn kiến thức còn ít, kinh nghiệm hoạt động nhận thức
còn hạn chế, trang thiết bị còn thiếu thốn thì giáo viên cần lựa chọn những mức độ thích
hợp để áp dụng và phối hợp các phương pháp dạy học trên mới có thể đạt được hiệu quả
mong muốn .
1. Cơ sở thực tiễn :
sau một học kỳ giảng dạy môn vật lý 6 ở hai lớp 6a và 6b được dự giờ và trao đổi kinh
nghiệm giảng dạy vật lý với giáo viên trong trường . Tôi nhận thấy một số vấn đề sau :
a. Đối với giáo viên :
Do giáo viên còn chưa nắm chắc cách soạn bài theo phương pháp dạy học mới , nên
việc tổ chức dạy học một tiết vật lý 6 trên lớp còn nhiều hạn chế : giáo viên vẫn còn
giảng nhiều , vẫn đọc cho học
sinh ghi câu trả lời , chưa hướng dẫn học sinh sử dụng triệt để sách giáo khoa , còn lúng
túng trong việc tổ chức học sinh thực hành vật lý theo nhóm , phân bố trong giảng dạy
trong từng hoạt động chưa hợp lý kết quả bài dạy thường bị “ cháy’’ giáo án và hiệu
quả bài chưa cao .
b. Đối với học sinh :
- 4 -
Một số học sinh tỏ ra hứng thú khi học môn vật lý vì sách giáo khoa in đẹp , kênh

hình và kênh chữ rõ ràng , các câu hỏi trong sách giáo khoa gắn gọn và dễ hiểu . Đặc
biệt các em cảm thấy mình có vai trò quan trọng trong giờ học khi được tự tay làm thực
nghiệm , rút ra kết luận và vận dụng kiến thức đã học vào giải thích các hiện tượng vật
lý các em thường gặp trong thực tế . Tuy nhiên do mới được làm quen với môn vật lý và
phương pháp học tập nên các em còn nhiều bỡ ngỡ trong các hoạt động nhận thức vẫn
đòi giáo viên đọc cho chép các câu trả lời , chưa có thói quen tự đọc sách giáo khoa .
đặc biệt kỹ năng thực hành , thực nghiệm vật lý của học sinh rất yếu , việc thực hành
thảo luận theo nhóm còn nhiều lúng túng , nhiều học sinh còn có thói quen trông chờ ỷ
lại vào kết quả học tập của bạn khác .
* Khảo sát lớp triển khai thực hiện đề tài :
Lớp Tổng
số học
sinh
Nữ Dân
tộc
Độ
tuổi
Học lực
Giỏi Khá Trung bình Yếu kém
T/Số Tỉ
lệ
T/Số Tỉ
lệ
T/Số Tỉ
lệ
T/Số Tỉ
lệ

II : Biện pháp thực hiện:
Với phương châm đổi mới phương pháp dạy học là tạo điều kiện để cho học sinh “

