Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG vốn TRUNG và dài hạn tại NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP và PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN NHƯ THANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.75 KB, 81 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
CƠ SỞ THANH HÓA – KHOA KINH TẾ

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI :
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NHNO & PTNT CHI NHÁNH NHƯ THANH - THANH HÓA
GIÁO VIÊN HD : TRẦN THỊ YẾN
SINH VIÊN TH : ĐỖ THỊ TRANG
MSSV :11022943
LỚP : CDTN13TH
THANH HÓA, THÁNG 07 NĂM 2014
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cô các chú trong phòng tín dụng,
phòng kế toán và cùng thể ban lãnh đạo ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Huyện Như Thanh đã tận tình hướng dẫn em trong suốt thời gian thực
tập tại ngân hàng, đã tạo điều kiện cho em tiếp xúc và tập làm phần lớn các công
việc cơ bản của một nhân viên ngân hàng. Và đã giúp em có những kiến thức và
cái nhìn mới hơn về trách nhiệm trong công việc và tác phong của công việc.
Và đặc biệt xin trân trọng cảm ơn, giảng viên Trần Thị Yến đã tạo điều
kiện giúp đỡ hướng dẫn em trong suốt quá trình làm chuyên đề cho đến khi hoàn
thiện bài. Từ những bước đầu đó là đề cương sơ bộ, đề cương chi tiết, chuyên đề
sơ bộ và cuối cùng là hoàn thiện bài cô luôn tận tình chỉnh sửa, chỉ dẫn những
lỗi sai về nội dung, những chỗ em phân tích còn chưa hợp lý hay đến những lỗi
chính tả mà em thiếu sót trong quá trình làm bài. Để em có thể hoàn thành bài
chuyên đề của mình một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Em xin chân thành cảm ơn.
Thanh Hóa, ngày…tháng… năm 2014
Sinh viên


Đỗ Thị Trang
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 2
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN















,……………… ,ngày … tháng … năm 2014
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 3
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
















,……………… ,ngày … tháng … năm 2014
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 4
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
MỤC LỤC
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 5
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn trung và dài hạn tại NHNo&PTNT Như
Thanh
Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn huy động vốn từ năm 2010 - 2013
Bảng 2.3: Tăng tưởng dư nợ theo thành phần kinh tế từ năm 2010 - 2013.
Bảng 2.4: Tình hình huy động vốn từ chủ sở hữu (2011-2013) tại NHNo &
PTNT Chi nhánh Như Thanh - Thanh Hóa
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 6
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT TỪ VIẾT TẮT DIỄN GIẢI
1

NHNo&PTNT Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn
2
NHTM Ngân hàng thương mại
3
NHTW Ngân hàng Trung Ương
4
TCTD Tổ chức tín dụng
5
NHNN Ngân hàng Nhà nước
6
CBCNV Cán bộ công nhân viên
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 7
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước sau những năm đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá
nhằm theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt là sau khi Việt
Nam ra nhập WTO vừa có những thuận lợi lại vừa có những khó khăn nhất định.
Để thực hiên thành công chiến lược đó thì một trong những nhu cầu hết sức
quan trọng được đặt lên hàng đầu đó là vốn.Vốn là nguồn lực vô cùng quan
trọng là tiền đề cho sự tăng trưởng là yếu tố cốt lõi của mọi vấn đề, mọi quá
trình. Chính vì vậy “vốn trong nước là quyết định” luôn được quán triệt trong
quản lý kinh tế, quản lý đầu tư và đặc biệt là trong hoạt động tín dụng.
Với đặc trưng là loại hình trung gian chuyên thực hiện nhiệm vụ đi vay và
cho vay, dịch chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu nên hiệu quả huy động vốn
là vấn đề luôn được các Nhà Quản Trị ngân hàng, các Nhà Chính Sách quan
tâm. Tuy nhiên vấn đề huy động vốn dài hạn tại các ngân hàng thương mại Việt
Nam chưa đạt hiệu quả cao: quy mô còn nhỏ, cơ cấu hoạt động chưa phù hợp,
chi phí hoạt động cao. Chính vì vậy làm thế nào để nâng cao hiệu quả huy động
vốn dài hạn tại các ngân hàng thương mại Việt Nam đang là một câu hỏi được
đặt ra trong thực tiễn hiện nay trước tình hình nền kinh tế nước nhà đang gặp rất

nhiều khó khăn cũng như thách thức.
Xuất phát từ những lý do trên cùng với khoảng thời gian thực tế tại NHNo
& PTNT Thanh Hoá chi nhánh Như Thanh và tìm hiểu nhu cầu cũng như thực
trạng về vấn đề huy động vốn dài hạn tại đây nên em đã chọn đề tài “ Giải pháp
nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo & PTNT Chi nhánh Như Thanh -
Thanh Hóa” làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp của mình. Hy vọng rằng những ý
kiến đóng góp của mình sẽ góp phần nhỏ bé vào lợi ích của quê hương.
Do thời gian nghiên cứu và làm việc có hạn, trình độ kiến thức còn hạn chế
nên chuyên đề không thể tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp nhằm giúp em hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 8
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
CHƯƠNG 1
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CÔNG
TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính tiền gửi và cho vay tiền.
Ngân hàng thương mại là nơi trực tiếp giao dịch với công chúng để nhận ký
thác, cho vay và cung ứng những dịch vụ tài chính.
Theo tinh thần Luật các Tổ chức tín dụng (công bố ngày 26/12/1997) và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng (có hiệu lực thi
hành ngày 01/10/2010): Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán,
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan. NHTM
tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: NHTM quốc doanh, NHTM tư nhân,

