Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

vai trò nhà nước trong xã hội hóa truyền hình ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 126 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Xin cam đoan: Luận văn “Vai trò Nhà nước trong xã hội hóa
Truyền hình ở Việt Nam ” là do tự bản thân tôi nghiên cứu, sưu
tầm tài liệu và xây dựng.
Tôi xin cam đoan và chịu toàn bộ trách nhiệm về tính trung
thực cũng như sự hợp pháp của vấn đề nghiên cứu.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Ngọc Long
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
7.Báo Đại biểu nhân dân có bài viết "Xã hội hóa phim truyền hình:Cần định giá đúng ”
xem tại 109
8.Báo mới có Bài viết “AVG là ai?” Xem tại 109
33.Thời báo kinh tế Sài gon online Bài viết : ‘Xã hội hóa truyền hình: Nên đưa vào Luật
Báo chí ‘ xem tại www.thesaigontimes.vn 111
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BTTTT Bộ Thông tin truyền thông
CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam
Đài PT - TH Đài Phát thanh - Truyền hình
Đài TH TP HCM Đài truyền hình Thành phố Hồ chí Minh
Đài TH KTS Đài truyền hình kỹ thuật số
ĐTHVN Đài truyền hình Việt nam
HTV Kênh của Đài Thành phố Hồ chí Minh
MC Người dẫn chương trình
PCTN Phòng chống tham nhũng
QLNN Quản lý nhà nước
TP HCM Thành phố Hồ chí Minh
TBKTSG Thời báo kinh tế Sài Gòn
TV Ti vi ( máy phát hình – vô tuyến )
TH Truyền hình
TS Tiến sỹ


VN Việt nam
VTV VietnamTelevision
XHH Xã hội hóa
WTO Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU 1
7.Báo Đại biểu nhân dân có bài viết "Xã hội hóa phim truyền hình:Cần định giá đúng ”
xem tại 109
8.Báo mới có Bài viết “AVG là ai?” Xem tại 109
33.Thời báo kinh tế Sài gon online Bài viết : ‘Xã hội hóa truyền hình: Nên đưa vào Luật
Báo chí ‘ xem tại www.thesaigontimes.vn 111
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Ở nước ta, trong những năm vừa qua cùng với sự phát triển của tình hình kinh tế - xã
hội, sự phát triển của nền kinh tế thị trường, thì hoạt động phát thanh truyền hình cũng
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, nước ta đã và đang tham gia tích cực vào một số
tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền
kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, trong đó hoạt động điện
ảnh- truyền hình đang từng bước thực hiện xã hội hoá. Do đó, cần tăng cường vai trò quản
lý của nhà nước đối với hoạt động điện ảnh sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế trong
điều kiện hội nhập của nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, hiện nay vai trò quản lý của nhà
nước trong hoạt động điện ảnh và phát thanh- truyền hình vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế
như các văn bản pháp luật hiện hành về hoạt động điện ảnh và truyền hình còn thiếu các
quy định về hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài để sản xuất phim, hoạt
động điện ảnh có yếu tố nước ngoài; tỷ lệ chiếu phim Việt Nam với phim nước ngoài trong
hệ thống chiếu bóng, phát sóng trên truyền hình cũng cần được điều chỉnh để có tính khả
thi, đáp ứng trong tình hình mới Những vấn đề nêu trên gây ra vướng mắc và khó khăn
nhất định cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động điện ảnh và
truyền hình trên đất nước ta, chưa tạo sự khuyến khích đối với các thành phần kinh tế tham
gia vào việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động điện ảnh và truyền hình.
Để sớm khắc phục những hạn chế và bất cập trên đây, nhằm thúc đẩy hoạt động điện

ảnh phát triển phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, đồng thời khẳng định vai trò và bản sắc
của điện ảnh Việt Nam. Là một cán bộ công tác trong ngành truyền hình, với mong nuốn
vận dụng kiến thức đã được học vào thực tiễn và có những đóng góp thiết thực cho ngành,
tôi chọn đề tài "Vai trò Nhà nước trong xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam " để viết luận
văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị.