suy nghĩ nhiều hơn’’ , để nâng cao dạy học môn vật lý 6 khi trức tiếp giảng dạy và lập
kế hoạch bài học ( soạn giáo án ) cho một bài hay tôi đã thực hiện một số biện pháp sau
đây :
1. Nắm vững được mức độ mục tiêu đã được lượng hoá của từng bài , từng đơn vị
kiến thức đã được trình bày trong sách giáo khoa vật lý 6
Với định hướng dạy học mới , mục tiêu của mỗi bài dạy được thể hiện bằng lới
khẳng định về lượng kiến thức , kỹ năng thái độ mà người học sẽ phải đạt được ở mức
độ nhất định sau tiết học . Mục tiêu của bài học sẽ là căn cứ để đành giá chất lượng học
tập của học sinh và hiệu quả thực hiện bài dạy của giáo viên. Do đó mục tiêu bài học
phải được cụ thể sao cho có thể đo được hay quan sát được tức là mục tiêu bài học phải
được lượng hoá.
- 5 -
- Đối với kiến thức được lượng hoá theo 3 mức độ : nhận biết, thông hiểu, vận dụng .
- Đối với mục tiêu kỹ năng đươc lượng hoa theo 2 mức độ : Làm được một công việc
và làm thành thạo một công việc .
Việc xác định đúng mức đọ mục tiêu cuat từng đơn vị kiến thức trong bài giúp giáo
viên phân bố thới gian hợp lý cho từng hoạt động và hiệu quả bài dạy được nâng cao .
Thí dụ :
Sau khi học bài “ khối lượng riêng - trọng lượng riêng’’ học sinh có khả năng :
Trả lới được câu hỏi :
- “ Khối lượng riêng - trọng lượng riêng của một chất’’ là gì ? ( mức đọ kiến thức
nhận biết )
- Sử dụng công thức: m = D x V và P = d x V để tính khối lượng riêng và trọng
lượng của một vật ( mức độ kiến thức “ vận dụng’’ )
- Sử dụng được bảng tra cứu khối lượng riêng của các chất ( mức độ kiến thức “
thông hiểu’’)
- Đo được trọng lượng riêng của chất làm quả cân ( mức độ kỹ năng “ làm được một
công việc’’)
2. Nghiên cứu cách tổ chức cho học sinh hoạt động chiếm lĩnh kiến thức và kỹ năng
phù hợp với mục tiêu đã được lượng hoá

A . Lựa chọn nội dung kiến thức để tổ chức cho học sinh hoạt động .
SGK vật lý 6 đã trình bày các đơn vị kiến thức theo định hướng hoạt động . Trong
từng đơn vị kiến thức , giáo viên có thể tổ chức các hoạt động khác nhau để giúp học
sinh chiếm lĩnh kiến thức . Căn cứ váo nội dung kiến thức trong SGK tuỳ điều kiện thiết
bị cụ thể , thời gian học tập cho phép, cũng như khả năng học tập cuả học sinh từng lớp
giáo viên cân nhắc và lựa chọn nội dung để tổ chức cho học sinh hoạt động. Trong từng
hoạt động cần thể hiện rõ sự điều khiển của giáo viên và quá trình chiếm lĩnh kiến thức
cũng như kêt quả học tập tương ứng của học sinh .
Các hoạt động thường gặp trong dạy một tiết vật lý 6 là :
* Tổ chức tình huống học tập :
Đây là hoạt động học tập trong thời gian gắn ( từ 3-5 phút ) nhưng có tác dụng tạo ra
sự hứng thú học tập cho học sinh trong cả tiết học. Do đó giáo viên phải tổ chức cho học
- 6 -
sinh thực hiện hoạt động này một cách hiệu quả. đa số các bài có thể dựa vào lời đề dẫn
của sách giáo khoa để dặt ra câu hỏi cho vấn đề cần nghiên cứu vì các hiện tượng vật lý
nêu ra trong các lời đề dẫn của sách giáo khoa đều rất quen thuộc với học sinh.
Thí dụ :
“Một lò so và một dây cao su tính chất nào giống nhau ?’’( bài lực đàn hồi ) “đo
khối lượng của một vật bẵng dụng cụ gì ?’’( bài khối lượng - đo khối lượng ). Hoặc có
những hiện tượng vật lý trong lời đề dẫn tuy học sinh không được nhìn trực tiếp nhưng
qua các phương tiện thông tin mà các em được biết như các ảnh chụp “ tháp ép phen’’, “
tượng đồng huyền thuyên Tuấn Vũ’’
Sau khi học sinh đọc xong lời đề dẫn của sách giáo khoa , giáo viên yêu cầu học
sinh đưa ra dự đoán vấn đề nghiên cứu một cách gắn gọn , không cần giải thích để tiết
kiệm thời gian và tạo cho học sinh sự tò mò , muốn tìm cách kiểm tra dự toán của mình .
Thí dụ :
Giáo viên yêu cầu học sinh dự toán “ có’’ hoặc “ không’’ cho lời đề dẫn của bài “
đòn bẩy’’ hay với lời đề dẫn của bài “ sự sôi’’ giáo viên yêu cầu học sinhdự toán xem
câu trả lời của bạn bình hay bạn An đúng ? Có những bài giáo viên đặt thẳng vấn đề cần
nghiên cứu mà khong yêu cầu học sinh dự toán kết quả nghiên cứu vì nếu để học sinh

