Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận môn Lý thuyết tài chính tiền tệ Mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và ngưỡng bội chi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.35 KB, 27 trang )

B GIO DC V ĐO TO
TRƯỜNG ĐI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA KIỂM TON

Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ
Đề tài:
Mối quan hệ giữa lạm phát
mục tiêu và ngưỡng bội
chi
Giáo Viên Hướng Dẫn : Trương Minh Tuấn
Sinh Viên Thực Hiện : Nhóm 8
Lớp : VB2KI15
1
Tp. HCM Ngày 30, tháng 10 năm 2012
Thông Tin Nhóm 8
Họ Tên MSSV Số Báo Danh Chữ Ký
Vũ Văn Nam
Nguyễn Thị Mỹ Ý
Nguyễn Thị Kim Vân
Huỳnh Thị Như Ngọc
Trần Thị Minh Phương
2
Mục Lục
Mục Lục 3
Các Thuật Ngữ Viết Tắt 4
Lời Mở Đầu 5
I.Lạm phát mục "êu 6
1.Khái niệm 6
2.Điều kiện để thực hiện khuôn khổ lạm phát mục "êu 6
3.Các bước thực hiện chính sách lạm phát mục "êu 8
4.Cơ sở đưa ra chỉ "êu lạm phát 8


5.Khả năng áp dụng Chính sách lạm phát mục "êu tại Việt Nam 11
II.Bội chi ngân sách nhà nước 15
1.Khái niệm bội chi NSNN 15
2.Nguyên nhân bội chi NSNN 16
3.Các giải pháp xử lý bội chi NSNN 17
4.Thực trạng bội chi ngân sách ở Việt Nam 19
III.Mối quan hệ giữa lạm phát mục "êu và ngưỡng bội chi 21
IV.Những vấn đề đặt ra về xử lý bội chi NSNN nhằm kiềm chế lạm phát 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
3
Các Thuật Ngữ Viết Tắt
NHTW : Ngân Hàng Trung ương
NSNN : Ngân Sách Nhà Nước
QH : Quốc hội
ĐBQH : Đại biểu quốc hội
TCNS : Tài chính ngân sách
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
UNDP : Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
4
Lời Mở Đầu
Trong thời gian qua, lạm phát cao luôn là mối đe dọa đối với sự ổn định kinh tế vĩ
mô và tăng trưởng kinh tế dài hạn ở Việt Nam. Quá trình hội nhập quốc tế và tự do
hóa tài chính mạnh mẽ trong khi những nền tảng kinh tế vĩ mô còn lỏng lẻo khiến
nhiều người hoài nghi về khả năng ổn định và kiểm soát lạm phát trong những năm
tới. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận lại cơ chế điều hành chính
sách tiền tệ ở nước ta hiện nay. Một câu hỏi đã và đang thu hút sự quan tâm của
nhiều đại biểu Quốc hội và các chuyên gia kinh tế là phải chăng cơ chế điều hành
chính sách tiền tệ hiện nay không thực sự mang lại hiệu quả trong bối cảnh kinh tế
trong nước diễn biến phức tạp và ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế
thế giới đầy biến động.Với chính sách tiền tệ đa mục tiêu, chúng ta kỳ vọng vừa

đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, vừa kiểm soát giá cả - lạm phát, ổn định tiền tệ cũng
như sử dụng chính sách tiền tệ như một công cụ bổ trợ ổn định ngân sách, xóa đói
giảm nghèo, bảo đảm an ninh quốc gia.
Trong những năm gần đây cơ chế này đã bộc lộ rõ những hạn chế của mình. Kinh
nghiệm nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy lạm phát mục tiêu có thể là một lựa
chọn hợp lý cho chính sách tiền tệ ở nước ta trong thời gian tới, theo đó duy trì
mức lạm phát hợp lý và ổn định trở thành mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ
để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
5
I. Lạm phát mục tiêu
1. Khái niệm
Lạm phát mục tiêu là một trong những khuôn khổ chính sách tiền tệ mà theo đó,
NHTW hoặc Chính phủ thông báo một số mục tiêu trung hạn về lạm phát và
NHTW cam kết đạt được những mục tiêu này.
2. Điều kiện để thực hiện khuôn khổ lạm phát mục tiêu
Các điều kiện cơ bản để một quốc gia có thể theo đuổi được khuôn khổ lạm phát
mục tiêu có thể được chia thành 4 nhóm chính:
1. Nhóm điều kiện đầu tiên và có lẽ là quan trọng nhất đó là NHTW được
trao quyền cao và sự tín nhiệm để theo đuổi lạm phát mục tiêu:
- Ngân hàng Trung ương phải có quyền đặc biệt để theo đuổi mục tiêu lạm
phát và tự mình đặt ra các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Công chúng phải được thông báo về khuôn khổ chính sách tiền tệ và việc
thực hiện chính sách tiền tệ.
2. Nhóm điều kiện thứ hai liên quan đến vấn đề đảm bảo mục tiêu lạm phát
là mục tiêu chính, không phải là mục tiêu hỗ trợ cho mục tiêu khác. Nhóm này bao
gồm các điều kiện:
- Chính sách tiền tệ không bị chi phối bởi các ưu tiên về ngân sách Chính
phủ; Chính phủ tăng ngân sách bằng việc huy động các nguồn vốn trên thị
trường tài chính và hạn chế tuyệt đối việc cấp tín dụng cho Chính phủ.
- Vị thế bên ngoài đủ mạnh để đảm bảo cho chính sách tiền tệ theo đuổi mục