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành kinh tế chính trị
như: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp so sánh, phân tích, phương pháp
chuyên gia và một số phương pháp khác. Kết quả nghiên cứu của luận văn đã có những
đóng góp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, luận văn đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về xã hội
hoá và xã hội hoá truyền hình
i
Luận văn chỉ rõ, hiện nay, xã hội hóa là cụm từ được sử dụng rất rộng rãi trong nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhưng bản chất của xã hội hoá là gì? Thì vẫn chưa có
khái niệm chung thống nhất. Trong thực tế tuỳ thuộc vào quan niệm của từng lĩnh vực
nghiên cứu, như luật học, kinh tế học, lý thuyết về xã hội học mà các khái niệm có một số
điểm khác nhau. Nhìn chung, cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu về “xã hội hoá”, trong
đó cũng còn ít nhiều phiến diện, chưa làm rõ được bản chất của “xã hội hoá”. Đi tìm trong
các từ điển tiếng Việt, không tìm thấy cuốn từ điển nào giải nghĩa đầy đủ cho thuật ngữ
“xã hội hoá” trên tư cách là một thuật ngữ độc lập. Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm thấy
những sự giải nghĩa thuật ngữ “xã hội hoá” khi nó được ghép với các thuật ngữ khác như:
“xã hội hoá sản xuất”; “xã hội hoá hình thức”; “xã hội hoá thực tế”. Như vậy có thể thấy, ở
mỗi góc nhìn khác nhau thì thuật ngữ XHH được định nghĩa khác nhau, nhưng điều cốt lõi
là dù định nghĩa thế nào thì các thuật ngữ đó đều đề cập tới sự tương tác, mối liên hệ, thuộc
tính vốn có của con người, của cộng đồng nhằm đáp ứng lại xã hội và chịu ảnh hưởng của
xã hội. Hoạt động của con người, của cộng đồng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau.
Qua nghiên cứu các thuật ngữ trên có thể suy ra một cách khái quát rằng: “Xã hội
hoá” một hoạt động nào đó, chính là sự gia tăng tính chất “xã hội” của hoạt động ấy

thông qua sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội dựa trên những điều kiện
và trong khuôn khổ cơ chế nhất định. Điều kiện và cơ chế cụ thể như thế nào là phụ thuộc
vào bối cảnh của xã hội hoá. Những điều kiện và cơ chế đóng vai trò then chốt đối với sự
thành công của xã hội hoá, chúng quy định hình thức, phương thức “tham gia” của các chủ
thể khác nhau trong xã hội vào hoạt động được xã hội hoá. Như vậy, điều kiện và cơ chế
gắn với bối cảnh xã hội hoá sẽ quyết định ý nghĩa của “xã hội hoá” trong bối cảnh ấy.
Thứ hai, luận văn đã làm rõ khái niệm và nội dung xã hội hoá truyển
hình ở nước ta.