dự toán sẽ mất nhiều thới gian của tiết học như các bài : “ sự nóng chảy - sự đông đặc’’,
“ một số ứng dụng về sự nở vì nhiệt’’
Với bài “ khối lượng riêng - trọng lượng riêng’’ giáo viên có thể kết hợp kiểm tra
bài cũ để tạo tình huống bài như sau :
GV ? đo khối lượng trọng lượng của một vật bằng các dụng cụ đo nào ?
HS : đo khối lượng của vật bằng cân , đo trọng lượng của vật bằng lực kế .
GV? Dùng cân và lực kế có thể xác định khối lượng riêng của bất kì vật nào được
không ?Vì sao?
HS : không thể dùng cân và lực kế để xác định khối lượng và trọng lượng của những
vật có kích thước rất lớn như : tảng đá , bức tường , cây cầu
Từ đó giáo viên đặt ra vấn đề cần nghiên cứu của bài :
Với cách tạo tình huống như trên , giáo viên vừa giúp học sinh liên hệ kiến thức đã
học với kiến thức sắp học, vừa tạo hứng thú học tập cho học sinh trong tiết học .
- 7 -
* Thu thập thông tin :
Đây là hoạt động trọng tâm thể hiện trong từng đơn vị kiến thức của bài và rất đa
dạng : thông qua việc làm thí nghiệm hoặc quan sát thí nghiệm do giáo viên làm : Phân
tích kết quả thí nghiệm , quan sát các hiện tượng tự nhiên ; đọc tài liệu, xem tranh ảnh ,
ôn các lại kiến thức đã học…qua đó học sinh thu thập được những thông tin cần thiết về
các vấn đề cần nghiên cứu các hình thức thu thập thông tin trên không tách rời riêng rẽ
mà có liên hệ logic với nhau. Trong một bài hay trong một đơn vị kiến thức có thể gồm
nhiều hình thức thu thập thông tin nhưng đọc SGK là hình thức thu thập thông tin được
học sinh sử dụng nhiều nhất .
Thí dụ :
Trong bài “ khối lượng riêng - trọng lượng riêng’’ đọc sách giáo khoa học sinh
tìm hiểu được các phương án xác định khối lượng của chiếc cột sắt ấn độ , biết được
khối lượng riêng và đơn vị của khối lượng riêng - trọng lượng riêng ; biết được giá trị
khối lượng riêng của các chất , tìm hiểu nội dung công việc phải làm và lập phương án
thí nghiệm để xác định trọng lượng riêng của chất làm quả cân .
Để điều khiển hoạt động này giáo viên phải đưa ra các lệnh ngắn gọn , dễ hiểu như