tiêu lạm phát là mục tiêu hàng đầu.
- Khi bắt đầu thực hiện khuôn khổ lạm phát mục tiêu thì lạm phát cần ở mức
thấp để đảm bảo cho sự điều chỉnh kiểm soát tiền tệ thích hợp.
6
3. Nhóm điều kiện thứ 3 liên quan đến vấn đề phát triển và ổn định thị
trường tài chính để thực hiện khuôn khổ này. Nhóm này bao gồm các điều kiện:
- Cần phải có thị trường tài chính ổn định để đảm bảo cho chính sách tiền tệ
theo đuổi các mục tiêu lạm phát và không bị tác động bởi các lo lắng về sức
khoẻ của thị trường tài chính.
- Thị trường tài chính cần phát triển ở mức nhất định để đảm bảo chính sách
tiền tệ được thực hiện bằng các công cụ thị trường tài chính và đảm bảo việc
thực hiện chính sách tiền tệ không gặp rắc rối do sự yếu kém của thị trường
tài chính.
4. Nhóm điều kiện thứ 4 liên quan đến các công cụ của chính sách tiền tệ:
- NHTW phải ở vị thế tác động đến lạm phát thông qua các công cụ chính
sách và cần thiết phải hiểu các mối quan liên kết giữa vị thế chính sách và
lạm phát.
- Các mục tiêu về tỷ giá phải hỗ trợ cho mục tiêu lạm phát. Do đó, NHTW
nên cố gắng làm sáng tỏ vấn đề can thiệp vào thị trường ngoại hối và các
thay đổi về chính sách lãi suất để tác động đến tỷ giá chỉ nhằm mục đích làm
giảm nhẹ ảnh hưởng của các cú sốc tạm thời.
- Chính sách tài khoá và các hoạt động quản lý nợ công cộng nên hỗ trợ cho
mục tiêu lạm phát.
Các nhóm điều kiện trên không có nghĩa tạo thành các điều kiện tiên quyết để thực
hiện lạm phát mục tiêu. Điều đó có nghĩa là không nhất thiết phải có tất cả các điều
kiện này thì một quốc gia mới có thể thực hiện khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Thực
tế đã cho thấy mặc dù gặp khó khăn trong việc thoả mãn một số điều kiện, khuôn
khổ lạm phát mục tiêu vẫn hoạt động tốt. Quyết định có theo đuổi khuôn khổ lạm
phát mục tiêu cần phải dựa trên sự cân nhắc thận trọng các chi phí và lợi ích của
khuôn khổ lạm phát mục tiêu so với các khuôn khổ khác.

7
3. Các bước thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu
- Thứ nhất, hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động tiền tệ ngân hàng theo
hướng hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Thứ hai, cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động của NHTW trở thành
NHTW hiện đại.
- Thứ ba, chuẩn bị điều kiện về hạ tầng kỹ thuật để chuyển sang điều hành
chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu sau năm 2010.
- Thứ tư, tái cơ cấu hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng theo chuẩn mực
của Basel I tiến tới Basel II, đặc biệt chú trọng chuẩn mực về an toàn và
quản trị rủi ro.
- Thứ năm, tái cơ cấu toàn diện và triệt để các ngân hàng thương mại và tổ
chức tín dụng nhân dân, bao gồm việc cổ phần hoá, tái cơ cấu sở hữu và xây
dựng thể chế.
4. Cơ sở đưa ra chỉ tiêu lạm phát
Quyết định của QH về chỉ tiêu lạm phát hàng năm liên quan trực tiếp đến việc QH
có giám sát hiệu quả việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia hay không. Có thể
nói ngay rằng, QH không có đủ thông tin và cơ sở để tự tính ra chỉ số lạm phát của
năm kế hoạch. Vì đó không phải là chức năng của QH và QH cũng không đủ điều
kiện để tính toán, xác định một cách cụ thể chỉ số lạm phát của năm kế hoạch. Tuy
nhiên, nói như vậy không có nghĩa là QH sẽ bị động trước các chỉ tiêu mà Chính
phủ trình. QH vẫn có thể và có khả năng phân tích để chuyển từ thế bị động sang
chủ động quyết định một cách chính xác các chỉ tiêu mà Chính phủ trình.
Các Ủy ban của QH và các ĐBQH cần phân tích những nguyên nhân gây ra lạm
phát của năm báo cáo, dự báo các tình huống có thể xảy ra trong năm kế hoạch để
có thể thảo luận về chỉ tiêu lạm phát được Chính phủ trình QH. Nhiệm vụ của các
ĐBQH và các cơ quan của QH là phải phân tích một cách chính xác các nguyên
nhân của lạm phát trong năm trước và dự kiến các khả năng có thể xảy ra trong
năm sau để có thái độ nhìn nhận khách quan về mục tiêu lạm phát của năm kế
hoạch. Ví dụ, mục tiêu chỉ số lạm phát năm 2011 được Chính phủ trình và được