Trước hết luận văn đã khái quát làm rõ khái niệm xã hội hoá truyển hình:
”Xã hội hóa Truyền hình” chính là "sự tham gia của nhiều chủ thể vào quá
trình sản xuất chương trình từ bên ngoài ngành Truyền hình". Điều đó có
nghĩa là trong các khâu sản xuất, hình thành tác phẩm của một chương trình
truyền hình có thể có nhiều chủ thể tham gia. Như vậy khái niệm ” Xã hội hóa
ii
truyền hình ” đã hàm chứa trong nó cả mục tiêu xây dựng một nền Truyền
hình hiện đại nhờ phát huy tối đa các nguồn lực của xã hội. Đây cũng là con
đường để việc sản xuất các chương trình Truyền hình đi theo hướng chuyên
môn hóa, chất lượng và năng suất cao hơn. Về nội dung xã hội hóa truyền hình
có thể khái quát ở những vấn đề chủ yếu sau đây: Một là, phát triển kênh
truyền hình với nhiều cấp độ, nhiều hình thức từ Đài phát sóng trung ương
đến từng đài ở các địa phương; Hai là, huy động nguồn lực từ các thành phần
kinh tế, các chủ thể trong việc cung ứng dịch vụ truyền hình; Ba là, phát triển
các quan hệ liên kết về chuyên môn giữa các cơ sở truyền hình trong và
ngoài nước trong xây dựng chương trình và phát sóng
Thứ ba, luận văn đã khẳng định sự cần thiết khách quan phải tăng cường
vai trò nhà nước trong quá trình thực hiện xã hội hoá truyền hình. Luận văn
đã chỉ rõ truyền hình là loại sản phẩm vật chất đặc biệt. Nó không chỉ là hàng
hóa thông thường mà còn là một loại sản phẩm mang tính đại chúng, tính
công cộng cao. Trước yêu cầu phát triển, cần phải có một quan điểm tích cực
trong triển khai các hoạt động kinh doanh, tìm kiếm nguồn thu. Việc xã hội

hóa các hoạt động của truyền hình đã và sẽ là một khuynh hướng tất yếu trong
thời gian tới. Chỉ có thể để cho công chúng ngày một tham gia nhiều hơn vào
các công đoạn sản xuất của mình, và hướng hoạt động sản xuất đến phục vụ
và thoả mãn nhu cầu xem của công chúng, truyền hình mới có điều kiện thuận
lợi để phát triển, giữ được ưu thế cạnh tranh trong bối cảnh thông tin bùng nổ
hiện nay. Việc tham gia mạnh mẽ vào tiến trình xã hội hóa, tận dụng được
mọi nguồn lực trong xã hội để đầu tư cho phát triển sẽ là cơ sở để truyền hình
tiếp tục củng cố chỗ đứng của mình. Hoạt động trong lĩnh vực truyền hình
như đã phân tích là hết sức đa dạng, phong phú và không kém phần phức tạp.
Để hoạt động trong lĩnh vực truyền hình thực sự là món ăn tinh thần của quần
chúng nhân dân, là công cụ quảng bá chủ trương đường lối, chính sách của
iii
Đảng và Nhà nước phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước thì không thể
vắng thiếu vai trò quản lý, định hướng của nhà nước. Vai trò quản lý nhà
nước đối với hoạt động truyền hình cần được xem xét trên cả hai phương
diện: quản lý nội dung chương trình và quản lý con người tham gia xây dựng
và thực hiện chương trình truyền hình.
Thứ tư, Luận văn cũng làm rõ nội dung vai trò của nhà nước trong xã
hội hoá truyền hình và bao gồm: Một là, nhà nước phải xây dựng được chiến
lược quốc gia về xã hội hóa truyền hình, gắn với đó là xây dựng quy hoạch
phát triển mạng lưới truyền hình quốc gia; Hai là, nhà nước hỗ trợ, khuyến
khích, tạo điều kiện để các tổ chức và cá nhân tham gia cung ứng dịch vụ
truyền hình và liên kết trong các hoạt động phát triển chương trình truyền
hình; Ba là, nhà nước xây dựng hành lang pháp lý và thực hiện quản lý, kiểm
tra, giám sát hoạt động của các tổ chức và cá nhân cung ứng dịch vụ truyền
hình; Bốn là, nhà nước vừa với tư cách là một cơ quan quản lý, lại vừa với tư
cách là một chủ thể giữ vai trò nòng cốt trong việc cung ứng chương trình
truyền hình. Đồng thời luận văn cũng chỉ rõ các nhân tố tác động đến hoạt
động xã hội hoá truyển hình ở nước ta như: nhân tố về điều kiện tự nhiên;
nhân tố về điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội; nhân tố về văn hóa và con

người; nhân tố quốc tế. Bên cạnh đó hệ thống chính sách, pháp luật; trình độ
dân trí, sự hiểu biết về tác dụng của truyền hình; tốc độ tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế; môi trường hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác động
không nhỏ đến xã hội hoá truyền hình.