: “ tự đọc SGK trả lời câu hỏi C1’’, tự tìm hiểu khối lượng riêng của một số chất “ tự
đọc câu C5 để tìm hiểu công việc phải làm’’ , “ các nhóm thảo luận tìm phương án thí
nghiệm xác định trọng lượng riêng của chất làm quả cân’’, các nhóm thí nghiệm theo
phương án đã chọn’’
Trong hoạt động này giáo viên tuyệt đối không được làm thay học sinh mà chỉ là
người theo dõi hướng dẫn học sinh thực hiện . Như vậy hoạt động thu thập thông tin
mới phát huy được tính tích cực học tập của học sinh. Qua hoạt động này học sinh rèn
luyện được khả năng tự đọc, tự nghiên cứu khi đọc sách giáo khoa tìm hiểu thông tin,
rèn luyện được năng lực sáng tạo khi lựa chọn và thiết kế thí nghiệm rèn luyện năng lực
thực hành khi bố trí lắp đặt tiến hành thí nghiệm theo hướng dẫn hoặc thay đổi phương
án thí nghiệm nếu kết quả không phù hợp vơi vấn đề đặt ra , rèn luyện tính cẩn thận
trung thực khi kết quả thí nghiệm hay biểu diễn kết quả thí nghiệm bằng đồ thị , sơ đồ
* Xử lý thông tin :
- 8 -
Căn cứ vào những thông tin đã thu thập , đồng thời qua một hệ thống câu hỏi trong
bài học , học sinh tự rút ra kết luận cần thiết . Trong bài học có những câu hỏi được viết
không chọn vẹn , học sinh phải tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống của các câu này .
Thí dụ :
Từ khái niệm và đơn vị trọng lượng riêng , học sinh trình bày hiểu biết của
mình về các đại lượng d, P , V khi điền vào chỗ trống trong câu C4 có những câu hỏi tự
luận yêu cầu học sinh trình bày đầy đủ hiểu biêt của mình về một vấn đề nào đó thí dụ
từ các số liệu đã cho , học sinh xác định khối lượng của chiếc cột sắt ấn độ từ khái niệm
và đơn vị khối lượng riêng , học sinh biết sử dụng bảng khối lượng riêng của một số
chất .
Khi điều khiển hoạt động này giáo viên cần phải chú ý quan sát từng học sinh làm
việc , kịp thời nhắc nhở những học sinh chưa tích cực học tập còn chông chờ ỷ lại vào
kết quả học tập của bạn hoặc làm việc một cách qua loa , chống đối .
* Vận dụng :
Hoạt động này vừa giúp học sinh vận dụng những kiến thức vật lý vừa được rút ra từ
bài học vào thực tế để hiểu sâu bài , vừa giúp các em tự kiểm tra trình độ của mình .

Phần vận dụng này được SGK trình bày dưới dạng các câu hỏi và các bài tập, trong đó
có bài tập các em tự viết câu trả lời , có bài phải chọn câu trả lời đúng trong các câu trả
lời cho sẵn , một số bài có đánh dấu * là các bài khó dành cho học sinh khá giỏi .
Thí dụ :
Dựa vào cách xác định khối lượng riêng của chiếc cột sắt ấn độ và bảng khối lượng
riêng, học sinh tính được khối lượng của 0.5m3 đá ( C2 ) từ đó đưa ra được công thức m
= D x V ( C3 ) hoặc từ các công thức : m = D x V, P = d x V , d = 10 D học sinh tính
được khối lượng và trọng lượng của chiếc dầm sắt có thể tích 40 dm3 ( C6 ) .
Khi giải các bài tập này học sinh thường lúng túng khi biến đổi công thức để xác
định đại lượng vật lý cần tìm hoặc không biết cách đổi đơn vị thể tích. Giáo viên có thể
gợi ý để học sinh giải quyết được vấn đề chứ không làm thay cho học sinh , có như vậy
kiến thức học sinh nhận được mới bền vững .
- 9 -
Trong hoạt động này, giáo viên luôn là người theo dõi yêu cầu học sinh khá giúp đỡ
các bạn học kém ngồi cạnh mình, để tất cả học sinh đều có thể hoàn thành nhiệm vụ học
tập .
* Ghi nhớ :
Đây là nội dung kiến thức cơ bản của bài mà học sinh phải thuộc và ghi nhớ , được
in chữ đậm trong nền khung màu . giáo viên có thể yêu cầu học sinh tự đọc hoặc tự chép
phần ghi nhớ vào vở
giúp học sinh nắm chắc các kiến thức của bài .
Ngoài các hoạt động trên , trong mọi bài đều có mục “ có thể em chưa biết’’ viết về
những vấn đề lý thú liên quan đến nội dung bài học, phần này giúp học sinh đọc để mở
rộng những kiến thức chưa có điều kiện tìm hiểu ở cấp học này .
Trong từng hoạt động giáo viên có thể phát huy tính tích cực của học sinh ở những
mức độ khác nhau : học sinh có thể tự thực hiện những thí nghiệm đơn giản theo hướng
dẫn sách giáo khoa hoặc trả lời những câu hỏi điền khuyết hoặc học sinh có thể thực
hiện theo đúng hướng dẫn của giáo viên đối với những thí nghiệm phức tạp hơn hoặc
với những câu hỏi tự luận khó . Với câu C1 để xác định khối lượng riêng của chiếc cột
sắt , giáo viên phải có những câu hỏi gợi ý để dẫn dắt học sinh giải quyết vấn đề hoặc