NHTM liên doanh, NHTM cổ phần hoặc chi nhánh NHTM nước ngoài, Bất cứ
hình thức hoạt động nào của NHTM cũng bao gồm ba nghiệp vụ: Nghiệp vụ nợ
(huy động vốn), nghiệp vụ có (sử dụng vốn) và nghiệp vụ môi giới trung gian
(dịch vụ thanh toán, tư vấn, bão lãnh). Ba loại nghiệp vụ trên có mối quan hệ
mật thiết, tác động hỗ trợ, thúc đẩy cùng phát triển tạo nên uy tín cho ngân hàng.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý
cho những người chủ sở hữu nó, tránh gây mất mát. Đổi lại, người chủ sở hữu
phải trả cho người giữ một khoản tiền công. Khi công việc này mang lại nhiều
lợi ích cho những người gửi, các đồ vật cần gửi ngày càng đa dạng hơn, dần dần,
ngân hàng là nơi giữ tiền cho những người có tiền. Khi xã hội phát triển, thương
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 9
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn, tức là phát sinh nhu cầu vay tiền
ngày càng lớn trong xã hội. Khi nắm trong tay một lượng tiền, những người giữ
tiền nảy ra một nhu cầu cho vay số tiền đó, vì lượng tiền trong tay họ không phải
bao giờ cũng bị đòi trong cùng một thời gian, tức là có độ chênh lệch lượng tiền
cần gửi và lượng tiền cần rút của người chủ sở hữu. Từ đó phát sinh nghiệp vụ
đầu tiên cơ bản nhất của ngân hàng nói chung, đó là huy động vốn và cho vay
vốn.
Khoảng thế kỷ thứ XV(1401) có một tổ chức thế giới được coi là một nhân
hàng thực sự theo quan niệm ngày nay đó là BAN – CA – DI Barcelona ( Tây
Ban Nha) , đây là ngân hàng đầu tiên trên thế giới. Đến năm 1409 ngân hàng thứ
hai BAN – CO – DI Valencia ( TBN) và cả hai ngân hàng này đã thực hiện hầu
hết các nghiệp vụ ngân hàng như ngày nay, nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán
Từ thế kỷ XVII, song song với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật kinh tế
và thương mại đã có những tiến bộ lớn. đồng thời ngân hàng cũng phát triển
mạnh, đầu tiên là ở Châu Âu, sau đó là châu Mỹ rồi đến châu Á và được phát
triển trên phạm vi toàn thế giới. Các nhà sản xuất cần vốn để sản xuất, các gia
thương cần vốn để thành lập công ty thương mại, xuất nhập khẩu chỉ có thể dựa

vào ngân hàng và chỉ có ngân hàng mới có thể cung cấp đủ vốn cho họ. Do đó vị
thế của ngân hàng ngày càng được nâng cao và ngân hàng trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong nền kinh tế.
Bước chuyển mình lớn nhất của hệ thống ngân hàng bắt đầu từ thế kỷ XX
khi mà các ngân hàng áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động của
mình. Các sản phẩm mới của ngân hàng ra đời đáp ứng mọi nhu cầu của khách
hàng. Ngân hàng trở thành nơi cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng và phong
phú nhất cho nền kinh tế.
1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại
Qua quá trình hoạt động của các ngân hàng thương mại và đánh giá hiệu
quả chung của toàn bộ nền kinh tế ta có thể khẳng định vai trò của nó đối với
nền kinh tế như sau:
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 10
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
Thứ nhất là các ngân hàng thương là một công cụ quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá. Thông qua chức năng huy động vốn,
cho vay và đầu tư các ngân hàng đã huy động nguồn vốn nhàn rỗi của nền kinh
tế, cho vay dưới các hình thức khác nhau đối với các ngành kinh tế, các vùng
kinh tế và các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội nhằm thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
Các ngân hàng đã thực sự huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh
tế vào quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá. Nếu như không có ngân hàng
thương mại thì việc huy động của cải xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh
bị đình trệ rất nhiều. Nhờ có ngân hàng thương mại mà tiền tiết kiệm của các cá
nhân, các tổ chức được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Nó
trở thành chất “dầu bôi trơn” cho bộ máy kinh tế hoạt động. Nó chuyển của cải,
tài nguyên xã hội từ nơi chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục
vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống xã hội.
Thêm nữa với vai trò làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã thực hiện
các dịch vụ trung gian thanh toán cho nền kinh tế do đó thúc đẩy nhanh quá