8
QH thông qua là 7%, nhưng trên thực tế, trong năm 2011, Chính phủ đã phải điều
chỉnh mục tiêu lạm phát đến 3 lần: tháng 5.2011 điều chỉnh mục tiêu lạm phát lên
15%; tháng 7.2011 điều chỉnh lên 17%, tháng 8.2011 mục tiêu lạm phát được điều
chỉnh lên 18% và thực tế là đến tháng 12.2011, chỉ tiêu lạm phát ở mức 18,13%.
Qua ví dụ điển hình cho việc xác định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền và kiểm
soát lạm phát này, có thể thấy, hình như QH chưa phân tích cụ thể những nguyên
nhân tại sao lạm phát năm 2010 lại cao hơn năm 2009 (lạm phát năm 2010 là
11,75% và lạm phát năm 2009 là 6,8%) và phân tích trong năm 2011 sẽ có những
yếu tố gì sẽ tác động đến lạm phát?
Phân tích nguyên nhân lạm phát năm 2010 sẽ thấy: thứ nhất, giá các mặt hàng
xăng dầu, điện, than trong năm 2011 có xu thế ổn định không hay là vẫn có yêu
cầu tăng? Thực tế ngay từ tháng 3.2011 giá các mặt hàng được điều chỉnh tăng liên
tục và dồn dập. Báo chí gọi đó là cú sốc liên tiếp khơi mào cho lạm phát khi mà
ngay từ đầu năm tỷ giá đã tăng 9,3% vào tháng 2, xăng tăng 17% từ tháng 2 và
điện tăng 15,2% từ ngày 1.3. Thứ hai là yếu tố tỷ giá có ổn định hay không? Nhìn
nhận xu thế thị trường của năm 2010 để suy đoán cho năm 2011 sẽ thấy, cuối năm
2010 áp lực điều chỉnh tỷ giá rất lớn, quan hệ cung cầu ngoại tệ luôn luôn căng
thẳng, tỷ giá thị trường tự do luôn luôn cao hơn tỷ giá chính thức Với áp lực của
thị trường như vậy thì năm 2011 tỷ giá không thể đứng yên. Và thực tế, ngày
11.2.2011 tỷ giá đã được điều chỉnh tới 9,3%. Tỷ giá tăng làm cho giá hàng nhập
khẩu tăng, chi phí cho sản xuất tăng và tất yếu sẽ đẩy giá tăng. Thứ ba là tình hình
giá cả của hàng hóa trên thị trường thế giới sẽ tăng hay giảm? Năm 2011, xu thế
tăng giá của thị trường thế giới vẫn rất lớn sẽ ảnh hưởng tới giá của các nguyên vật
liệu đầu vào của hàng hóa nước ta. Và thực tế trong năm 2011, mức tăng này trung
bình là 24%, xăng dầu tăng 41,5%, bông tăng 110%, kim loại tăng 110%. Thứ tư là
tình hình lạm phát của các nước xung quanh cao hay thấp và có ảnh hưởng gì đến
Việt Nam không? Thứ năm là tình hình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam
như thế nào, chặt chẽ hay nới lỏng? Bội chi ngân sách ở mức bao nhiêu phần trăm
9

GDP? Tốc độ tăng trưởng tín dụng có hợp lý không? Thứ sáu là mối quan hệ giữa
chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong thực tế có sự phối hợp tốt không?
Năm 2011, Nghị quyết 11 của Chính phủ yêu cầu chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ phải thắt chặt. Nhưng khi thực hiện thì chính sách tiền tệ được thắt quá
chặt với các chỉ tiêu đặt ra là tín dụng chỉ được tăng dưới 20%; tổng phương tiện
thanh toán chỉ được tăng trưởng 15 – 16% và thực tế thực hiện của năm 2011 thì
tổng phương tiện thanh toán chỉ tăng khoảng 10%, tín dụng tăng 12%. Trong khi
đó, Nghị quyết 11 cũng yêu cầu chính sách tài khóa phải thắt chặt: giảm đầu tư
công, tiết giảm chi thường xuyên khoảng 10%; thực tế kết quả giảm đầu tư công và
tiết kiệm chi tiêu ngân sách đạt được rất hạn chế. Như vậy sự thiếu đồng bộ giữa
hai chính sách này cũng làm cho hiệu quả kiểm soát lạm phát bị hạn chế.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế cũng nên xác định ở mức độ tăng trưởng hợp lý:
không quá nóng và cũng không quá nguội. Tốc độ này tăng bao nhiêu là hợp lý thì
phải tùy thuộc và khả năng khai thác tài nguyên thiên nhiên của đất nước còn nhiều
hay ít? Hơn nữa nó còn phụ thuộc vào quan điểm có để dành tài nguyên này cho
thế hệ mai sau không? Khả năng tích luỹ, khả năng tài chính của đất nước ra sao?
Nếu đầu tư cộng với chi tiêu của Chính phủ lớn hơn khả năng tích luỹ và năng lực
tài chính thì sẽ phải bội chi lớn, phải vay nợ nhiều. Vì vậy, cần xác định mức bội
chi hợp lý. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, bội chi ngân sách nhỏ hơn hoặc bằng 3%
GDP là mức hợp lý nhất, không gây áp lực cho lạm phát và bảo đảm tăng trưởng
có hiệu quả, bền vững. Thực tế trong nhiều năm đầu đổi mới nước ta đã đạt được
mức bội chi xoay quanh 3% GDP. Vì vậy, nếu mục tiêu tăng trưởng không được
đặt ra quá cao thì sẽ giúp giảm bội chi ngân sách và không gây áp lực cho lạm
phát. Giữa tăng trưởng và kiểm soát lạm phát phải tìm ra được điểm cân bằng: vừa
tăng trưởng vừa kiểm soát được lạm phát.
Bên cạnh chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, QH cũng cần phải phân tích
thêm về chính sách thương mại, cán cân thương mại, nhập siêu để thấy được
10
những tác động của thương mại đến thị trường tiền tệ trong nước. Nhập siêu lớn sẽ
ảnh hưởng ngay đến cung – cầu ngoại tệ, gây áp lực tới sự phá giá đồng bản tệ dẫn

