Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN ĐẾN SINH TRƯỞNG LOÀI KEO LAI (Acacia mangium x Acacia auriculiformis) TẠI TRẠM THỰC NGHIỆM GIỐNG CÂY RỪNG BA VÌ – HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.37 KB, 97 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
KHOA LÂM HỌC
  
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN ĐẾN SINH TRƯỞNG
LOÀI KEO LAI (Acacia mangium x Acacia auriculiformis) TẠI TRẠM
THỰC NGHIỆM GIỐNG CÂY RỪNG BA VÌ – HÀ NỘI
NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 301
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phạm Thị Huyền
Th.S Nguyễn Thị Thu Hằng
Sinh viên thực hiện: Chu Văn Tiệp – 52C Lâm Học
Khóa học: 2007 – 2011
Hà Nội, 2011
1
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập tại trường Đại học Lâm nghiệp, đến nay khóa học
2007-2011 đã bước vào giai đoạn cuối. Để củng cố kiến thức đồng thời rèn
luyện khả năng nghiên cứu khoa học, được sự cho phép của khoa Lâm học –
Trường Đại học Lâm nghiệp, dưới sự hướng dẫn của cô giáo ThS. Phạm Thị
Huyền và cô giáo ThS. Nguyễn Thị Thu Hằng, em thực hiện khóa luận:
“ Đánh giá ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng loài Keo lai
(Acacia mangium x Acacia auriculiformis) tại Trạm thực nghiệm giống
cây rừng Ba Vì – Hà Nội ”
Đến nay khóa luận đã hoàn thành, nhân dịp này em xin bày tỏ lòng biết
ơn đến cô Phạm Thị Huyền và Nguyễn Thị Thu Hằng đã tận tình hướng dẫn,
truyền đạt những kinh nghiệm và kiến thức trong suốt quá trình làm khóa
luận. Đồng thời, em xin cảm ơn cán bộ tại Trạm thực nghiệm giống cây rừng
Ba Vì – Hà Nội đã giúp đỡ tạo điều kiện cho em điều tra, thu thập số liệu.
Trong quá trình làm khóa luận do thời gian có hạn, trình độ và kinh


nghiệm nghiên cứu còn non yếu nên bản khóa luận không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô
và các bạn để bản khóa luận thêm hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 13 tháng 05 năm 2011
Sinh viên thực hiện
CHU VĂN TIỆP
2
KIỆU MỘT SỐ CHỮ VIẾT TẮT
- Cách viết các dòng Keo lai
BV : Keo lai tự nhiên được phát hiện tại Ba Vì – Hà Nội
BV10 và BV16 : Là các dòng Keo lai tự nhiên được phát hiện tại Ba Vì – Hà
Nội, là giống quốc gia.
BV32 : Dòng Keo lai tự nhiên được phát hiện tại Ba Vì – Hà Nội, là
giống tiến bộ kĩ thuật.
- H
vn
: Chiều cao vút ngọn
- D
1.3
: Đường kính ngang ngực
- D
t
: Đường kính tán
- H
dc
: Chiều cao dưới cành
- Cách viết các công thức thí nghiệm bón thúc
CTTN : Công thức thí nghiệm
- Ct1 : 100g NPK (16:16:8) Việt Nhật + 400g lân Văn Điển (P

2
O
5
= 16%).
- Ct2 : 200g NPK (16:16:8) Việt Nhật + 400g lân Văn Điển (P
2
O
5
= 16%).
- Ct3 : 300g NPK (16:16:8) Việt Nhật + 400g lân Văn Điển (P
2
O
5
= 16%).
- Ct4 : 400g NPK (16:16:8) Việt Nhật + 400g lân Văn Điển (P
2
O
5
= 16%).
- Ct5 : 500g NPK (16:16:8) Việt Nhật + 400g lân Văn Điển (P
2
O
5
= 16%).
- Ct6 : Công thức đối chứng
3
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phân bón cung cấp nhiều nguyên tố dinh dưỡng cần thiết cho thực vật
và bón phân hợp lý có tác dụng rất quan trọng trong việc nâng cao sức chống
chịu, tăng khả năng sinh trưởng đối với rừng trồng. Khi phối hợp bón các loại