trình thực hiện luân chuyển hàng hoá, luân chuyển vốn trong xã hội, tiết kiệm
chi phí thanh toán cho từng cá nhân doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả cho toàn
bộ nền kinh tế. Đồng thời ngân hàng cũng giám sát các hoạt động kinh tế góp
phầntạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo ra sự ổn định trong kinh
tế xã hội.
Ngày nay, có thể nói mọi quan hệ kinh tế đến thực hiện thông qua tiền tệ và
chủ yếu là thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng bên cạnh các tổ chức tài
chính phi ngân hàng.
Thứ hai ngân hàng thương mại cũng như các trung gian tài chính khác là
công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Với chức năng
tạo tiền, ngân hàng thương mại là một trong các chủ thể tham gia vào quá trình
cung ứng tiền, tạo ra một khối lượng phương tiện thanh toán rất lớn trong nền
kinh tế.
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 11
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
Để thực hiện chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương phải sử dụng các
công cụ để điều tiết lượng trong lưu thông, nhằm đạt được các mục tiêu của nền
kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ của
chính sách tiền tề chỉ được thực thi có hiệu quả với sự hợp tác tích cực và có
hiệu quả của các ngân hàng thương mại cũng như việc chấp hành qui định dự trữ
bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt và nâng cao hiệu quả cho vay
và đầu tư.
1.1.4. Chức năng của ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Chức năng làm trung gian tín dụng
Ngân hàng làm trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối” giữa người có vốn
và người cần vốn.
Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế ngân hàng hình thành nên quĩ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với
nền kinh tế, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn mà chủ yếu là cho
vay ngắn hạn.Với chức năng này ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay

vừa dóng vai trò là người cho vay.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng này xuất phát từ những cơ sở
khách quan. Đó là đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn vốn
xã hội đã phát sinh hiện tượng trong cùng một lúc có những xí nghiệp, tổ chức
kinh tế, cá nhân có vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng (như tiền bán hàng của các
doanh nghiệp nhưng chưa mua nguyên vật liệu, tiền trích khấu hao nhưng chưa
sử dụng để mua sắm tài sản cố định mới hoặc chưa sửa chữa tài sản cố định, tiền
lương chưa đến kì trả ) Ngược lại, lại có những doanh nghiệp, cá nhân có nhu
cầu vốn cần bổ sung trong một thời gian ngắn (như doanh nghiệp cần mua
nguyên nhiên vật liệu nhưng chưa bán được sản phẩm, cần sửa chữa lớn hoặc
mua sắm tài sản cố định nhưng nguồn tích lũy và khấu hao chưa đủ,cá nhân cần
tiền cho nhu cầu mua sắm tài sản có giá trị nhưng tiền tích luỹ còn hạn chế )
Mâu thuẫn này cần được giải quết để tăng hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh
tế và được thoả mãn bằng quan hệ tín dụng trực tiếp hoặc gián tiếp.Tuy nhiên
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 12
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
quan hệ tín dụng trực tiếp dưới hình thức quan hệ thương mại hoặc doanh
nghiệp phát hành trái phiếu có những hạn chế vì cãc chủ thể khó có thể biết rõ
được khả năng và nhu cầu vốn của nhau. Hơn nữa, phải có sự tin tưởng để
chuyển nhượng vốn lẫn nhau .Hạn chế này đòi hỏi phải có ngân hàng đứng ra
làm trung gian để chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu tạm thời.Thêm nữa, nhu
cầu tiết kiệm và đầu tư trong xã hội cũng đòi hỏi ngân hàng làm trung gian để
chuyển vốn từ người tiết kiệm sang người có nhu cầu đầu tư .
Sở dĩ ngân hàng làm được chức năng này là vì nó có một cơ quan chuyên
trách ,chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, có khả năng nhận biết được tình
hình cung cầu về tín dụng.Đó là nơi mà khách hàng có thể tin tưởng được trong
việc gửi tiền. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn, ngân hàng có
thể giải quết mối quan hệ giữa cung và cầu cả về khối lượng vốn cho vay, thời
gian cho vay.
Với chức năng trung gian tín dụng ngân hàng thương mại đã góp phần tạo

lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng và người đi
vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế.
- Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn dỗi của
mình do ngân hàng trả lãi tiền gửi cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho
họ sự an toàn toàn và cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Đối với người đi vay sẽ thoả mãn vốn để kinh doanh, chi tiêu, thanh toán
mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung
ứng vốn tiện lợi chắc chắn và hợp pháp.
- Đối với ngân hàng thương mại, họ sẽ tìm kiếm được cho bản thân mình
từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới.
Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
- Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản
suất được thực hiện liên tục và để mở rộng qui mô sản suất. Với chức năng này,
ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 13
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản suất kinh doanh.
Đây chính là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại vì nó
phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, nó quết định
sự duy trì và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng là cơ sở để thực hiện
các chức năng sau.
1.4.1.2. Chức năng trung gian thanh toán.
Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu
cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền
hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán
hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ở đây ngân hàng đóng vai trò thủ
quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của
khách hàng, chi tiền họ cho khách hàng. Nền kinh tế thị trường càng phát triển,
chức năng này càng được phát huy, việc thanh toán qua ngân hàng càng được

mở rộng.
Ngân hàng thương mại thực hiện các chức năng trung gian thanh toán trên
cơ sở nó thực hiện các chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc
nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo rõi
các khoản thu, chi. Đó chính là tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán cho
ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí làm trung gian thanh toán. Hơn nữa, việc
thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế, đó
là rủi ro do phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với khách
hàng ở cách xa nhau đã tạo nên nhu cầu khách hàng thực hiện thanh toán qua
ngân hàng.
Việc hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh
toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, hệ
thống ngân hàng thương mại sẽ cung cấp cho khách hàng nhiều công cụ thanh
toán thuận lợi như séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán,
thẻ tín dụng tuỳ theo nhu cầu khách hàng có thể chọn cho mình phương thức
thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 14
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người được hưởng dù gần hay xa mà họ
có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do
vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí lao động, thời gian lại
đam bảo được thanh toán an toàn toàn. Như vậy chức năng thúc đẩy lưu thông
hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn do đó góp phần
tăng trưởng kinh tế. Đồng thời với việc thanh toán không dùng tiền mặt qua
ngân hàng đã giảm được tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu
thôn gtiền mặt như in ấn, đếm nhận tiền
Đối với ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi
nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa nó lại tăng
thêm nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư của tài khoản tiền
gửi của khách hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng

tạo tiền của ngân hàng thương mại.
Nhìn vào hệ thống thanh toán của ngân hàng thương mại, người ta có thể
đánh giá ngay được hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại có hiệu quả
hay không.
Chu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng thương
mại và do vậy chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện thì vai
trò của ngân hàng thương mại mới được nâng cao hơn với tư cách là người thủ
quĩ của xã hội.
1.4.1.3. Chức năng tạo tiền (tạo ra tiền gửi thanh toán)
Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng
phát hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực
hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng. Nhưng với chức năng trung gian
tín dụng và trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo tiền
ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng
thương mại. Đây chính là một bộ phận của tiền giao dịch.
Từ khoản tiền dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua hành vi cho vay băng
chuyển khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 15
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
số tiền dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở
rộng tiền gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động của nhiều yếu tố: tỉ kệ d3ự
trữ bắt buộc, tỉ lệ dự trữ thừa và tỉ lệ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán.
Phân tích quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại chúng ta
thấy rõ sự tác động của các yếu tố này.
Trước hết ta hãy xem xét quá trình tạo tiền gửi giản đơn với hai giả thiết:
- Các ngân hàng thương mại cho vay hoàn toàn bằng chuyển khoản không
cho vay bằng tiền mặt, khách hàng không có nhu cầu rút tiền mặt, lượng tiền
giao dịch chỉ là tiền thanh toán.
- Hệ thống ngân hàng thương mại cho vay hết, không có dự trữ thừa. Như
vậy lượng tiền trung ương (tiền dữ trữ) hoàn toàn chỉ là tiền dự trữ bắt buộc của

ngân hàng thương mại. Giả sử một khách hàng X gửi tiền mặt vào tài khoản tiền
gửi thanh toán tại ngân hàng A là 100 triệu đồng.
Nếu ngân hàng A giữ số tiền đó và không cho vay, chỉ đáp ứng nhu cầu rút
tiền mặt của khách hàng thì chưa hề có quá trình tạo tiền. Nhưng các ngân hàng
ngày nay không nhận tiền gửi để giữ lại trong quỹ mà họ phải đem cho vay
nhằm thu lợi nhuận tuy nhiên, để đảm bảo một phần khả năng thanh toán cũng
như do phải chụi sự quản lý của ngân hàng trung ương cần phải có một lượng dự
trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy định. Để đơn giản cho việc tính toán
chúng ta giả sử rằng tỉ lệ này là 10%. Như vậy ngân hàng thương mại có thể cho
vay 90% số tiền gửi.
Giả sử số tiền cho vay ra (90) sẽ được người đi vay sử dụng để thanh toán
tiền hàng cho bạn hàng của họ có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng B. Do vậy, số
tiền này sẽ hình thành một khoản tiền gửi mới ở ngân hàng B là 90 triệu. Ngân
hàng này cũng dự trữ 10% theo quy định, phần còn lại để cho vay và số tiền đó
lại hình thành nên khoản tiền gửi mới ở ngân hàng C. Ngân hàng C lại dự trữ bắt
buộc 10% và cho vay bằng chuyển khoản hết số dự trữ còn lại, số tiền này hình
thành nên khoản tiền gửi mới ở ngân hàng D.
Qua đây có thể thấy với khoản tiền gửi ban đầu là 100, ngân hàng A cho
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 16
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
vay 90, hình thành nên khoản tiền gửi ở ngân hàng B là 90. Ngân hàng B cho
vay 81 tạo nên tiền gửi của ngân hàng C là 81. Ngân hàng C lại cho vay và tạo
tiền gửi ở ngân hàng D là 81. Lúc này tổng tiền gửi ở các ngân hàng là 100 + 90
+ 81 + 72.9 =243.9 . Quá trình tạo tiền đó cứ tiếp diễn cho đến khi tổng số tiền
dự trữ bắt buộc ngang bằng số tiền gửi ban đầu. Bởi vì lượng tiền trung ương
trong trường hợp này duy nhất chỉ là dự trữ bắt buộc.
Với quá trình tạo tiền gửi đơn giản, hệ số mở rộng tiền gửi của hệ thống
ngân hàng thương mại là:
m
d