đến tỷ giá không ổn định, thị trường ngoại hối rối ren và ảnh hưởng lớn đến kết
quả kiểm soát lạm phát cũng như hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Tất cả những yếu tố trên đây, chúng ta có quyền phân tích và dự báo để thấy rằng,
quyết định lạm phát năm 2011 là 7% nhưng thực tế thực hiện lại cách xa so với
mục tiêu đề ra, làm giảm ý nghĩa của quyết định quan trọng này. Rút kinh nghiệm
của năm 2011, theo tôi, tại Kỳ họp thứ Tư sắp tới, khi thảo luận và quyết định mục
tiêu lạm phát của năm 2013, QH cần phân tích tất cả các yếu tố nêu trên để quyết
định mục tiêu lạm phát sát với thực tế hơn. Vì khi biểu quyết mục tiêu lạm phát,
QH cũng sẽ phải giám sát việc thực hiện mục tiêu đó. Nếu QH quyết định lạm phát
7% mà Chính phủ thực hiện đến 18% thì QH cũng sẽ rất khó khăn trong giám sát
việc triển khai thực hiện mục tiêu mà QH đã quyết định.
5. Khả năng áp dụng Chính sách lạm phát mục tiêu tại Việt Nam
Kết quả nghiên cứu “Lạm phát mục tiêu và hàm ý đối với khuôn khổ chính sách
tiền tệ ở Việt Nam” của nhóm tác giả Tô Thị Ánh Dương, Bùi Quang Tuấn, Phạm
Sỹ An, Dương Thị Thanh Bình, Trần Thị Kim Chi (Viện Kinh tế Việt Nam) đã đưa
ra nhận định cho rằng: “Chưa thể chuyển đổi ngay sang cơ chế lạm phát mục
tiêu toàn phần, song trong điều kiện hiện nay Việt Nam hoàn toàn có thể áp
dụng hình thức lạm phát mục tiêu ngầm định ngay từ 2012.”
Theo TS. Tô Thị Ánh Dương, lạm phát mục tiêu có thể được mô tả như một cơ chế
điều hành chính sách tiền tệ dựa trên nền tảng sử dụng việc dự báo lạm phát làm
chỉ số mục tiêu trung gian. Ngân hàng Trung ương sẽ dự báo xu hướng lạm phát
năm tới để đưa chỉ số lạm phát mục tiêu (định hướng bằng một chỉ số hoặc một
khoảng biên độ) cho năm kế hoạch mà không có trách nhiệm thực hiện bất cứ chỉ
11
tiêu nào khác. Trong giới hạn của mình, Ngân hàng Trung ương có thể linh hoạt
lựa chọn và sử dụng các công cụ để đạt một mục tiêu duy nhất - đó là chỉ số lạm
phát mục tiêu.
Nhóm nghiên cứu cũng cho rằng, đối với Việt Nam việc hướng tới chính sách tiền
tệ lạm phát mục tiêu là phù hợp với Chiến lược phát triển hệ thống Ngân hàng Việt
Nam, theo đó xây dựng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trở thành Ngân hàng

Trung ương hiện đại có nhiệm vụ chủ yếu là kiểm soát lạm phát để ổn định tiền tệ
và giám sát để đảm bảo hoạt động lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Để đưa ra áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu thành công tại Việt Nam,
cần đáp ứng được các điều kiện cần thiết. Trong đó, hai điều kiện được coi là mục
tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả và khả năng dự báo lạm phát
kỳ vọng của NHTW. “Tuy nhiên, tại Việt Nam ngay cả việc tính toán CPI cũng
còn nhiều hạn chế", nhóm nghiên cứu nhận xét.
Nghiên cứu cũng dẫn kinh nghiệm từ các nước áp dụng chính sách lạm phát mục
tiêu cho thấy, đa số các nước áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu hoàn toàn (full
– fledged inflation targeting -FFIT) vào thời điểm kiềm chế lạm phát thành công,
chỉ số lạm phát đang giảm xuống. Do đó, việc thực thi chính sách đã tạo niềm tin
cho công chúng vào khả năng của Ngân hàng Trung ương trong việc đạt được mục
tiêu lạm phát thấp và ổn định. Trong khi đó, mức lạm phát tại Việt Nam từ năm
2004 tới nay biến động phức tạp, áp lực lạm phát ngày càng tăng. Bởi vậy, trong
thời điểm hiện tại Ngân hàng Trung ương chưa thể áp dụng được ngay chính sách
tiền tệ lạm phát mục tiêu hoàn toàn. Mà khởi đầu, Việt Nam có thể áp dụng lạm
phát mục tiêu ngầm định (ngân hàng Trung ương có thể thảo thuận với Chính phủ
về việc thực hiện lạm phát mục tiêu mà không cần công bố cho toàn thể công
chúng).
12
Ngoài ra, theo Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Phúc, Giám đốc dự án
“Hỗ trợ nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách kinh tế vĩ
mô” do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì với sự tài trợ của Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP), cho rằng “Ở nghiên cứu về lạm phát
mục tiêu, việc duy trì lạm phát thấp và ổn định nên trở thành mục tiêu hàng đầu
của chính sách tiền tệ để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời phải gắn liền
với nâng cao hiệu quả các chính sách về cơ cấu kinh tế.”
Lý thuyết cho rằng tỷ lệ lạm phát lý tưởng nên bằng 0 (trong mô hình Keynes
mới), hoặc là âm (theo Quy tắc của Friedman). Trong thực tế, tất cả ngân hàng
trung ương ở các quốc gia áp dụng lạm phát mục tiêu đều đưa ra những mục tiêu