phân bón hợp lý sẽ xúc tiến sự trao đổi chất trong cây làm tăng khả năng sinh
trưởng phát triển của cây rừng. Trong trồng rừng điều mong muốn là tăng khả
năng sinh trưởng, chất lượng cây rừng trong những năm đầu để thúc đẩy sinh
trưởng trong những năm tiếp theo. Vì vậy, biện pháp kĩ thuật bón phân là yếu
tố quan trọng trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng rừng để đạt được thành
công của công tác trồng rừng.
Keo lai là giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng (Acacia mangium) và
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis), đây là loài có đặc tính sinh vật học và
sinh thái học ưu việt hơn một số loài cây trồng rừng khác: sinh trưởng nhanh,
biên độ sinh thái rộng, có khả năng thích ứng với nhiều loại đất, điều kiện lập
địa khác nhau, có khả năng cải tạo đất, cải tạo môi sinh, có khả năng đảm bảo
thành công trong rừng trồng và tạo ra vùng trồng nguyên liệu lớn, tập trung
trong công nghiệp.
Trong vài thập kỉ gần đây, nước ta phát triển rừng trồng keo lai ồ ạt,
chưa đầu tư kinh phí thích đáng cho việc chăm sóc với đúng quy trình thâm
canh nên ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng rừng trồng keo lai. Biện
pháp kĩ thuật bón phân là một trong những biện pháp kỹ thuật mũi nhọn nhằm
thúc đẩy mạnh mẽ sinh trưởng của rừng. Tuy nhiên để đảm bảo bón phân có
hiệu quả cần chú ý đến đặc điểm sinh học của loài bởi vì mỗi loài thực vật
khác nhau có nhu cầu về hàm lượng dinh dưỡng khác nhau. Do vậy, cần xem
xét về nhân tố đất nơi trồng các loài để lựa chọn loại phân bón và liều lượng
bón phù hợp cho cây. Nếu không hiểu được nhu cầu dinh dưỡng của từng loài
cây thì mặc dù đã cung cấp thêm dinh dưỡng cho cây nhưng cây vẫn không sử
dụng được. Như vậy, vừa gây lãng phí công sức và tiền vốn mà cây lại thiếu
dinh dưỡng, sinh trưởng kém. Mặt khác, hiện nay trên thị trường có rất nhiều
4
loại phân bón khác nhau nhưng cũng không phải loại phân bón nào cũng tốt
cho cây rừng.
Vì vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón tới sinh trưởng của cây
keo lai với mong muốn làm cơ sở khoa học để đề xuất biện pháp kĩ thuật bón

phân phù hợp cho loài Keo lai nhằm làm cơ sở khoa học xác định loại phân
bón, liều lượng bón, kĩ thuật bón phân phù hợp để Keo lai sinh trưởng và phát
triển tốt đảm bảo thành công trong công tác trồng rừng. Với ý nghĩa như vậy
tôi thực hiện đề tài: “ Đánh giá ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng
loài Keo lai (Acacia mangium x Acacia auriculiformis) tại Trạm thực
nghiệm giống cây rừng Ba Vì – Hà Nội ”
5
Phần 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu tìm hiểu ảnh hưởng phân bón đến cây trồng
1.1.1. Trên thế giới
- 1974: Polster, Fidler, Lir đã có kết luận sinh trưởng của cây thân gỗ phụ
thuộc vào sự hút các nguyên tố khoáng từ đất. Trong suốt quá trình sinh trưởng,
sự hút đó phụ thuộc vào độ dự trữ và mức độ dễ tan của chúng trong đất.
- Prianitnikov, 1964 đã nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến thực
vật và nêu rõ phân bón là nguồn dinh dưỡng bổ sung cho cây sinh trưởng và
phát triển tốt, đối với từng loài cây cần có những nghiên cứu cụ thể tránh sự
lãng phí phân bón không cần thiết,.
- Turbitxki, 1963 đã khẳng định các biện pháp bón phân sẽ được hoàn
thiện một cách đúng đắn theo sự hiểu biết sâu sắc nhu cầu của cây, đặc điểm
của đất và loại phân bón.
- Kali là một nguyên tố khoáng đa lượng rất cần cho cây con gieo ươm
để giúp cây sinh trưởng tốt và tăng khả năng chống chịu với điều kiện bất lợi
của môi trường. Trong giai đoạn cây mới gieo ươm sự sinh trưởng của các cơ
quan bắt đầu, các tế bào trẻ mới hình thành dễ bị tổn thương bởi các điều kiện
bất lợi từ môi trường. Mặt khác kali tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của bộ rễ, làm cho cây cứng cáp tăng sức đề kháng của cây, giảm quá trình
thoát hơi nước và điều hòa quá trình sống làm cho cây khỏe mạnh (Andre
Grro, 1967).
Theo giáo sư Pratuer: để nhận được sản lượng theo dự kiến trong việc

sử dụng có định hướng và tiếp kiệm hơn nguồn phân bón, một cách làm thỏa
mãn nhu cầu thay đổi của cây về dinh dưỡng trong các giai đoạn sinh trưởng
khác nhau của chúng, mặt khác phải sử dụng hợp lý độ phì tự nhiên của đất.
6
D. N. Prianhishnhkov cho rằng trong việc nâng cao thu hoạch cây trồng
50% phụ thuộc phân bón, 25% do chọn giống và 25% do kĩ thuật.
1.1.2. Tại Việt Nam
Nước ta có rất nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của phân bón đến sinh
trưởng của cây rừng như:
- Từ năm 1985-1988 trạm nghiên cứu Lâm nghiệp Ngọc Lạc – Thanh
Hóa thực hiện đề tài: “Thâm canh rừng Luồng lấy măng xuất khẩu” do kĩ sư
Trịnh Đức Trình thực hiện.
- Năm 1986 – 1988, trạm nghiên cứu Lâm nghiệp Thanh Hóa nghiên
cứu đề tài “Biện pháp chăm sóc và khai thác rừng luồng” do kỹ sư Nguyễn
Thị The làm chủ nhiệm.
- Tỉnh Bắc Giang, tỉnh Phú Thọ cũng đã đầu tư rất lớn về phân bón
NPK, phân chuồng cho trồng thâm canh loài tre ngọt.
- Nguyễn Minh Đường, 1986 khi nghiên cứu chế độ phân bón cho một
số loài đã kết luận: Cây sử dụng chất dinh dưỡng, nước trong đất thông qua hệ
rễ, mức độ yêu cầu về số lượng, chủng loại không giống nhau mà phụ thuộc
vào loài cây và thời kì sinh trưởng.
- Trương Thị Thảo từ năm 1989 trong luận án Tiến sĩ “Ảnh hưởng của
dinh dưỡng N.P.K đến chất lượng cây ươm Thông nhựa” đã tìm ra công thức
phân bón ảnh hưởng tốt nhất đến chất lượng cây con Thông nhựa giai đoạn
vườn ươm.
- Nguyễn Thị Mừng, năm 1997 trong luận án Thạc sĩ nghiên cứu ảnh
hưởng của tỷ lệ che bóng, hỗn hợp ruột bầu đến sinh trưởng cây Cẩm lai trong
giai đoạn vườn ươm ở Kontum đã tìm công thức bón phân tốt nhất cho sinh
trưởng cây con Cẩm lai giai đoạn vườn ươm là công thức: 79% đất vườn ươm
+ 18% phân chuồng + 0.5% N + 2% P + 0.5% K và 80% đất vườn ươm +