như câu C7 giáo viên phải gợi ý cho học sinh phát hiện được thể tích nước hầu như
không đổi khi cho một lượng rất nhỏ muối ăn vào nước . Từ đó học sinh mới tính được
khối lượng của nước, muối .
Kinh nghiệm của bản thân tôi cho thấy , khi dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt
động nhận thức của học sinh . trong thời gian 45 phút của tiết học giáo viên thường dễ
bị “ cháy’’ giáo án , vì khi phát huy tính tích cực học tập của học sinh càng nhiều thì
càng sảy ra nhiều tình huống khác với dự kiến của giáo viên . Do đó giáo viên cân nhắc
xác định trọng tâm của bài , tuỳ thuộc vào mục tiêu đã được lượng hoá của bài học cũng
như cơ sở thiết bị dạy học có cho phép .
B. DỰ KIẾN HỆ THỐNG CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC SINH HOẠT ĐỘNG :
Trong mỗi học tập hoạt động , giáo viên nên dự kiến hệ thống câu hỏi xen kẽ với
yêu cầu học sinh hoạt động để hướng dẫn học sinh tiếp cận , tự phát hiện và chiếm lĩnh
kiến thức mới . Mỗi hoạt động học tập của học sinh đều nhằm mục tiêu chiếm lĩnh một
- 10 -
kiến thức hay rèn luyện một kỹ năng cụ thể và phục vụ cho việc đạt được mục tiêu
chung của bài học . Do đó hệ thống câu hỏi của giáo viên trong từng hoạt động giữ vững
vai trò chủ đạo quyết định chất lượng lĩnh hội kiến thức của học sinh . Muốn vậy giáo
viên phải:
Giảm số câu hỏi có yêu cầu thấp vềmặt nhận thức mang tính kiểm tra , chỉ yêu cầu
nhớ lại những kiến thức đã biết và trả lời chỉ dựa vào trí nhớ , thường chỉ có một
phương án trả lời đúng ngắn , không cần suy luận .Loại câu hỏi này thường được sử
dụng khi cần đặt mối quan hệ giữa kiến thức
đã học và kiến thức sắp học .
Thí dụ :
Đo khối lượng và trọng lượng của vật bằng các dụng cụ gì ? viết công thức liên
hệ giữa trọng lượng và khối lượng của cùng một vật ? hoặc khi chuẩn bị thức hành thí
nghiệm nếu cách đo thể tích của vật rắn không thấm nước hoặc khi học luyện tập , củng
cố kiến thức vừa học viết công thức tính khối lượng và trọng lượng của một vật ?
Tăng số câu hỏi then chốt nhằm vào những mục đích nhận thức cao hơn , đòi hỏi sự
thông hiểu phân tích tổng hợp , khái quát hoá , hệ thống hoá vận dụng kiến thức đã học