Thứ năm, luận văn đã nghiên cứu kinh nghiệm về xã hội hoá truyền hình của một số
kênh truyền hình nước ngoài như: như MTV, HBO, STARMOVIES, CINEMAX,… và cả
kinh nghiệm của các nhà Đài trong nước…qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho
việc xã hội hoá truyền hình của Việt Nam trên các mặt: quản lý Nhà nước về hoạt động
truyền hình và xã hội hoá truyền hình của Việt Nam; quản lý Nhà nước trong công tác
chuyên môn; tăng cường hệ thống pháp luật về hoạt động phát thanh truyền hình; kiểm tra
iv
giám sát và qui định về phạm vi hoạt động trong xã hội hoá truyền hình.
Thứ sáu, luận văn đã khái quát lịch sử hình thành ngành truyền hình Việt Nam; Tổng
quan các chương trình phát sóng của Đài truyền hình Việt Nam; phân tích thực trạng xã
hội hoá truyền hình ở Việt Nam giai đoạn 2005- 2009. Luận văn đã khái quát chỉ ra những
kênh truyền hình đã được xã hội hóa trên Đài truyền hình kỹ thuật số VTC cũng như các
chương trình truyền hình đã được xã hội hoá trên toàn bộ các kênh phát sóng của đài
truyền hình trung ương (VTV) cũng như các đài địa phương ở nước ta thời gian vừa qua.
Từ những phân tích, đánh giá thực trạng xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam, luận văn rút
ra nhận xét: cũng có thể thị trường kinh doanh các sản phẩm truyền hình ở Việt Nam đang
ở giai đoạn manh nha, mỗi người một cách, nhân lực lại ít và nhiều nơi vừa làm vừa học
nên dù có phát triển về số lượng thì các cuộc cạnh tranh về chất lượng và hình thức kinh
doanh còn kéo dài, thậm chí còn gây nhiều tranh cãi. Nhưng chắc chắn rằng, lĩnh vực “xã
hội hoá” truyền hình vẫn còn “đất” phát triển trong tương lai và ngày càng có nhiều doanh
nghiệp tìm đến.
Thứ bảy, luận văn đã tổng quan làm rõ thực trạng vai trò nhà nước trong chỉ đạo
thực hiện chủ trương xã hội hoá truyền hình ở nước ta thời gian vừa qua trên các mặt:
- Về chỉ đạo triển khai các văn bản pháp quy của Nhà nước. Luận văn chỉ
rõ: Trước tháng 5-2009 gần như không có văn bản pháp luật nào điều chỉnh,
cho phép các hoạt động hợp tác đầu tư trong lĩnh vực truyền hình. Lâu nay,

việc hợp tác đầu tư như vậy thường được hiểu như là một phần chủ trương
khuyến khích xã hội hóa của Nhà nước. Thế nhưng, nếu nghiên cứu kỹ tinh
thần của các văn bản quy định về chính sách khuyến khích xã hội hóa, từ
Nghị quyết số 90-CP ngày 21-8-1997 đến các Nghị định 73/1999/NĐ-CP,
53/2006/NĐ-CP và mới nhất là Nghị định 69/2008/NĐ-CP của Chính phủ
đều thấy rằng truyền hình không thuộc diện được Nhà nước khuyến khích xã
hội hóa. Tuy nhiên, phong trào hợp tác đầu tư vốn trong lĩnh vực truyền hình
thời gian qua vẫn rộ lên rất mạnh, điều đó cho thấy nhu cầu đầu tư vào lĩnh
vực truyền hình rất cao trong khi “cung” pháp lý đã không đáp ứng kịp.