15% phân chuồng + 1% N + 3% P + 1% K.
7
- Phạm Thị Quyên, 2003 đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số công
thức phân bón đến sinh trưởng rừng Luồng, đưa ra biện pháp có ảnh hưởng
lớn đến sinh trưởng phát triển của rừng Luồng.
- Theo Lê Văn Khoa và cộng sự (1996), cây trồng hút dinh dưỡng trong
phân chuồng hữu cơ chậm hơn phân khoáng, nhưng nếu chỉ nhìn trước mắt
thì thấy phân khoáng tham gia vào năng suất cây trồng nhiều hơn, còn phân
chuồng thì cung cấp dần chất dinh dưỡng cho cây và cung cấp trong một thời
gian dài, tổng số chất dinh dưỡng mà phân chuồng cung cấp cho cây trồng là
rất lớn.
- Công trình nghiên cứu Hoàng Văn Dũng (1996) thử nghiệm về bón
lót các loại phân bón hữu cơ và vô cơ với các tỉ lệ khác nhau cho cây Bần
chua ở giai đoạn vườn ươm.
Riêng với loài Keo lai được trồng thử nghiệm ở nhiều nơi nhưng chưa có
nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của chế độ phân bón đến sinh
trưởng của cây Keo lai trong những năm đầu trồng rừng. Vì vậy khóa luận thực
hiện với mong muốn góp phần đề xuất chế độ phân bón phù hợp với loài Keo
lai để thúc đẩy sinh trưởng rừng trồng trong những năm đầu nhằm nâng cao
năng suất chất lượng rừng trồng.
1.2 Lược sử nghiên cứu về cây Keo lai
1.2.1. Trên thế giới
Keo (Acacia sp) là một chi thực vật thuộc họ phụ trinh nữ
(Mimosoideae) trong họ đậu (Leguminosae) với khoảng 1200 – 1300 loài,
phân bố rộng rãi ở các nước châu Á, châu Đại Dương và cả một số nước châu
phi và châu Mỹ (Turnbull, 1987). Riêng ở Australia đã có tới hơn 900 loài
(Maslin và McDonad, 1996). Các loài keo Australia có thể tồn tại cả trên
vùng bán nhiệt đới ẩm, bán ẩm lẫn các vùng cao nhiệt đới. Chính vì thế chúng
được trồng trên 70 nước trên thế giới và che phủ trên diện tích khoảng 2 triệu
ha (Turnbull, J.W và cộng sự, 1998).

8
Keo lai là tên gọi tắt để chỉ giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng
(Acacia mangium) và Keo lá tràm (Acacia auriculiformis). Giống lai tự nhiên
này được Messrs Herburn và Shim phát hiện vào đầu năm 1972 trong số các
cây keo tai tượng trồng ven đường ở Sook Telupid thuộc bang Sabad của
Malysia. Sau này Tham (1976) cũng coi đó là giống lai. Đến tháng 7 năm
1978, sau khi xem xét các mẫu tiêu bản tại phòng tiêu bản thực vật ở Queens
Land (Australia) được gửi đến từ tháng 1 năm 1977 Ped gley đã xác nhận đó
là giống lai tự nhiên giữa keo tai tượng và keo lá tràm.
Keo lai tự nhiên cũng được phát hiện ở vùng Balamuk và Old Tonda
của Papua New Guinea (Turnbull, 1986; Gun et al, 1987; Griffin, 1988), ở
một số nơi khác tại Sabah đã tìm thấy Keo lai ở 12 nơi (Relds và Lapongan,
1986). Keo lai cũng được phát hiện ở Thái lan (Kijkar, 1992). Ngoài ra, từ
năm 1992 ở Indonesia đã bắt đầu có những nghiên cứu trồng Keo lai từ nuôi
cấy mô phân sinh, cùng Keo tai tượng và Keo lá tràm (Umboh et al,1993).
Keo lai tự nhiên còn được tìm thấy trong vườn ươm Keo tai tượng (lấy giống
tù Malaysia) của Trạm nghiên cứu Jon-pu của Viện nghiên cứu lâm nghiệp
Đài Loan (Kiang Teo et al, 1988) và ở khu trồng Keo tai tượng tại Quảng
Châu (Trung Quốc).
Theo các nghiên cứu của Rufelds (1986) tại khu Ulukukut thì tỉ lệ cây
lai là 3-4 cây/ha, còn theo Wong thì 1 cây lai/500 cây keo tai tượng tại nơi
nghiên cứu này.
Trong giai đoạn vườn ươm cây con Keo lai hình thành lá giả sớm hơn
Keo tai tượng và muộn hơn Keo lá tràm (Rufeds, 1988). Lá giả đầu tiên của
Keo lá tràm thường xuất hiện ở lá thứ 4 – 5 của cây con, Keo tai tượng
thường xuất hiện ở lá thứ 8 – 9 đến 10 – 11 thì lá giả đầu tiên ở Keo lai
thường xuất hiện ở lá thứ 5 – 6 đến lá 8 – 9 (Gan và Sim Boon Liang, 1991).
Ngoài ra, tính chất trung gian giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm của Keo lai
được phát hiện ở các tính trạng khác như hoa tự, hoa và hạt (Bowen, 1981) và
thể hiện rõ nhất khi phân tích Peroxydase isozyme, trong khi phổ isozym của