dương. Tại sao có sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tiễn như vậy?
Có rất nhiều nguyên nhân lý giải cho sự khác biệt nói trên. Nguyên nhân đầu tiên
là thống kê thuần túy. Lạm phát đo lường có khuynh hướng được phóng đại hơn so
với lạm phát thực tế trong khoảng 0,5% điểm, do đó một con số tiệm cận với 0
nhưng lớn hơn 0 được đưa ra sẽ “bù đắp” cho hiệu ứng này. Nguyên nhân thứ hai
là chi phí của giảm phát. Dường như chi phí của giảm phát còn cao hơn chi phí cho
lạm phát, do đó một mục tiêu lạm phát dương được nhiều quốc gia hướng tới nhằm
tránh rủi ro giảm phát. Thật vậy, giảm phát đi cùng với suy thoái kinh tế sâu sắc,
thậm chí là đình đốn như những năm 30 và giảm phát hiện nay ở Nhật Bản là một
trong những nguyên nhân làm suy yếu hệ thống tài chính và nền kinh tế. Các mức
lạm phát mục tiêu trên 0 sẽ làm giảm khả năng có những thời kỳ giảm phát. Cuối
cùng, lựa chọn khôn ngoan của các quốc gia trong những năm gần đây là theo đuổi
mục tiêu lạm phát dương nếu muốn chống lại sự suy giảm mức lương danh nghĩa.
Trên thực tế, tất cả các nhà điều hành lạm phát mục tiêu ở các quốc gia công
nghiệp (và cả các khung khổ “lai ghép” như ở Đức hay Ngân hàng Trung ương
Châu Âu) đều chọn các mục tiêu lạm phát lớn hơn 0 rất nhiều: khoảng mục tiêu
13
lạm phát trong dài hạn xoay quanh 1% đối với Ngân hàng Trung ương Châu Âu,
1,5% cho New Zealand, 1,75% cho Đức trước khi gia nhập EMU, 2% cho
Canada, Thụy Điển và Phần Lan (và Tây Ban Nha trước khi gia nhập EMU),
2,5% cho Úc và Vương quốc Anh. Tựu chung lại, các nước công nghiệp hóa đều
có các mục tiêu lạm phát nằm trong khoảng 1% đến 3%. Hàn Quốc nằm trong
phần cao nhất khoảng hẹp này, với mục tiêu là 3% +/- 1%. Bên cạnh đó, một số
nước phi công nghiệp hóa cũng có các mục tiêu lạm phát nằm trong khoảng này,
ví dụ như 2% ở Peru, 2% ở Cộng hòa Séc và 2,5% ở Phần Lan. Ba nước khác, bao
gồm Chile, Hungary và Mexico đều có mục tiêu là 3% và Colombia nằm trong
khoảng 2-4%. Chỉ có duy nhất một nước có mục tiêu trên 5% là Ghana với 8,7%
(theo nghiên cứu của Gill Hammond, 2012).
Mặc dù vậy, hầu như không có nghiên cứu nào chỉ ra mức lạm phát bao nhiêu là
tối ưu tại các nước đang phát triển và các quốc gia mới nổi. Theo Samuelson

(2012) thì mức lạm phát tối ưu tại các nước này nên cao hơn một chút so với các
nước công nghiệp.
Từ kinh nghiệm của các quốc gia đi trước đã gặt hái được những thành công nhất
định trong quá trình thực thi chính sách lạm phát mục tiêu, Việt Nam có thể học
hỏi và đối chiếu với các điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị và văn hóa của quốc
gia để đưa ra những quyết sách phù hợp nhất. Mức lạm phát mục tiêu mà Việt Nam
lựa chọn có thể cao hơn các quốc gia công nghiệp do các đặc điểm đặc thù về kinh
tế trong nước, nhưng vẫn phải đảm bảo rằng nó không làm ảnh hưởng đến các
quyết định chi tiêu của hộ gia đình và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngân hàng trung
ương cần phải thông báo và giải thích rõ ràng các quyết định của mình về mức lạm
phát mục tiêu đến công chúng – điều mà không chỉ giúp neo giữ các kỳ vọng về
lạm phát quanh một mức mong muốn mà còn giúp tăng cường sự ủng hộ của công
chúng đối với các chính sách của mình.
14
II. Bội chi ngân sách nhà nước
1. Khái niệm bội chi NSNN
Bội chi NSNN trong một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là số chênh lệch
giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó hay đúng hơn là tình trạng tổng chi trong
cân đối ngân sách nhà nước lớn hơn tổng thu trong cân đối ngân sách nhà
nước (tổng thu thường xuyên) .
Nhưng thu gồm những khoản nào, chi gồm những khoản gì? Theo thông lệ quốc tế,
có thể tóm tắt báo cáo về NSNN hằng năm như sau:
Bảng : Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm
Thu Chi
A. Thu thường xuyên
(thuế, phí, lệ phí).
B. Thu về vốn (bán tài
sản nhà nước).
C. Bù đắp thâm hụt.
- Viện trợ.

- Lấy từ nguồn dự trữ.
Vay thuần (= vay mới -
trả nợ gốc).
D. Chi thường xuyên.
E. Chi đầu tư.
F. Cho vay thuần
(= cho vay mới - thu nợ
gốc).
A + B +C = D + E + F
Công thức tính bội chi NSNN của một năm sẽ như sau:
Bội chi NSNN = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C
15
2. Nguyên nhân bội chi NSNN
Bội chi ngân sách xảy ra khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn số thu ngân sách huy
động được. Ngược lại, khi chi ngân sách nhỏ hơn số thu ngân sách thì có bội thu
ngân sách (hay thặng dư ngân sách). Chi ngân sách là một trong những công cụ
chính sách quan trọng của Nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã
hội. Khi sản lượng của nền kinh tế thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, thì Chính
phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp nhận bội chi để thúc đẩy hoạt động kinh
tế. Vì vậy, bội chi ngân sách không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo,
kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế
phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, bội chi ngân sách
thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: Giao
thông, điện, nước Nhiều nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông
Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội chi ngân sách. Việc xử lý bội chi NSNN là một
nội dung quan trọng của chinh sách tài khoá của Nhà nước, có tác động đến kinh tế
vĩ mô
Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi NSNN:
- Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh. Khủng hoảng
làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải

quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi
NSNN tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên,
trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN.
Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
- Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà
nước. Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ
làm tăng mức bội chi NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu
16
dùng của Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động
của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn, ), tổng
hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi NSNN.
3. Các giải pháp xử lý bội chi NSNN
Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường làm đau đầu các chính trị gia giữa một bên là
phát triển bền vững, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một bên là nguồn
lực có hạn. Đòi hỏi các chính trị gia phải lựa chọn để phù hợp với yêu cầu phát
triển thực tế và sự phát triển trong tương lai. Từ sự lựa chọn đó họ đưa ra mức bội
chi "hợp lý", bảo đảm nhu cầu tài trợ cho chi tiêu cũng như đầu tư phát triển kinh
tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý. Bội chi NSNN được hiểu một
cách chung nhất là sự vượt trội về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa
hoặc thâm hụt NSNN do sự cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiện chính sách
kinh tế vĩ mô. Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu
từ thuế, phí, lệ phí; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài;
phát hành tiền để bù đắp chi tiêu; Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của
mỗi quốc gia.
Bội chi NSNN tác động đến kinh tế vĩ mô phụ thuộc nhiều vào các giải pháp nhằm
bù đắp bội chi NSNN. Mỗi giải pháp bù đắp đều làm ảnh hưởng đến cân đối kinh
tế vĩ mô. Về cơ bản, các quốc gia trên thế giới thường sử dụng các giải pháp chủ
yếu nhằm xử lý bội chi NSNN như sau:

Thứ nhất: Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi NSNN có thể thông
qua việc nhà nước phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải pháp
này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội
17
chi NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi NSNN là do thiếu hụt các nguồn vốn
đối ứng để đầu tư cho phát triển gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với khả
năng tài chính của quốc gia.
Thứ hai: Vay nợ cả trong và ngoài nước. Để bù đắp thâm hụt NSNN, nhà nước có
thể vay nợ nước ngoài và trong nước. Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ kéo
theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ
ngoại hối quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ
giá. Vay nợ trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ - trả lãi - bội chi sẽ làm
tăng mạnh các khoản nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của NSNN cho
các thời kỳ sau
Thứ ba: Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là
thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên, đây
không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi NSNN, bởi vì nếu tăng thuế không
hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời
sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong
các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ tư: Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN.
Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi
quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các
khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu
quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự
án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác,
bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường
xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này
không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.

18
Thứ năm: Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định
chính sách vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế.
Để thực hiện vai trò của mình, nhà nước sử dụng một hệ thống chính sách và công
cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế - xã hội, nhằm giải
quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với
giữ gìn môi trường v.v Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn
nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với
quản lý NSNN nói chung và xử lý bội chi NSNN nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp
thiết.
4. Thực trạng bội chi ngân sách ở Việt Nam
Theo báo cáo thẩm tra về tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước (NSNN)
năm 2011, dự toán và phương án phân bổ NSNN năm 2012 của Uỷ ban Tài chính -
Ngân sách (Ủy ban TCNS) của Quốc hội, mặc dù Nghị quyết 11/NQ-CP tập trung
vào việc cắt giảm chi tiêu công, tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên (ngoài phần
tiết kiệm 10% dự toán từ đầu năm), nhưng tổng số chi NSNN vẫn vượt dự toán
9,7% (70.400 tỷ đồng) và đây là mức tăng khá lớn. Chính phủ dự kiến bố trí 9.100
tỷ đồng từ nguồn tăng thu ngân sách trung ương để giảm bội chi NSNN năm 2011,
đưa xuống mức 111.500 tỷ đồng, tương đương 4,9% GDP, giảm 0,4% so với dự
toán đầu năm.
Trong bối cảnh tình hình kinh tế-xã hội có nhiều biến động, việc Chính phủ phấn
đấu giảm bội chi thể hiện sự cố gắng, nỗ lực trong quản lý và điều hành NSNN.
Đây là mức giảm khá, tạo cơ sở cho việc giảm bội chi theo lộ trình và hạ dần mức
nợ công. Mặt khác, việc bố trí tăng chi trả nợ năm 2011 (15.000 tỷ đồng) cũng có
thể coi như gián tiếp giảm bội chi.
19
Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội cho rằng trên cơ sở đánh giá dự toán thu
NSNN năm 2012 đã được Chính phủ xây dựng, chi NSNN năm 2012 phải được nỗ
lực cân đối để thực hiện những nhiệm vụ trong bối cảnh nền kinh tế đứng trước