Phong trào xã hội hóa lĩnh vực truyền hình đã được “cứu nguy” bằng Thông
tư 09/2009/TT-BTTTT ngày 28-5-2009 của Bộ Thông tin Truyền thông. Có
v
thể nói, đây là văn bản đầu tiên tạo cơ sở pháp lý, đồng thời chấm dứt một
thời kỳ hợp tác đầu tư “công- tư” theo kiểu “tranh tối tranh sáng” trong lĩnh
vực truyền hình tại Việt Nam. Hơn nữa, văn bản này tỏ ra cởi mở khi cho
phép các doanh nghiệp “có tư cách pháp nhân và đăng ký kinh doanh theo
pháp luật Việt Nam” được hợp tác với đài truyền hình để sản xuất không chỉ
một phần mà toàn bộ kênh chương trình truyền hình, áp dụng không chỉ
truyền hình trả tiền mà cả với truyền hình không trả tiền, phạm vi điều chỉnh
không chỉ truyền hình mà cả với lĩnh vực phát thanh. Đài truyền hình muốn
thực hiện hợp tác chỉ cần làm thủ tục đăng ký hoặc thông báo với Bộ Thông
tin Truyền thông. Trong khi đó, vẫn còn một số ý kiến băn khoăn. Cơ sở pháp
lý để ban hành Thông tư 09/2009/TT-BTTTT là Luật Báo chí và Nghị định
51/2002/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết Luật Báo chí (xin lưu ý, văn bản này
không dựa trên các quy định về chính sách xã hội hóa). Tuy nhiên, pháp luật
về báo chí hiện chỉ mới cho phép cơ quan báo chí được “tổ chức hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực in ấn, chế bản, phát hành sách, quảng cáo, quay
phim, nhiếp ảnh và kinh doanh vật tư thiết bị liên quan đến chuyên môn
nghiệp vụ báo chí để tạo nguồn thu đầu tư trở lại cho sự nghiệp phát triển báo
chí” (khoản 2, điều 7, Nghị định 51/2002/NĐ-CP).

- Chỉ đạo trong xã hội hoá phát triển mạng lưới truyền hình: Thông tư
19/2009/TT - BTTTT quy định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất
chương trình phát thanh, truyền hình đã chính thức có hiệu lực tròn một năm.
Chưa phải là một khoảng thời gian dài, nhưng cũng đã đủ để nhìn lại, để có
thể đánh giá bước đầu về những gì đã làm được, khi văn bản từ con chữ trên
giấy đi vào thực tế cuộc sống. Hoạt động liên kết là “hợp tác giữa một bên là
đài phát thanh, truyền hình với một bên là đối tác liên kết để tạo ra một phần
hoặc toàn bộ sản phẩm liên kết”. Trong đó, “quyền lợi của đối tác liên kết
được trả bằng quyền lợi từ hoạt động quảng cáo, tài trợ hoặc từ nguồn thu phí
vi
phát thanh, truyền hình theo một phương thức nhất định khi phát sóng chính
sản phẩm liên kết của đài phát thanh, truyền hình”. Các hình thức hoạt động
liên kết bao gồm: 1. Trao đổi bản quyền chương trình hoàn chỉnh; 2. Trao đổi
bản quyền định dạng chương trình; 3. Tổ chức sản xuất chương trình hoặc
một phần chương trình; 4. Tổ chức sản xuất toàn bộ kênh chương trình. Điều
kiện của đối tác liên kết: 1. Có tư cách pháp nhân và đăng ký kinh doanh theo
pháp luật Việt Nam; 2. Đã sản xuất hoặc tham gia sản xuất tối thiểu 03 (ba)
chương trình phát thanh, truyền hình được phát sóng khi thực hiện hình thức
liên kết quy định tại khoản 3, khoản 4, điều 3 Thông tư này; 3. Có phương án
bảo đảm nguồn lực tài chính, nhân sự và cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết để
thực hiện Hợp đồng liên kết.
- Về chỉ đạo xã hội hoá nguồn nhân lực và kỹ thuật trong lĩnh vực truyền
hình ở Việt Nam. Dưới góc độ nguồn nhân lực, truyền hình cũng bước vào
giai đoạn xã hội hóa quyết liệt. Hiện tại công việc của truyền hình bao gồm
rất nhiều ngành nghề khác nhau: quản lý, kỹ thuật, nghệ thuật, kinh tế, xã hội,
chính trị… với các vị trí công tác khác nhau. Tất cả đều có chức năng nhiệm
vụ rõ ràng trong hoạt động dây chuyền tạo ra sản phẩm truyền hình. Vì vậy để
có những sản phẩm hoàn chỉnh, chất lượng cao, tất cả các công đoạn đều phải
có sự phối hợp nhịp nhàng và được hoàn thành với trình độ chuyên môn cao.