cùng những câu hỏi mở có nhiều phương án trả lời . Loại câu hỏi này thường được sử
dụng khi học sinh bị cuốn hút vào các cuộc thảo luận tìm tòi hoặc khi học sinh tham gia
giải quyết các vấn đề cũng như vận dụng kiến thức đã học và các tình huống mới .
Thí dụ :
Để xác định khối lượng của chiếc cột sắt , phải biết những điều gì ? “ Từ công
thức m = D x V suy ra công thức d và V ?’’ “ Từ công thức d = P/V suy ra công thức
tính P và V’’ khối lượng riêng cuả nhôm là 2.700 kg/ m3 có ý nghĩa như thế nào ? Có
thể tính trọng lượng riêng của một vật theo mấy cách ? có thể viết7.800 kg/ m3 = 78000
N/m3 không ? Vì sao ?
Hiệu quả kích thích tư duy của học sinh khi đặt câu hỏi ở mức độ nhận thức thấp
hay cao phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của học sinh . Sẽ hoàn toàn vô tác dụng nếu
giáo viên đặt câu hỏi khó để học sinh không có khả năng trả lời được hoặc sẽ hoàn toàn
vô nghĩa nếu đặt ra câu hỏi quá dễ với khả năng của học sinh .
- 11 -
Khi học sinh trả lời , giáo viên cần có nhận xét động viên những câu hỏi đúng
cũng như các câu trả lời chưa đúng , nếu tất cả học sinh trả lời sai thì giáo viên cần đặt
câu hỏi đơn giản hơn để học sinh có thể trả lời được vì học sinh chỉ hứng thú học tập khi
các em thành công trong học tập .
Để đạt hiệu quả cao khi đặt câu hỏi cho học sinh , giáo viên nên : dừng lại một
chút sau khi đặt câu hỏi , nhận xét một cách khuyến khích đối với các câu trả lời của học
sinh , tạo điều kiện cho nhiều học sinh trả lời một câu hỏi có câu hỏi gợi ý cho những
câu hỏi khó , yêu cầu học sinh giải thích câu trả lời và liên hệ câu trả lời với các kiến
thức khác . Giáo viên không nên : nhắc lại nhiều lần câu hỏi của mình đưa ra , nhắc lại
câu trả lời của học sinh .
C. Nghiên cứu tổ chức cho học sinh hoạt động trên lớp dưới những hình thức học
tập khác nhau .
Để tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và tránh sự nhàm chán trong giờ
học , GV nên tổ chức nhiều hình thức học tập cho học sinh đó là :
* Hình thức học tập cá nhân :
Đây là hình thức cơ bản nhất vì nó tạo điều kiện cho mỗi học sinh bộc lộ khả

năng học tập của mình ( được tự nghĩ , được làm việc một cách tích cực ) nhằm đạt tới
mục tiêu học tập . Hình thức học tặp cá nhân thể hiện trong các hoạt động của học sinh;
như tự đọc SGK thu thặp thông tin , tự giác kết quả thí nghiệm, tự rút ra nhận xét kết
luận và vận dụng các kiến thức văn học vào tình huống mới.
* Hình thức học tập theo nhóm :
Đây là hình thức học tập được thể hiện theo phương pháp dạy học mới , hình
thức học tập này có ý nghĩa quan trọng là rèn luyện năng lực tư duy của mỗi học sinh
cũng được phát huy .
Tuy nhiên do bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học và thời gian hạn
định của tiết học . khi tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm giáo viên phải biết tổ
chức hợp lý mới có hiệu quả , không nên lạm dụng hoạt động nhóm và đề phòng xu
hướng với những câu hỏi khó hay những vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có sự hợp tác
giữa các cá nhân mới có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập .
Thí dụ :
- 12 -
Trong bài “ khối lượng riêng - trọng lượng riêng’’ học sinh thảo luận nhóm để
đưa ra phương án thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm theo phương án đã chọn để xác
định trọng lượng riêng của chất làm quả cân , thảo luận nhóm đưa ra phương án trả lời
câu hỏi C7 trong phần vận dụng .
Khi tổ chức học tập theo nhóm , giáo viên nên hướng dẫn để mỗi thành viên
trong nhóm đều được tham gia vào công việc của nhóm , tránh tình trạng chỉ dồn hoạt
động của cả nhóm vào một , hai học sinh khá và có ý thức tốt . Đối với những em chưa
tích cực học tập giáo viên có thể yêu cầu học sinh đó làm một công việc cụ thể của
nhóm . Từ đó góp phần hình thành ý thức tự giác của học sinh .
* Hình thức học tập toàn lớp :
Đây là hình thức học tập truyền thống trong nền giáo dục của đất nước ta . hình
thức học tập này được thực hiện trước và sau hai hình thức học tập trên nhằm đảm bảo
tính thống nhất cho các hoật động của học sinh và tính chính xác của mỗi đơn vị kiến
thức được học sinh đưa ra .
Thí dụ :