9
Keo tai tượng có 2 vạch ở vị trí 1, 2; Keo lá tràm có 2 vạch ở vị trí 1, 3 thì
Keo lai có có 3 vạch ở vị trí 1, 2, 3 (Zakaria, 1993).
Theo thông báo của Tham (1976) thì cây lai thường cao hơn cả hai loài
bố mẹ, song vẫn giữ hình dáng kém của Keo lá tràm. Còn theo thông báo của
Wong (dẫn từ Pinso và Nasi, 1991 thì trong nhiều trường hợp ở Sabad cây lai
vẫn giữ được hình dáng đẹp của Keo tai tượng), Ông cũng thấy ưu thế lai của
Keo lai thể hiện rất rõ rệt so với các loài keo bố mẹ. Đánh giá Keo lai tại
Sabad một cách tổng hợp Pinso và Nasi (1991) đã thấy rằng cây lai có thể có
ưu thế lai và có thể bị ảnh hưởng của cả hai yếu tố di truyền lẫn điều kiện lập
địa. Họ cũng thấy sinh trưởng của cây Keo lai tự nhiên đời F
1
tốt hơn xuất xứ
Sabad của Keo tai tượng, song kém hơn xuất xứ ngoại lai như Orimo River
(Papua New Guinea) hoặc Claudie River (Queensland, Australia), còn sinh
trưởng của những cây từ đời F
2
trở đi thì rất không đều với trị số trung bình
còn kém hơn cả Keo tai tượng về độ tròn đều của thân, có đường kính cành
nhỏ hơn và khả năng tỉa cành khá hơn Keo tai tượng, song độ thẳng thân cây,
hình dạng tán lá và góc phân cành lại kém hơn Keo tai tượng. Còn Pinso và
Nasi (1991) lại thấy rằng độ thẳng thân cây, đoạn thân dưới cành, độ tròn đều
của thân… ở cây Keo lai đều tốt hơn các loài keo bố mẹ và cho rằng Keo lai
rất phù hợp với các chương trình trồng rừng thương mại. Cây Keo lai còn ưu
điểm là có đỉnh ngọn phát triển tốt, thân cây đơn trục và tỉa cành tốt
(Pinyopusarerk, 1990).
Cũng chính vì vậy, Keo lai đã được nghiên cứu nhân giống bằng hom
(Griffin, 1988), hoặc nuôi cấy mô phân sinh bằng môi trường cơ bản
(Murashige và Skooge) và cho ra rễ trong phòng và ở nền cát sông 100% với
khả năng ra rễ đến hơn 70% (Darus, 1991).

Như vậy, Keo lai đã được phát hiện khá sớm ở Malaysia và Papua New
Guinea và đã có những nghiên cứu một số tính chất cơ bản về hình thái và sinh
trưởng của chúng, cũng như về khả năng nhân giống hom và nuôi cấy mô.
10
Tuy vậy, đến trước năm 1996 vẫn chưa có những nghiên cứu tính chất
vật lý và cơ học cũng như về tính chất bột giấy của Keo lai. Lại càng chưa có
nghiên cứu về phương thức chăm sóc, biện pháp kĩ thuật bón phân cho các
dòng tốt nhất để phát triển vào sản xuất. Chính vì vậy, Keo lai được phát hiện
khá sớm và mặc dầu đã có những ý kiến về phát triển các giống lai này vào
sản xuất. Song đến trước năm 1996, đến khi có công bố các nghiên cứu của
Viêt Nam, vẫn chưa có các nghiên cứu ứng dụng để phát triển các dòng Keo
lai tốt nhất vào sản xuất.
Lai nhân tạo giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm đã được các nhà khoa
học của Trường Đại học Adelaire, Australia đưa ra và áp dụng ở Malaysia
(Sedgley, Harbard, Smith và Wickneswri, 1991; Sedley, Harbard và Smith,
1992). Năm 1991 đã có một hội thảo do ACIAR tài trợ về: “Lai giống và
Nhân giống keo nhiệt đới Australia” được tổ chức tại Sabad, Malaysia và tại
đây các nhà khoa học đã hướng dẫn cụ thể về phương pháp luận cũng như kỹ
thuật lai cho hai loài keo trên.
1.2.2. Tại Việt Nam
Ở nước ta, Keo lai được Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (Viện
Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) phát hiện tại Ba Vì – Hà Nội, Tân Tạo –
Thành phố Hồ Chí Minh và một số nơi khác.
Các cây lai này đã xuất hiện trong các rừng trồng Keo tai tượng, được
lấy giống từ các khu khảo nghiệm Keo tai tượng trồng cạnh Keo lá tràm tại
Đông Nam Bộ và Ba Vì. Vì thế có thể biết mẹ chúng là Keo tai tượng
(Acacia mangium) và bố chúng là Keo lá tràm (Acacia auriculyformis).
Giống lai vùng Ba Vì được lấy từ khu khảo nghiệm giống Keo trồng
năm 1982 tại Lâm trường Ba Vì. Cây mẹ là Keo tai tượng, xuất xứ Daintree
(thuộc bang Queensland của Australia) ở vĩ độ 16