nhiều khó khăn thách thức. Do vậy, việc cắt giảm bội chi, giảm đầu tư công đột
ngột có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, giải quyết chính sách xã hội. Đa số
ý kiến trong Ủy ban TCNS tán thành với Chính phủ mức bội chi NSNN là 140.200
tỷ đồng, bằng 4,8% GDP.
Tuy nhiên, có ý kiến nói rằng nếu tính thêm phần vốn trái phiếu Chính phủ (45.000
tỷ đồng) vào bội chi NSNN thì tỷ lệ bội chi NSNN năm 2012 là 6,3%GDP, theo
phương án tăng trưởng bình quân 6,5% trong kế hoạch tài chính 5 năm Chính phủ
trình, bội chi NSNN năm 2015 dự kiến là 202.500 tỷ đồng, nếu tính cả trái phiếu
Chính phủ năm 2015 (45.000 tỷ đồng) thì bội chi là 247.500 tỷ đồng, bằng
5,5%GDP (dự kiến GDP đến năm 2015 là 4.500 nghìn tỷ đồng). Do đó, để thực
hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Chính phủ cần có lộ trình
giảm bội chi quyết liệt hơn.
Đại biểu Trương Thị Ánh (đoàn TP. Hồ Chí Minh) cho rằng Chính phủ cần thực
hiện quyết liệt hơn trong chi tiêu, đặc biệt chi tiêu công để giảm bội chi ngân sách.
Nhà nước cũng cần xếp thứ tự ưu tiên đầu tư, chú ý vấn đề môi trường và cần ưu
tiên cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Tại Kỳ họp thứ 2 - Quốc hội khóa 13, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ
trích dẫn số liệu năm 2010 dự toán bội chi NSNN dự kiến kế hoạch là 6,2% GDP,
tuy nhiên khi thực hiện đã giảm xuống còn 5,6% GDP; năm 2011 dự toán trong kế
hoạch là 5,3%, Chính phủ báo cáo Quốc hội là đã thực hiện giảm còn 4,9% GDP;
dự toán bội chi NSNN năm 2012 dự kiến sẽ thực hiện ở mức 4,8% GDP. Mức bội
20
chi NSNN như trên là những nỗ lực cố gắng lớn trong điều kiện kinh tế khó khăn,
qui mô ngân sách còn hạn hẹp, trong khi nhu cầu chi lại lớn.
Ông Huệ cho biết, việc sử dụng nguồn bội chi ngân sách thực hiện theo nguyên tắc
bội chi chỉ dành cho đầu tư phát triển, không sử dụng bội chi cho chi thường
xuyên; không phát hành để bù đắp bội chi mà huy động từ nguồn vốn vay trong và
ngoài nước, trong đó tỷ trọng vốn vay trong nước ngày càng tăng (năm 2008 dự nợ
vay trong nước chiếm 38,7% tổng dự nợ Chính phủ, năm 2010 con số này tăng lên
42%). Với nguyên tắc cân đối ngân sách nêu trên, mức bội chi NSNN những năm

vừa qua đã giảm và ở tỷ lệ mức bội chi hợp lý, cần thiết tạo điều kiện huy động
thêm được nguồn lực cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy phát triển kinh
tế xã hội. Trong thời gian tới Chính phủ sẽ tiếp tục điều hành phấn đấu giảm tỷ lệ
bội chi NSNN theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và các nghị quyết của
Quốc hội.
III. Mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và ngưỡng bội chi
Ngân sách có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Lạm phát sẽ xảy ra từ việc thâm
hụt ngân sách quá lớn được bù đắp từ việc phát hành tiền.
Tùy vào liều lượng của thu chi ngân sách ở mức ngân sách cho phép nhằm đẩy đầu
tư phát triển nhanh lên và tiếp theo là đưa tăng trưởng kinh tế lên cao mà không
kéo theo lạm phát cao. Tăng chi ngân sách để kích thích tiêu dùng, tăng cầu tiêu
dùng, kích thích đầu tư phát triển, tăng trưởng kinh tế, tăng chi quá mức, thâm hụt
ngân sách, gánh nặng nợ do bù đắp thâm hụt bằng việc đi vay nợ quá lớn,kết quả là
đưa đến kích cầu quá mức thì ở chu kỳ sau sẽ kéo theo lạm phát, mà lạm phát cao,
giảm đầu tư phát triển, giảm tăng trưởng.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng: Mức bội chi ngân sách cao hàm ý rằng, chính
sách tài khóa sẽ không còn nhiều dư địa để tiếp tục hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.
Thêm vào đó, việc nới lỏng quá mức chính sách tài khóa với mức bội chi ngân
21
sách vượt ngưỡng cho phép làm tăng lãi suất do Chính phủ phải tăng cường vay nợ
để bù đắp bội chi. Kết quả là đưa đến kích thích tiêu dùng. Và khi kích cầu quá
mức thì ở chu kỳ sau sẽ kéo theo lạm phát cao. Như vậy, rõ ràng, bội chi NSNN có
quan hệ nhân quả với lạm phát. Điều này cũng có nghĩa, mọi cố gắng của Chính
phủ trong kiềm chế lạm phát sẽ trở nên vô nghĩa, việc thực hiện chính sách lạm
phát mục tiêu sẽ càng trở nên khó khăn, gây ảnh hưởng rất lớn đến sự điều hành
thành công chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ở một quốc gia.
IV. Những vấn đề đặt ra về xử lý bội chi NSNN nhằm kiềm
chế lạm phát
Thực tế trong những năm qua, chúng ta đã kiểm soát được mức bội chi NSNN ở
giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi đầu tư phát