Trong bài “ khối lượng riêng - trọng lượng riêng’’ hoạt động nhóm có thể tiến
hành theo các bước sau :
+ Giáo viên làm chung với cả lớp :
- Nêu nhiệm vụ nhận thức cho các nhóm : Xác định trọng lượng riêng của chất làm
quả cân .
- Chia nhóm phát dụng cụ cho các nhóm .
- Hướng dẫn học sinh làm việc theo nhóm : Yêu cầu mỗi học sinh thực hiện một
công việc , các học sinh khác quan sát theo dõi và ghi kết quả thí nghiệm vào phiếu học
tập của cá nhân .
+ Học sinh làm việc theo nhóm :
_ Phân việc cho các thành viên trong nhóm : Nhóm trưởng, thư kí, người đo trọng
lượng của quả cân , người báo kết quả thí nghiệm .
_ Từng cá nhân làm việc độc lập theo sự phân công , học sinh khác theo dõi và bổ
sung .
_ Trao đổi thảo luận trong nhóm và cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ của nhóm .
- 13 -
+ Giáo viên làm việc chung với cả lớp ( hướng dẫn học sinh thảo luận , tổng kết
trước cả lớp )
_ Đại diện các nhóm báo cáo kết quả thí nghiệm .
_ Các nhóm nhận xét , đóng góp ý kiến bổ xung .
_ Giáo viên tổng kết và chuẩn xác kiến thức .
Trong thời gian học sinh thực tập theo nhóm giáo viên luôn là người theo dõi ,
hướng dẫn , kiểm tra học sinh , giúp các em làm việc có hiệu quả .
1. Sử dụng sách giáo khoa , thiết bị thí nghiệm và đồ dùng dạy học theo hướng tích
cực .
Sách giáo khoa là tài liệu chính của học sinh , viết cho học sinh sách giáo khoa vật
lý 6 tạo điều kiện xây dựng tình huống có vấn đề, tổ chức các hoạt động nhận thức của
học sinh ( thu thập thông tin , xử lý thông tin và rút ra kết luận ) . Giáo viên căn cứ vào
hoạt động mà học sinh phải thực hiện theo hướng dẫn của sách giáo khoa để định ra
phương pháp dạy mà chủ yếu là hỗ trợ, hướng dẫn tạo điều kiện cho học sinh thực hiện