0
17’N, kinh độ 145
0
31’Đ,
với lượng mưa hàng năm khoảng 800 – 1200mm/năm. Cây bố là Keo lá tràm,
và xuất xứ Darwin (thuộc bang Northern territory của Australia) có vĩ độ
11
12
0
26’N, kinh độ 132
0
16’Đ, với lượng mưa hàng năm khoảng 1500-
1900mm/năm.
Giống lai vùng Đông Nam Bộ được lấy từ khu khảo nghiệm giống keo
trồng năm 1984. Cây mẹ là Keo tai tượng xuất xứ Mossman (thuộc bang
Queensland của Australia) có vĩ độ 16
0
20’N, kinh độ 145
0
24’Đ với lượng
mưa hàng năm khoảng 800 – 1200mm. Cây bố là Keo lá tràm được đưa vào
gây trồng trước đây không rõ xuất xứ hoặc thuộc xuất xứ Oenpelli (thuộc
bang Northern Territory của Australia) ở vĩ độ 12
0
20’N, kinh độ 133
0
04’Đ
với lượng mưa hàng năm khoảng 1300 – 1700mm.
Như vậy các giống lai ở nước ta dù được phát hiện hoặc lấy giống ở
miền Bắc hay miền Nam về cơ bản đều có cây mẹ thuộc cùng vùng sinh thái

giống nhau, do đó có khả năng phát triển như nhau trên các vùng sinh thái
chính ở nước ta. Tuy nhiên do đặc điểm sinh trưởng và phát triển riêng biệt
của chúng nên các giống này có thể có ưu thế lai khác nhau rõ rệt.
Ngay sau khi các cây lai được phát hiện đã có những nghiên cứu về các
tính chất của gỗ, các đặc điểm sinh trưởng, sinh thái… của loài cây đầy tiềm
năng này. Các nghiên cứu có thể kể đến như: những nghiên cứu đầu tiên
nhằm xác định xuất xứ loài cây bố mẹ. Tiếp đó là các nghiên cứu về hình thái
thân cây con, hình thái lá, quả và một số đặc trưng quan trọng khác như khả
năng cố định đạm cải tạo đất, tiềm năng bột giấy, nhân giống bằng hom và
khả năng nuôi cấy bằng mô phân sinh, những nghiên cứu về chọn cây trội,
khảo nghiệm dòng vô tính. Ngoài những nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học,
sinh thái học cây Keo lai còn được nghiên cứu trên các phương diện khác như
hiệu quả kinh tế khi gây trồng, đến các biện pháp lâm sinh để giảm thiểu tác
hại của các loại sâu bệnh hại đến năng suất và chất lượng rừng trồng. Cây
Keo lai không chỉ được nghiên cứu với tư cách là loài cây trồng rừng theo
phương thức quảng canh mà còn được nghiên cứu theo hướng thâm canh tăng
năng suất như ảnh hưởng của bón lót đến sinh trưởng của cây, phản ứng của
cây giai đoạn mới trồng với các loại phân bón, tiếp theo là các biểu sản phẩm,
12
tuổi thành thục công nghệ đến các biện pháp chuyển đổi mục đích sử dụng
đối với các loại rừng trồng thuần loài loại cây này. Với sự những nghiên cứu
khá đầy đủ nên diện tích trồng Keo lai liên tục được tăng lên trong những
năm gần đây (năm 1995 cả nước mới trồng được 160ha Keo lai thì đến hết
năm 2004 diện tích trồng Keo lai trong cả nước đã hơn 100.000 ha, riêng năm
2003 đã trồng 46.100 ha), đây cũng là một trong những giống cây trồng chủ
yếu ở miền Trung và miền Nam nước ta, đặc biệt là ở vùng Đông Nam Bộ.
Như vậy, Keo lai sinh trưởng nhanh hơn rõ rệt so với các loài cây bố
mẹ, song đây là giống lai tự nhiên nên muốn trồng rừng có năng suất cao phải
dùng giống đã được Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn công nhận
(BV10, BV16, BV32, TB3, TB5, TB6, TB12, KL2). Mặt khác đây là giống