Yêu cầu công việc cho thấy việc tự đào tạo lẫn nhau, tự nâng cao trình độ là

điều cần nhưng chưa thể là điều kiện đủ. Truyền hình sẽ khó hoàn thành
nhiệm vụ của mình khi không tuyển dụng được một nguồn nhân lực có tay
nghề cao trong xã hội để phục vụ cho chiến lược phát triển của ngành. Trong
hoạt động quản lý ở truyền hình, xã hội hóa các nguồn lực lao động là một xu
hướng tất nhiên không thể cưỡng lại được. Trên phương diện kỹ thuật cũng
đang dần thể hiện rõ xu thế hóa của truyền hình. Nhờ những tiến bộ của khoa
học kỹ thuật, mà các loại thiết bị phục vụ cho sản xuất các chương trình
vii
truyền hình cũng trở nên ngày một hiện đại, tiện nghi và đặc biệt là rẻ hơn rất
nhiều so với trước. Điều này mở ra một khả năng hợp tác vô cùng rộng lớn cho
cả truyền hình và công chúng. Về phía công chúng, có thể tham gia trực tiếp
vào thực hiện các chương trình truyền hình. Và cũng chính điều ấy mà nội
dung, hình thức thông tin của truyền hình sẽ ngày một đa dạng và mới hơn.
- Về công tác tổ chức phối hợp giữa các cơ sở sản xuất chương trình
truyền hình với các Đài truyền hình Trung ương và địa phương trong việc
phát sóng các chương trình truyền hình xã hội hoá. Tổng Công ty Truyền
thông Đa phương tiện Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Vietnam
Multimedia Corporation hay Vietnam Television Corporation - VTC) là
doanh nghiệp nhà nước, hạch toán độc lập trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền
thông Việt Nam. Trong những năm gần đây VTC đã đẩy nhanh quá trình xã
hội hoá truyền hình bằng biện pháp phối hợp giữa các cơ sở sản xuất chương
trình truyền hình với các Đài truyền hình Trung ương và địa phương trong
việc phát sóng các chương trình truyền hình xã hội hoá. Luận văn đã đưa ra
một loạt ví dụ điển hình về sự liên kết.
Thứ tám, từ kết quả phân tích thực trạng vai trò nhà nước trong xã hội
hoá truyền hình ở Việt Nam thời gian vừa qua, luận văn đã đánh giá chung
chỉ ra những thành tựu đã đạt được và cả những tồn tại, hạn chế cần khắc
phục trong thời gian tới:
Về thành tựu, chủ trương xã hội hóa hoạt động Điện ảnh của Đảng và Nhà nước
ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Sự ra đời và hoạt động của nhiều hãng

phim tư nhân thời gian qua đã tạo sự cạnh tranh lành mạnh và sức sống mới trong hoạt
động sản xuất phim, cả ở điện ảnh và truyền hình. Xã hội hóa truyền hình nói chung và xã
hội hóa sản xuất phim truyền hình nói riêng là một xu thế tất yếu của một xã hội phát triển.
Mặt khác, việc quy định 50% thời lượng phim Việt trên sóng buộc các Đài truyền hình
phải mở rộng sự hợp tác làm phim theo hướng xã hội hóa. Sự tham gia của các hãng phim
tư nhân làm cho các hãng phim Nhà nước không còn ở thế “độc tôn”, đem đến luồng sinh
khí mới cho đời sống phim truyền hình cả nước, tạo ra cuộc cạnh tranh lành mạnh, thúc
viii
đẩy việc nâng cao chất lượng phim; công chúng có nhiều điều kiện để chọn cho mình món
ăn tinh thần ưa thích bởi các phim được sản xuất đa dạng về đề tài, phong phú về cách thể
hiện. Xã hội hóa truyền hình cũng giảm được gánh nặng tài chính cho các Đài truyền hình
khi đầu tư sản xuất những bộ phim dài tập, nhờ có chủ trương trương xã hội hóa mà các
Đài có thêm nguồn kinh phí để đầu tư vào cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng cơ sở truyền
thông góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Nhờ có chủ trương xã hội hóa
truyền hình nên vấn đề ngân sách nhà nước cũng được cắt giảm để bù vào những lĩnh vực
kinh tế văn hóa khác.