thành công các hoạt động học, làm trọng tài cho các cuộc thảo luận ở lớp để đi đến
những kết luận hợp lý nhất, cung cấp thên cho học sinh những thông tin dữ liệu mà các
em không có khả năng tự lực tìm kiếm trong giờ học .
Trong môn vật lý 6 các thiết bị dạy học như dụng cụ thí nghiệm , mô hình , tranh
vẽ , biểu bảng phải được sử dụng không chỉ minh họa kiến thức , lời giảng của giáo viên
mà còn là nguồn tri thức , là phương tiện để học sinh khai thác , tìm tòi , phát hiện và
chiến lĩnh kiến thức . Giáo viên phải tạp điều kiện cho nhiều học sinh trải nghiệm trong
thức tế khi làm thí nghiệm , tự đo đạc , quan sát vá rút ta kết luận , tạo điều kiện cho học
sinh tìm hiểu cấu tạo , cách sử dụng một dụng cụ đo :cân Rôbecvan , lực kế , bình chia
độ , nhiệt kế thông qua việc nghiên cứu số liệu cỉa bảng biểu , học sinh có thể rút ra kết
luận cấn thiết . thí dụ: qua bảng khối lượng riêng và rút ra được kết luận các chất khác
nhau có khối lượng riêng kgác nhau .
2. Đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh :
Khi soạn các câu hỏi đánh giá kết quả học tập của học sinh, giáo viên cần kết hợp
các hình thức đánh giá trắc nghiệm khách quan ( câu hỏi điền khuyết , câu hỏi nhiều lựa
- 14 -
chọn , câu hỏi đúng sai ) với các câu hỏi tự luận ( yêu cầu học sinh trình bày phương án
trả lời của mình .)
Khi thực hiện việc kiểm tra đánh giá , giáo viên nên tạo điều kiện cho học sinh tự
đánh giá kết quả học tập của chính mình hoặc của các bạn trong lớp . chẳng hạn giáo
viên tổ chức thảo luận thống nhất câu trả lời trước toàn lớp và cho học sinh tự chấm bài
của mình hoặc đôi một tự chấm bài của nhau .
* Tóm lại :
Để nâng cao hiệu qủa dạy học một tiết vật lý 6 tất cả các biện pháp nêu trên phải
được giáo viên vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp vời trình độ và kinh nghiệm sư
phạm của mình phù hợp với khả nắng học tập của học sinh và điều kiện học tập của
từng tiết học. Nhưng các tiết học phải luôn luôn tạo được không khí sôi nổi trong học
tập, phải phát huy và thể hiện rõ vai trò điều khiển của giáo viên trong hoạt động đó .
III : Kết quả :
Sau khi áp dụng những phương pháp nêu trênở lớp 6A còn lớp 6B không áp dụng

phương pháp này . Tôi nhận thấy kêt qỷa học tập của học sinh lớp 6A cao hơn lớp 6B ở
các bài kiểm tra cụ thể kết quả học tập học kỳ I năm học 2006 - 2007 như sau:
Lớp sĩ
số
Kết quả học tập
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
T/
Số
Tỉ
Lệ
T/
Số
Tỉ
Lệ
T/
Số
Tỉ Lệ T/
Số
Tỉ Lệ T/
Số
Tỉ
Lệ
Quan trọng hơn là các em học sinh rất phấn chấn , thích học lý , không còn cảm thấy
lo lắng và ngại học môn vật lý nữa, như vậy nhờ việc nghiên cứu, áp dụng các biện pháp
tích cực vào dạy học giúp học sinh chủ động trong học tập đạt kết quả cao hơn .
PHẦN THỨ BA : KẾT LUẬN
I : Kết luận chung - Bài học kinh nghiệm
Để nâng cao kết quả học tập môn vật lý 6 ở bậc THCS , mỗi giáo viên phải nắm
được phương pháp giảng dạy môn vật lý, vì phương pháp dạy học là cách thức, là con
đường, là hệ thống và trình tự các hoạt động giữa giáo viên và học sinh . được giáo viên

sử dụng để tổ chức, chỉ đạo và hướng dẫn học sinh tự lực và tích cực đạt tới kiến thức .
- 15 -
Rèn luyện và phát triển kỹ năng các năng lực nhận thức cũng nhhw góp phần hình
thành các phẩm chất, nhân cách mà mục tiêu dạy học đề ra .
Qua việc triển khai nghiên cứu đề tài này tôi thấy đề tài thực sự có kết quả, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học môn vật lý 6 ở trường . Tuy nhiên đề tài còn những thiếu
sót, tồn tại nhất định.


- 16 -

×