=1/r
d
trong đó m
d
: hệ số mở rộng tiền gửi
r
d :
tỉ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi thanh toán
Như vậy sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung
gian thanh toán là cơ sở để ngân hàng thương mại thực hiện chức năng tạo tiền
gửi thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng ngân hàng sử dụng số
vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra được khách hàng sử dụng để
mua hàng hoá, dịch vụ trong khi số du trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để
mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ Khi ngân hàng chỉ thực hiện chức năng
nhận tiền gửi mà chưa cho vay ngân hàng chưa hề tạo tiền mà chỉ khi ngân hàng
thực hiện chức năng cho vay thì mới bắt đầu tạo tiền gửi.
1.1.5. Các nghiệp vụ của NHTM
1.1.5.1 Nghiệp vụ tạo vốn - Nghiệp vụ nợ:
Là nghiệp vụ dùng để hình thành nguồn vốn của NHTM. Nguồn vốn của
NHTM gồm: vốn chủ sở hữu (vốn tự có), vốn huy động và vốn vay
a.Vốn chủ sở hữu:
Trước hết mỗi ngân hàng phải có một số vốn tự có làm điều kiện hình
thành và duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Số vốn tự do này thường chiếm
tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Vốn tự có gồm:
-Vốn điều lệ: là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp, vốn
điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định. Vốn điều lệ phụ thuộc vào hình
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 17
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
thức sở hữu của ngân hàng, nếu là: ngân hàng tư nhân thì đó là vốn riêng của

một doanh nghiệp đầu tư, với ngân hàng cổ phần thì vốn điều lệ được hình thành
do phát hành cổ phiếu, nếu ngân hàng quốc doanh thì toàn bộ do ngân sách nhà
nước cấp. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tùy thuọc vào
quy mô và phạm vi hoạt động của nó. Vốn này chủ yếu được dùng để mua sắm
động sản và bất động sản, phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, hùn vốn liên
doanh, cho vay và mua cổ phần của các tổ chức tín dụng khác. Pháp lệnh về
ngân hàng không cho phép dùng vốn điều lệ để chia lợi tức, lập quỹ phúc lợi và
khen thưởng.
- Quỹ ngân hàng bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư và
phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ
khác….ngoài ra còn có các quỹ không hình thành từ lợi nhuận ngân hàng như
quỹ khấu hao cơ bản tài srn cố định, quỹ khấu hao sữa chữa lớn, các quỹ khác
theo quy định của pháp luật tài chính.
b.Vốn huy động:
Là vốn thu hút được qua các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng, nguồn
vốn huy động bao gồm:
- Tiền gửi ngân hàng: NHTM tập trung huy động tiền gửi của các cá nhân,
doanh nghiệp, công ty… để hình thành quỹ cho vay. Tiền gửi NHTM huy động
được bao gồm:
+Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà người sở hữu nó có thể rút ra
để sử dụng bất cứ lúc nào mà không cần phải báo trước về thời hạn và khối
lượng tiền cần rút. Loại này bao gồm các khoản tiền gửi tạm thời của các doanh
nghiệp và công ty, các tổ chức kinh tế…;thuế, lợi nhuận, vốn khấu hao của các
doanh nghiệp, công ty, tiền gửi của các nhà đầu cơ.
Khách hàng gửi tiền loại này không vì mục tiêu lợi nhuận, chủ yếu là để
thực hiện các khoản chi mua hàng hóa, dịch vụ, thực hiện các giao dịch về thanh
toán, chi trả và thực hiện các khoản chi trả khác và để ngân hàng tạo điều kiện
thuận lợi trong thanh toán.
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 18
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến

Tiền gửi không kỳ hạn không ổn định mà biến động thường xuyên.
+Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà chủ sở hữu nó chỉ có thể rút ra và
được hưởng trọn vẹn lợi tức theo thời hạn đã quy định trước. Tiền gửi có kỳ hạn
bao gồm các khoản tiền gửi của các nhà kinh doanh tiền tệ và của các công ty,
doanh nghiệp…
Mục đích gửi tiền có kỳ hạn khác hẳn với tiền gửi không kỳ hạn ở chỗ là
người gửi tiền nhắm đến khả năng sinh lời của tiền tệ, vì vậy đối với loại tiền
gửi này NHTM phải trả lãi suất thỏa đáng cho khách hàng
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, NHTM
có thể sử dụng một cách chủ động để cho vay.
-Tiền gửi tiết kiệm: là tiền gửi của dân cư, của cá nhân, bao gồm tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
c.Vốn vay: có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
thương mại. thuộc loại này bao gồm:
-Vốn huy động từ việc phát hành các loại kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
tiền gửi của ngân hàng nhằm bổ sung nguồn vốn hoạt động của ngân hàng khi
vốn tự có và vốn tiền gửi chưa đủ đáp ứng yêu cầu kinh doanh.
-Vốn vay của ngân hàng trung ương: khi ngân hàng trung ương nhận cho
vay chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại.
-Vốn vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác thông
qua thị trường tiền tệ ngắn hạn. Tại đây, các ngân hàng thiếu tiền thanh toán sẽ
vay của các ngân hàng khác để thanh toán, nghiệp vụ này vừa giúp cho các ngân
hàng thiếu tiền có tiền mặt ngay vừa giúp cho những ngân hàng dư tiền cho vay
để sinh lời.
-Vốn vay của các ngân hàng nước ngoài.
1.1.5.2.Nghiệp vụ sử dụng vốn-Nghiệp vụ Có:
a.Nghiệp vụ ngân quỹ:
Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kiếm lời. Song cần
phải bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có được
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 19

Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán làm
sao để đáp ứng được các nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy, các ngân
hàng phải để dành một phần nguồn vốn, không sử dụng nó, để sẵn sàng đánh
ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ.
Tiền dự trữ của ngân hàng thương mại bao gồm:
-Tiền mặt tại quỹ: bao gồm giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại, tùy thuộc
vào quy mô hoạt động của NHTM, nhu cầu thường xuyên cũng như nhu cầu
thời vụ của các khoản chi tiền mặt mà NHTM để tồn quỹ tiền mặt cho hợp lý.
Tồn quỹ tiền mặt có khả năng thanh toán kịp thời nhất, nhưng tiền này không
sinh lời cho ngân hàng. Vì vậy NHTM cần phải tính toán duy trì cho hợp lý.
-Tiền gửi ở ngân hàng Trung ương: theo quy định, ngân hàng thương mại
phải mở tài khoản tại ngân hàng trung ương và gửi vào đó một số tiền nhất định
gồm 2 phần:
+Tiền gửi dự trữ bắt buộc:
+Tiền gửi thanh toán:
-Tiền gửi của ngân hàng thương mại tại các ngân hàng thương mại và các
tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chuyển tiền khác địa
phương của khách hàng, số này cao hay thấp tùy theo mức độ quan hệ với đại lý
và số lượng đại lý.
-Tiền đầu tư vào các chứng phiếu có giá trị, những chứng phiếu này có thể
bán ra bất cứ lúc nào trên thị trường chứng khoán. Hoạt động này vừa tạo ra sự
an toàn vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thương mại.
b.Nghiệp vụ cho vay:
Ngân hàng thương mại sử dụng phần lớn nguồn vốn của mình vào việc cho
vay đối với các doanh nghiệp và cá nhân nên còn gọi là tài sản có tín dụng.
Trong nghiệp vụ sử dụng vốn thì nghiệp vụ cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất,
nên lợi nhuận của NHTM chủ yếu được sinh ra từ nghiệp vụ này. Nghiệp vụ cho
vay của NHTM chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Việc cho vay ngắn hạn giúp
NHTM giữ được khả năng thanh toán. Cho vay là nghiệp vụ hoạt động sinh lời

Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 20
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
chủ yếu của các NHTM. Hoạt động nà rất đa dạng và phong phú.
c.Nghiệp vụ đầu tư:
Ngoài việc sử dụng nguồn vốn để cho vay, NHTM còn sử dụng một phần
nguồn vốn của mình để đầu tư vừa để sinh lời vừa để phân tán rủi ro. Nghiệp vụ
đầu tư bao gồm:
-Đầu tư trực tiếp: NHTM đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp, công
thương thông qua việc hùn vốn liên doanh, liên kết, thành lập công ty con hoặc
mua cổ phiếu trái phiếu để tham gia Hội đồng quản trị công ty và để phân chia
lợi nhuận.
-Đầu tư gián tiếp: Mua trái phiếu Chính phủ (Tín phiếu kho bạc nhà nước,
trái phiếu kho bạc Nhà nước, …), trái phiếu Ngân hàng Nhà nước… khi cần vốn
có thể bán trên thị trường chứng khoán hoặc làm chứng từ xin tái chiết khấu ở
Ngân hàng Trung ương.
d. Nghiệp vụ trung gian-nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng
Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ tợ đáng kể
cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra
thu nhập cho ngân hàng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí…có vị trí xứng đáng
trong giai đoạn phát triển hiện nay của ngân hàng.
Đây là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại thực hiện theo sự uỷ nhiệm của
khách hàng được hưởng tiền hoa hồng như:
-Chuyển tiền cho khách hàng sang địa phương khác để họ sử dụng theo yêu
cầu hoặc trả cho một người nào đó.
-Thu hộ: ngân hàng đứng ra thay mặt khách hàng để thu hộ các khoản kỳ
phiếu đến hạn, chứng khoán, hàng hóa…
-Ủy thác: là nghiệp vụ mà ngân hàng làm theo ủy thác của khách hàng như
quản lý tài sản hộ, chuyển gia tài hộ, bảo quản chứng khoán và vật có giá, thanh
lý tài sản của xí nghiệp bị phá sản…
-Mua bán hộ: theo ủy nhiệm của khách hàng, ngân hàng đứng ra phát hành

cổ phiếu hoặc trái phiếu hoặc trái khoán công ty hoặc trái khoán nhà nước, mua
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 21
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
bán ngoại tệ, kim khí quý, đá quý cho khác hàng.
-Kinh doanh vàng, bạc, ngoại tệ để kiếm lời nếu được phép của ngân hàng
trung ương.
-Làm tư vấn tài chính tiền tệ như cung cấp thông tin, hướng dẫn chính sách
tiền tệ, thương mại, lập dự án đầu tư tín dụng, ủy thác đầu tư cho khách hàng.
1.2. VỐN TRONG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
1.2.1. Khái niệm về vốn
Vốn của NHTM là toàn bộ giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động và tạo lập
để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Thực chất nguốn vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm
thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng mà khách hàng gửi
vào ngân hàng với các mục đích khác nhau.
1.2.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.2.1.Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh. Với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện
kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân
hành là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường đó là tiền tệ.
Chính vì thế có thể nói: Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân
hàng. Do đó, ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn
trong suốt quá trình hoạt động.
1.2.2.2.Vốn quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác.
Tuỳ theo quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động được mà các ngân hàng sẽ
quyết định quy mô và cơ cấu đầu tư. Với nguồn vốn huy động lớn, ngân hàng có
đủ khả năng mở rộng phạm vi và khối lượng cho vay không chỉ giới hạn trên thị
trường trong nước mà còn cho vay vượt ra khỏi lãnh thổ một quốc gia (cho vay

trên thị trường quốc tế). Ngược lại, do khả năng vốn hạn hẹp nên các ngân hàng
nhỏ không có những phản ứng nhanh nhạy trước sự biến động của lãi suất, ảnh
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 22
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư. Nói chung, một ngân hàng có nguồn
vốn dồi dào sẽ đáp ứng được nhu cầu xin vay, dễ dàng mở rộng thị trường tín
dụng, tăng khả năng thanh toán và các dịch vụ khác của ngân hàng.
1.2.2.3. Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thị trường tài chính.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và mở rộng quy mô hoạt động đòi
hỏi ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường. Uy tín đó phải được thể hiện
trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán khi khách hàng có yêu cầu. Khả năng
thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Để
đảm bảo được các điều kiện trên, ngân hàng phải có một nguồn vốn thoả mãn
đồng thời cả hai yêu cầu: chất lượng và khối lượng. Vì vậy, để nguồn vốn huy
động sử dụng có hiệu quả thì trong kinh doanh ngân hàng cần phải mở rộng quy
mô tín dụng đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng.
1.2.2.4.Vốn quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Nguồn vốn lớn là điều kiện thuận lợi cho ngân hàng mở rộng quan hệ tín
dụng với các thành phần kinh tế cả về quy mô, khối lượng, thời gian và thời hạn
cho vay. Đặc biệt ngày nay, sự xuất hiện hàng loạt các tổ chức tín dụng đã làm
cho tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng trở nên gay gắt. Với một nguồn vốn
dồi dào, ngân hàng sẽ chủ động đưa ra các mức lãi suất cho vay một cách hợp lý
nhằm thu hút được khách hàng. Với năng lực tài chính vững mạnh, ngân hàng sẽ
chủ động huy động vốn với lãi suất thấp nhất nhưng cho vay với lãi suất cao
nhất có thể nhằm tối đa hoá được lợi nhuận nhưng vẫn đảm bảo thu hút được
khách hàng về ngân hàng mình.
1.2.3. Kết cấu vốn của NHTM
1.2.3.1.Vốn tự có
Vốn tự có, còn được gọi là vốn chủ sở hữu, là vốn riêng của một Ngân