triển. Ngoài ra, chúng ta cũng tích lũy được một phần từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí
chi đầu tư phát triển. Đây là những thành công bước đầu đáng ghi nhận trong công
tác quản lý cân đối NSNN cũng như kiểm soát vấn đề bội chi NSNN. Tuy nhiên,
trong quá trình xử lý bội chi NSNN, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi vấn đề
lạm phát đang gây ra những khó khăn rất lớn cho nền kinh tế và đời sống nhân dân,
chúng ta cần lưu ý đến những vấn đề sau trong việc xử lý bội chi NSNN:
- Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh tế quá
lớn đòi hỏi phải đi vay để bù đắp. Điều này được thể hiện qua việc chúng ta chỉ
vay để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia phục
vụ lợi ích phát triển của đất nước. Nhưng, trên thực tế số tiền vay, đặc biệt của
nước ngoài, chưa được quản lý chặt chẽ. Tình trạng đầu tư dàn trải ở các địa
phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm
quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả. Chính vì vậy, các khoản đầu tư phát triển lấy
từ nguồn vốn vay (cả trong và ngoài nước) cần bảo đảm các quy định của Luật
NSNN và mức bội chi cho phép hằng năm do Quốc hội quyết định.
22
- Sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua được sử dụng như một công cụ
trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Chúng ta có thể dễ
dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về nguyên tắc, sau khi
lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được số thặng dư hoặc thiếu hụt
ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách chúng ta thường xác định
số bội chi trước (thông thường tương đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn
còn lại được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách
ngân sách thận trọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó
không gây xáo trộn trong chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm
tra xem toàn bộ số bội chi có được sử dụng để chi đầu tư phát triển cho các dự án
trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế
phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không.
- Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đây
là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi ngân

sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ chế
phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ
ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp
nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự toán
ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo
đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn
thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm
giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách, để công
trình vận hành và phát huy tác dụng, luôn phải đòi hỏi nhu cầu kinh phí cho hoạt
động. Để có nguồn kinh phí này hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu
cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN.
- Liệu có tồn tại vấn đề bội chi ngân sách địa phương ở Việt Nam hay không? Biện
pháp xử lý ra sao? Quản lý vấn đề này thế nào? Đó là những vấn đề cần được xem
23
xét kỹ càng hơn. Theo khoản 3, Điều 8, Luật NSNN năm 1996, ngân sách địa
phương được cân đối theo nguyên tắc tổng số chi không vượt quá tổng số thu,
trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhu cầu đầu tư kết cấu hạ
tầng thì được phép huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và phải
cân đối vào ngân sách địa phương để trả nợ khi đến hạn. Luật NSNN sửa đổi năm
2002 mở rộng thêm quyền chủ động trong việc huy động vốn của ngân sách địa
phương. Vay vốn đầu tư thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm do hội đồng
nhân dân tỉnh quyết định (không phải theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
quy định như trước đây). Như vậy, mặc dù chúng ta chấp nhận về nguyên tắc là
không có việc bội chi ngân sách địa phương nhưng thực tế lại vẫn cho phép địa
phương vay để đầu tư.
Vấn đề là ở chỗ, hiện nay, các địa phương vay vốn để đầu tư theo quy định tại
khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN tương đối lớn và chưa được quản lý một cách chặt
chẽ. Với nhiều địa phương đây là điều kiện để tăng cường cơ sở vật chất, tạo điều
kiện phát triển kinh tế. Điều đáng lưu ý là trong khi nguồn vốn ngân sách hiện có
chưa tận dụng hết, các địa phương vẫn tiến hành vay vốn; tỷ lệ vốn vay chiếm tỷ

trọng khá lớn trong tổng chi đầu tư phát triển. Trong khi phải đi vay thì ngân sách
địa phương lại để kết dư lớn, có tỉnh cuối năm kết dư bằng 78,5% số bổ sung từ
ngân sách trung ương và bằng 24,9 % so với tổng chi ngân sách địa phương. Mặt
khác, còn một số khoản vay không cân đối vào ngân sách tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương tạo nên khoản thu chi ngoài ngân sách và khi đến hạn, ngân sách
địa phương không có nguồn để thanh toán gốc và lãi.
Thực chất các khoản vay của ngân sách địa phương chính là bội chi NSNN. Một
trong những nguyên tắc quản lý NSNN ở Việt Nam là tuân theo theo nguyên tắc
thống nhất, tổng thể NSNN bao gồm ngân sách các cấp, điều đó đòi hỏi các khoản
bội chi của ngân sách địa phương phải được tổng hợp để tính bội chi NSNN. Tuy
24
nhiên khi vay, các địa phương phải cân đối ngân sách nên không thể hiện đầy đủ
bội chi khi quyết toán NSNN. Mức bội chi NSNN hằng năm trình Quốc hội mới
chỉ phản ánh được mức bội chi của ngân sách trung ương. Đây là một trong những
mắt xích cần phải được giải quyết trong việc xử lý bội chi NSNN.
Để giải quyết tổng thể vấn đề bội chi NSNN ở Việt Nam theo chúng tôi cần thiết
phải có những quy định chặt chẽ hơn, theo đó có thể áp dụng các giải pháp sau:
1- Tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu tư của địa
phương cần được xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên. Thực hiện
như vậy tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn và
quản lý chặt chẽ số bội chi NSNN. Hiện tại, chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn
giữa nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển với nguồn lực hạn hẹp. Nếu thực hiện thắt
chặt, hạn chế vay để đầu tư sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu
cầu vốn rất cao. Nhưng nếu chúng ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ
của NSNN, nhất là vay của ngân sách địa phương, thì nguy cơ ảnh hưởng đến an
ninh tài chính quốc gia, sự bền vững của NSNN. Thực hiện đầu tư tập trung cũng
có lợi là bảo đảm phát triển hài hoà, cân đối giữa các vùng, miền trong toàn quốc.
Kinh nghiệm của Trung Quốc: nghiêm cấm ngân sách các địa phương vay vốn
dưới bất kỳ hình thức nào, các khoản chi đầu tư của địa phương được xem xét tính
toán và bổ sung từ ngân sách trung ương.

2 - Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, nhất
là ngân sách các địa phương. Do vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư, sẽ
kiên quyết không bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các công trình
khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công
trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Có như vậy, các địa phương phải tự cân đối nguồn
kinh phí này chứ không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách.
25

×