lai đời F
1
nên không thể dùng hạt để gây trồng rừng mới mà phải dùng cây
hom hoặc cây mô của những giống đã qua khảo nghiệm. Bên cạnh đó việc
phương thức trồng và bón phân phù hợp cũng giúp cây Keo lai phát triển tốt,
để đáp ứng việc trồng rừng sản xuất quy mô.
13
Phần 2
MỤC TIÊU – NỘI DUNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng của loài Keo lai làm
cơ sở khoa học xác định loại phân bón, liều lượng bón phù hợp cho Keo lai
trồng tại Trạm thực nghiệm giống cây rừng Ba Vì – Hà Nội nhằm thúc đẩy
sinh trưởng rừng Keo lai và nâng cao năng suất chất lượng rừng.
2.2. Giới hạn nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian cũng như điều kiện nghiên cứu nên tôi chỉ nghiên
cứu ảnh hưởng của các công thức bón thúc bón lót đến sinh trưởng, chất lượng
loài Keo lai và một số tính chất của đất trong những năm đầu trồng rừng.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Căn cứ vào mục tiêu và giới hạn khóa luận xác định một số nội dung
chính sau:
2.3.1. Ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng của Keo lai.
2.3.2. Ảnh hưởng của phân bón đến tỷ lệ sống, chết của keo lai.
2.3.3. Ảnh hưởng của phân bón đến chất lượng cây Keo lai.
2.3.4. Ảnh hưởng của phân bón đến một số tính chất của đất.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Ngoại nghiệp
2.3.1.1. Phương pháp kế thừa số liệu
+ Kế thừa các các tài liệu liên quan đến khu vực nghiên cứu bao gồm
các tài liệu về đặc diểm tự nhiên và các yếu tố tự nhiên khác. Tài liệu thu thập

tại Trạm và kết hợp với đi khảo sát ngoài thực địa.
+ Tài liệu có liên quan đến đối tượng nghiên cứu: Đề tài tham khảo và
kế thừa một số tài liệu từ các khóa luận, luận văn, sách tại Thư viện Trường
Đại học Lâm nghiệp và một số tài liệu tại Trạm giống.
+ Lịch sử rừng trồng.
2.3.1.2. Điều tra thực địa
* Phương pháp điều tra sinh trưởng của Keo lai trong các công thức thí
nghiệm.
14
- Công thức bố trí thí nghiệm bón phân của Trạm thực nghiệm giống cây rừng
Ba Vì - Hà Nội như sau:
+ Địa điểm: Cẩm Quỳ - Ba Vì – Hà Nội.
+ Thời gian trồng: Tháng 7/2009
+ Loài cây thí nghiệm: 3 dòng Keo lai: BV10, BV16, BV32
+ Thiết kế thí nghiệm: Bố trí 6 công thức thí nghiệm với 3 lần lặp. Mỗi
thí nghiệm gồm 64 cây/công thức, trồng 8 cây/1 hàng.
+ Mật độ trồng 1100 cây/ha, cự li khoảng cách 3x3m.
+ Bón lót: mỗi hố đều bón 400g supelân Văn điển (P
2
O
5
= 16%) + 100g
NPK(16:16:8) Việt Nhật mỗi loại phân được trộn đều từng bên. Tuy nhiên
các công thức bón thúc bố trí giống nhau về lượng phân bón supelân (đều bón
400g/gốc) song khác nhau về lượng NPK. Số lượng công thức nghiên cứu
bón phân cho Keo lai được tổng hợp trên biểu sau:
Biểu 2.1: Các công thức thí nghiệm bón phân cho Keo lai
Công thức bón
phân
Bón thúc

Ct 1
100g NPK (16:16:8) Việt Nhật + 400g supelân (P
2
O
5
= 16%)
Ct 2
200g NPK (16:16:8) Việt Nhật + 400g supelân (P
2
O
5
= 16%)
Ct 3
300g NPK (16:16:8) Việt Nhật + 400g supelân (P
2
O
5
= 16%)
Ct 4
400g NPK (16:16:8) Việt Nhật + 400g supelân (P
2
O
5
= 16%)
Ct 5
500g NPK (16:16:8) Việt Nhật + 400g supelân (P
2
O
5
= 16%)

Ct 6
Đối chứng
Do đây là mô hình thí nghiệm đã được bố trí nghiên cứu sẵn. Vì vậy,
khóa luận đo tất cả cây về các chỉ tiêu D
1,3
, H
vn
, H
dc
, D
t
, phẩm chất trong từng
công thức thí nghiệm phân bón.
15
- Do thí nghiệm trồng ở các vị trí khác nhau, nên tôi tách riêng theo vị
trí chân, đỉnh.
- Đường kính (D
1.3
): Dùng thước kẹp kính hoặc dùng thước dây đo
đường kính theo hai chiều ĐT – NB sau đó lấy giá trị trung bình.
- Chiều cao vút ngọn (H
vn
): Dùng sào đo cao, đo từ mặt đất đến sinh
trưởng ở ngọn với độ chính xác đến cm.
- Chiều cao dưới cành (H
dc
): Dùng sào đo cao từ mặt đất đến cành đầu
tiên tham gia vào tầng tán chính của cây với độ chính xác đến cm.
- Đường kính tán (D
t

): Dùng thước đo dây đo hình chiều tán cây theo
hai chiều Đông Tây – Nam Bắc. Sau đó lấy trị số trung bình với độ chính xác
đến cm.
* Điều tra chất lượng của Keo lai trong các công thức thí nghiệm
Cùng với việc đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng trên các ô tiêu chuẩn, đề
tài kết hợp đánh giá chất lượng Keo lai trong lâm phần để xác định tỷ lệ tốt,
trung bình, xấu.
Việc đánh giá cây tốt, trung bình, xấu dựa vào hình thái cây, thân cây,
tán lá, về trạng thái sinh trưởng của cây.
Cây tốt là những cây thẳng, đẹp, tròn đều, tán rộng, không cong queo,
không sâu bệnh, không cụt ngọn, sinh trưởng và phát triển tốt.
Cây trung bình là những cây có thân hình cân đối, tán lá rộng, không
cong queo, không sâu bệnh, không cụt ngọn, sinh trưởng và phát triển bình
thường.
Cây xấu là những cây cong queo, sâu bệnh cụt ngọn, sinh trưởng và
phát triển kém. Kết quả đo ghi vào mẫu biểu 01:
16
Mẫu biểu 01: Biểu điều tra sinh trưởng và đánh giá chất lượng
Địa điểm: Ngày điều tra:
Công thức thí nghiệm: Người điều tra:
Loại phân: Liều lượng:
STT
D
1.3
(cm)
D
t
(m)
H
vn