Về hạn chế, Nhà nước hiện nay chỉ có 1 Bộ chủ quản để quản lý và chúng ta mới chỉ
quan tâm tới khía cạnh chính trị và kinh tế của truyền thông, nhưng sản phẩm truyền thông
ảnh hưởng tới cả đời sống tinh thần và giáo dục đối với rất nhiều thế hệ khán giả. Vì vậy,
nhiều vấn đề cần phải đưa vào nội dung quản lý nhà nước với những chế tài giám sát chặt
hơn. Xã hội hóa Truyền hình đây là vấn đề xã hội hoá liên quan nhiều đến vấn đề tiền bạc
trong con mắt mọi người, nhưng với nhà quản lý, vấn đề được nhìn nhận dưới nhiều góc độ
khác. Thành phần tham gia xã hội hoá không chỉ các đơn vị nhà nước mà còn có rất nhiều
đơn vị tư nhân. Đây là điều đáng mừng và phù hợp với xu hướng hội nhập trong thời gian
tới. Việc tham gia của tư nhân vào lĩnh vực văn hoá, văn nghệ đã làm cho đời sống văn hoá
thêm sôi động. Đã đến lúc phải chú trọng đến chất lượng các chương trình phát sóng trên
truyền hình.
Nguyên nhân của những hạn chế, những tồn tại và hạn chế trong xã hội hoá truyền
hình ở nước ta hiện nay được bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng có thể nêu ra một số
nguyên nhân chủ yếu sau: Tình trạng bán kênh truyền hình chưa được kiểm soát: Hầu hết

các đài truyền hình lớn trên cả nước đều có vài kênh, như: VTV, VTC, HTV, BTV, ĐN…,
chưa kể số lượng kênh trên truyền hình cáp: HTVC, SCTV, VCTV đã được nhà nước
khuyến khích, cho phép xã hội hóa; Bản quyền phát sóng bị lạm dụng: Vì có nhiều tư nhân
tham gia kinh doanh truyền hình (nhưng không có chuyên môn, kinh nghiệm), lại muốn có
chương trình lấp đầy sóng và muốn thu hồi vốn nhanh, nên hầu hết các đơn vị kinh doanh
truyền hình đều chọn phương án: mua chương trình, mua phim về phát. Rất ít đơn vị tự
mình sản xuất chương trình. Nhưng vì nhiều kênh, nhiều đài muốn có phim, có chương
trình lấp sóng và chỉ mua giá rẻ, nên nhiều đơn vị bán một phim cho 5, 6 đài (kênh); Tốc
độ mở kênh ồ ạt: Hiện nay dù đã có nhiều đài truyền hình với rất nhiều kênh truyền hình,
nhưng số lượng này chưa ngừng lại. Trong kế hoạch quy hoạch các kênh truyền hình,
ix
VTV, HTV, VTC tới đây sẽ còn ra thêm nhiều kênh mới. Vấn đề kỹ thuật vẫn là phạm trù
rối rắm với khán giả xem đài và là “cuộc chiến” ngầm của các đài truyền hình.