hàng thương mại. Đây là số vốn ban đầu và được gia tăng không ngừng cùng
với quá trình phát triển của NHTM. Về phương diện quản lý, vốn tự có là số vốn
tối thiểu, bắt buộc một NHTM phải có để được cấp giấy phép kinh doanh, đồng
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 23
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
thời là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Vốn tự có của Ngân hàng gồm 2
cấp:
- Vốn cấp 1 bao gồm: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu
tư phát triển nghiệp vụ, quỹ dự phòng tài chính và lợi nhuận chưa chia.
- Vốn cấp 2 bao gồm:
+ 50% giá trị tăng thêm của tài sản cố định và 40% giá trị tăng thêm của
các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo qui định của pháp luật.
+ Dự phòng chung.
+ Các trái phiếu chuyển đổi và một số các công cụ nợ khác thỏa mãn điều
kiện do Ngân hàng Nhà nước qui định.
1.2.3.2.Vốn huy động
Vốn huy động là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà Ngân
hàng tạm thời quản lí và sử dụng, với trách nhiệm hoàn trả, vốn huy động là
nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất của bất kỳ một NHTM nào. Chỉ có các
NHTM mới được quyền huy động vốn dưới nhiều hình thức khác nhau.
1.2.3.3.Vốn đi vay
- Vốn đi vay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (còn gọi là vốn đi vay trên thị
trường tiền tệ 1).
- Vốn vay các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác.
1.2.3.4. Vốn huy động thông qua phát hàng giấy tờ có giá
Đây là nguồn vốn mà NHTM có được thông qua việc phát hành các giấy tờ
có giá như kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi…
1.2.3.5.Các nguồn vốn khác
- Nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của Ngân hàng như các
khoản phải trả, các khoản tiền tạm gửi theo quyết định của tòa án, v.v…

- Vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ hoặc của các tổ chức trong và
ngoài nước cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế văn hóa xã hội.
1.3. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 24
Chuyên đề tốt nghiệp Giáo viên HD: Trần Thị Yến
1.3.1.1. Tiền gửi hoạt kỳ (Tiền gửi không kỳ hạn)
Tiền gửi hoạt kỳ là loại tiền gửi mà người gửi tiền (chủ tài khoản) được sử
dụng một cách chủ động và linh hoạt không bị ràng buộc về mặt thời gian.
Tiền gửi hoạt kỳ là loại tiền gửi để phục vụ nhu cầu giao dịch, thanh toán
cho chủ tài khoản như trả tiền hàng hóa, dịch vụ, rút tiền mặt từ ATM, chuyển
tiền v.v…
Chủ tài khoản gửi tiền vào tài khoản của Ngân hàng, không nhằm mục đích
hưởng lãi, mà vì nhu cầu giao dịch, thanh toán, chính vì vậy lãi suất không phải
là công cụ để thu hút nguồn vốn này, mà công cụ chính là dịch vụ mà Ngân
hàng cung cấp kèm theo phải là dịch vụ có nhiều tiện ích, an toàn, nhanh chóng
và chính xác.
Tiền gửi hoạt kỳ là loại nguồn vốn huy động có chi phí sử dụng vốn (chi
phí trả lãi) rất thấp. Chính vì vậy các Ngân hàng nên tập trung huy động nguồn
vốn này, thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mới có hiệu quả cao. Do tính
chất linh hoạt của nó, nên tiền gửi hoạt kỳ được sử dụng để cho vay ngắn hạn.
Tiền gửi hoạt kỳ có lãi suất thấp nhất trong các loại tiền gửi NH. Hàng
tháng ngân hàng tính lãi tiền gửi cho khách hàng theo phương pháp tích số (tính
theo số dư bình quân trong tháng). Lãi tiền gửi sẽ được tư động nhập vốn để tiếp
tục sinh lãi trong tháng kế tiếp.
Tiền gửi hoạt kỳ không những cho phép khách hàng rút tiền mặt, phát hàng
Sec, trả tiền bằng Lệnh chi, mà còn cho phép khách hàng rút tiền tại ATM của
hệ thống liên kết thẻ giữa các NH với nhau.
1.3.1.2. Tiền gửi định kỳ (Tiền gửi có kỳ hạn)
Tiền gửi định kỳ là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ có thể rút ra khi đáo

hạn, tuy nhiên trong trường hợp bình thường các NH vẫn cho khách hàng rút
tiền trước hạn với điều kiện chỉ được hưởng lãi theo lãi suất không kỳ hạn. Tiền
gửi định kỳ có đặc điểm:
- Tiền gửi định kỳ tương đối ổn định, do đó các NHTM thường sử dụng để
cho vay trung, dài hạn.
Sinh viên TH: Đỗ Thị Trang – MSSV: 11022943 Trang: 25

×