(m)
H
dc
(m)
Phẩm chất
Đ - T N - B TB Tốt Xấu TB
2.3.2. Nội nghiệp
Phương pháp xử lý số liệu.
+ Sử dụng Excel để tính toán.
• Xác định tỷ lệ cây sống, chết.
Tính số cây sống, cây chết của tất cả công thức thí nghiệm, kiểm tra sự
thuần nhất giữa các mẫu quan sát và chất lượng theo tiêu chuẩn χ
2
qua các
bước sau:
a. Lập bảng tính
CTTN
Cây chất lượng
1 2 …… A
Tổng
số cây
Sống (cây) S1 S2 …… Si Ts
Chết (cây) C1 C2 …… Ci Tc
Tổng số (cây) T1 T2 …… Ti T
Tra bảng để xác định với bậc tự do K = (C – 1)(n – 1)
Với: C là cấp chất lượng
17
N là công thức thí nghiệm
b. So sánh (tra bảng)
- Nếu > thì kết luận có sự sai khác rõ rệt về tỷ lệ cây sống, cây

chết qua các công thức thí nghiệm
- Nếu <= thì kết luận chưa có sự sai khác rõ rệt về tỷ lệ cây sống,
cây chết trong các công thức thí nghiệm
Các chỉ tiêu sinh trưởng H và D được chỉnh lý và tính các đặc trưng mẫu theo
phương pháp bình quân gia quyền.
- Giá trị bình quân:
Trong đó: n là dung lượng mẫu
m là số tổ ( )
là tần số quan sát
- Sai tiêu chuẩn:
- Hệ số biến động:
18
Để kiểm tra mức độ ảnh hưởng của chế độ phân bón đến sinh trưởng
Keo lai, tôi sử dụng phương pháp phân tích phương sai 2 nhân tố. Các bước
như sau:
- Lập bảng tính:
B
A
Cấp nhân tố B S
i
(A) X
i
(A)
1 2 3 4 5 6
Cấp
nhân
tố A
1 X
11
… … … … X

1b
2 … … … … … …
3 X
1a
… … … … X
ab
S
j
(B) S
X
j
(B) S
A là nhân tố lặp, được chia làm 3 lặp (tương ứng 3 khối)
B là nhân tố phân bón, chia làm 6 cấp (tương ứng với 6 công thức bón phân)
a, b là các cấp tương ứng với nhân tố A, B
Si (A) là tổng trị số quan sát cấp i của nhân tố A
Sj (B) là tổng trị số quan sát cấp j của nhân tố B
Xi (A) là trị số trung bình cấp i của nhân tố A
19
Xj (B) là trị số trung bình cấp j của nhân tố B
S là tổng trị số quan sát ngoài thí nghiệm
là trị số trung bình toàn thí nghiệm
- Phân tích phương sai và kiểm tra ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả thí
nghiệm.
Tính biến động tổng số:
Biến động do nhân tố A:
Biến động do nhân tố B:
Biến động ngẫu nhiên:
20
- Sử dụng tiêu chuẩn Fisher (với độ tin cậy 95% áp dụng trong lâm nghiệp) để

kiểm tra giả thuyết.
So sánh với F
05
tra bảng, bậc tự do K
1
= a – 1, K
2
= (a – 1)(b – 1)
+ Nếu F
A
<= F
05
thì việc phân khối không ảnh hưởng tới sinh trưởng Keo lai.
+ Nếu F
A
> F
05
thì việc phân khối có ảnh hưởng tới sinh trưởng Keo lai.
+ Nếu F
B
<= F
05
thì chế độ phân bón khác nhau ảnh hưởng chưa rõ rệt tới
sinh trưởng Keo lai.
+ Nếu F
B
> F
05
thì chế độ phân bón khác nhau ảnh hưởng rõ rệt tới sinh
trưởng Keo lai.

- Trường hợp F
B
> F
05
, tiến hành tìm công thức phân bón hiệu quả cho sinh
trưởng Keo lai thông qua công thức sau:
Với n
1
, n
2
lần lượt là dung lượng mẫu ứng với công thức thí nghiệm có
trị số trung bình lớn thứ nhất và thứ hai.
là cặp trị số trung bình lớn thứ nhất và thứ hai trong
công thức thí nghiệm.
+ Nếu t
tính
<= t
05
tra bảng, bậc tự do K = a.b, kết luận chưa có sai dị rõ
rệt, do vậy có thể chọn một trong hai công thức phân bón hiệu quả cho sinh
trưởng Keo lai.
21
+ Nếu t
tính
> t
0,
kết luận có sai dị rõ rệt, chọn công thức có trị số trung
bình lớn nhất là công thức phân bón hiệu quả cho sinh trưởng Keo lai.
22
Phần 3

ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN KHU VỰC NGHIÊN CỨU VÀ LỊCH SỬ
RỪNG TRỒNG
3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
3.1.1. Vị trí địa lý
Khu vực Cẩm Quỳ thuộc xã Cẩm Lĩnh – Ba Vì – Hà Nội, có tọa độ địa lý từ
21
0
0'0'' đến 21
0
0'7
''
độ Vĩ Bắc, 105
0
0'0'' đến 105
0
0
'
25
''
độ Kinh Đông.
+ Phía Bắc giáp thôn Bằng Tạ, xã Cẩm Lĩnh
+ Phía Nam giáp thôn 2 và thôn 5 xã Ba Trại
+ Phía Tây giáp thôn Bằng Y, xã Sơn Đà
+ Phía Đông giáp thôn Cẩm An, xã Cẩm Lĩnh
Khu vực nghiên cứu cách hồ Suối Hai 3km, với diện tích của hồ là
1000 ha. Trong khu vực nghiên cứu có hồ Cẩm Quỳ rộng 80 ha. Ngoài ra
khu vực nằm gần hạ lưu sông Đà.
3.1.2. Địa hình
Cẩm Quỳ là vùng bán sơn địa có những đồi bát úp liên tục không bị
chia cắt, khá đồng nhất. Độ cao bình quân khoảng 40m, đồi cao nhất có độ

cao là 62m, đồi thấp nhất có độ cao 20m. Độ dốc bình quân 8 – 10
0
, một số
nơi có độ dốc 15 – 20
0
.
3.1.3. Địa chất thổ nhưỡng
Thành phần đá mẹ phân bố trong Ba Vì là rất phong phú và đa dạng
gồm các loại đá chính sau:
Đá biến chất phân bố thành một dải từ Đá Chông đến Ngòi Lát và chiếm
hầu hết các sườn phía Đông. Ngoài ra chúng còn phân bố ở Đồng Vọng, xóm
23
Sản. Thành phần chính của nhóm này gồm Diệp thạch kết thinh, đá Gnai và
Diệp thạch xenrixit lẫn các lớp quăc zit.
Đá vôi được phân bố ở khu vực Chẹ, xóm Mít, xóm Quýt.
Đá trầm tích phân bố ở xã Ba Trại từ Suối Đò, Cầu Gỗ đến Mỹ Khê.
Tại thôn Phú Phong – xã Cẩm Lĩnh (có tên thường gọi là Cẩm Quỳ)
loại đất chủ yếu là đất Feralit màu nâu đỏ hoặc nâu vàng phát triển trên phiến
thạch sét. Tầng đất mỏng từ 0 – 15 cm là chủ yếu, một vài khu vực như đồi
Năm Voi, trại Quân Pháp có tầng đất từ 50 – 100 cm, nguyên nhân là do khu
vực này ít bị xói mòn, thực bì đại đa số là lớp tế guột đan xen vào nhau, phía
trên là rừng keo có độ tàn che cao, mặt khác khu vực này là khu quân sự
được bảo vệ nghiêm ngặt nên ít chịu tác động của con người. Đất của khu
nghiên cứu thí nghiệm thuộc Trạm thực nghiệm giống cây rừng Ba Vì rất
xấu. Nguyên nhân do từ những năm 60 của thế kỷ trước rừng tự nhiên bị dân
định cư đến tàn phá. Thay thế vào đó là rừng trồng thuần loài Bạch đàn liễu
kéo dài 30 năm khiến đất đai trở nên cằn xấu. Từ những năm 1990 trở lại đây
rừng Bạch đàn đã được thay thế bằng rừng keo, đất đai đã phần nào được cải
tạo nhưng chưa đáng kể.
3.1.4. Khí hậu, thủy văn

Kết quả theo dõi khí hậu của trạm khí tượng thủy văn Trạm thực
nghiệm Ba Vì năm 2009 được trình bày trên bảng 3.1 (Trang sau):
24
Bảng 3.1: Tổng hợp các nhân tố khí hậu năm 2009 của trạm Ba Vì
Tháng Nhiệt độ (
o
C) Độ ẩm (%) Lượng mưa (mm)
Max Min TB Max Min TB TB
1 28,6 5,6 17,7 99 50 82 1
2 27,1 7,6 15,4 100 50 87 25
3 30,4 9,9 19,9 100 40 86 35
4 34,3 19 24,3 100 54 85 141
5 37,7 18,9 26,6 98 47 82 172
6 38 21,6 27,7 97 54 82 281
7 36,2 24 28,4 98 49 83 332
8 36 23,2 28,2 97 56 85 266
9 35,5 19,2 26,5 100 41 84 231
10 33,3 15,4 24,4 99 48 87 196
11 29,3 11,5 20,5 100 42 81 0
12 27,6 11,7 18,6 99 40 78 0
TB 32,6 15,8 23,2 99 48 84 1680
(Theo số liệu của trạm khí tượng thủy văn Trạm thực nghiệm Ba Vì năm 2009.)
Dẫn liệu từ bảng 3.1 cho thấy:
Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có hai mùa
khá rõ rệt là mùa khô và mùa mưa, có nhiệt độ trung bình trong năm là
23,2
0
c. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10. Mùa khô kéo dài từ tháng
11 đến tháng 3 năm sau. Tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 7 (với nhiệt độ
25

×