Thứ chín, luận văn đã nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp có
tính khả thi nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong xã hội hoá truyền hình
trong thời gian tới: Luận văn nhấn mạnh: Tăng cường vai trò quản lý nhà
nước trong xã hội hoá truyền hình là nhằm đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt
động truyền hình để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu văn hoá, tinh thần của
nhân dân. Xã hội hoá hoạt động truyền hình là động viên và tổ chức tốt sự
tham gia chủ động và tích cực của toàn xã hội trong công tác phát triển ngành
truyền hình, là khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực của toàn xã
hội, mở rộng các nguồn lực đầu tư cho hoạt động truyền hình như khuyến
khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực truyền hình, các thành
phần kinh tế tham gia vào cung cấp dịch vụ truyền hình . Thực hiện sự công
bằng trong quản lý Nhà nước đối với truyền hình công lập và truyền hình xã
hội hoá . Tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể ngoài nhà nước tham gia hoạt
động và phát huy hiệu quả thiết thực trong phục vụ nhân dân trên lĩnh vực
phát thanh, truyền hình; Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với các
dịch vụ truyền hình xã hội hoá theo hướng mở rộng hoạt động các dịch vụ
truyền hình ngoài nhà nước. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình dịch vụ

truyền hình; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân
tham gia xây dựng các sản phẩm truyền hình và chương trình truyền hình hoạt
động không vì mục đích lợi nhuận. Mở rộng hoạt động dịch vụ truyền hình xã
hội hoá là thực hiện chính sách xã hội hoá truyền hình, không phân biệt các
thành phần kinh tế, trên cơ sở đảm bảo đủ tiêu chuẩn và điều kiện theo quy
định của pháp luật hiện hành thì đều được tham gia hoạt động dịch vụ truyền
hình; Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động truyền hình xã
hội hoá là nhằm nâng cao chất lượng của dịch vụ truyền hình. Bên cạnh việc
đa dạng hoá các loại hình dịch vụ truyền hình và các hình thức liên kết trong
x
sản xuất sản phẩm và chương trình truyền hình, còn phải tăng cường sự quan
tâm của nhà nước đến việc đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm
nghề truyền hình xã hội hoá để không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ
nhân dân; Tăng cường vai trò Nhà nước trong chỉ đạo và triển khai thực hiện
xã hội hoá truyền hình. Tuyên truyền để nâng cao nhận thức và trách nhiệm
của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức triển khai thực hiện chính sách xã hội hoá truyền hình.
Thứ mười, Tác giả luận văn đã đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm tiếp
tục tăng cường vai trò Nhà nước trong chỉ đạo và triển khai thực hiện xã hội
hoá truyền hình bao gồm các nhóm giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện các văn bản
pháp quy, cơ chế, chính sách đối với hoạt động truyền hình; Hoàn thiện công
tác quy hoạch mạng lưới truyền dẫn, phát sóng truyền hình và truyền hình xã
hội hoá; Hoàn thiện công tác quản lý mạng lưới truyền hình xã hội hoá; Đổi
mới tổ chức bộ máy triển khai xã hội hoá truyền hình; Tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động dịch vụ truyền hình; Đẩy mạnh hợp tác
quốc tế trong hoạt động truyền hình.
xi
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Điện ảnh là ngành nghệ thuật tổng hợp các yếu tố văn học, nghệ thuật,

âm nhạc, kiến trúc, nhiếp ảnh Tác phẩm điện ảnh là bộ phim được hình
thành bởi sự sáng tạo nghệ thuật, thể hiện các hình ảnh liên tục và âm thanh,
được ghi lại trên phim bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại và chiếu trên
màn ảnh, phát trên sóng truyền hình mà không phụ thuộc vào không gian, thời
gian để phổ biến rộng rãi đến công chúng. Do đó, tác phẩm điện ảnh mang
tính đại chúng, có sức thu hút đông đảo khán giả và cùng lúc có thể phổ cập
trên địa bàn rộng, trên phạm vi cả nước và quốc tế, nên có tác động mạnh mẽ
trong đời sống xã hội và giao lưu quốc tế. Ngoài lợi ích về kinh tế, tác phẩm
điện ảnh còn là một sản phẩm nghệ thuật gắn với định hướng tư tưởng, ảnh
hưởng sâu sắc đến tình cảm, đạo đức lối sống của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây
dựng con người mới xã hội hội chủ nghĩa.
Bước vào cơ chế thị trường trong những năm 80 của thế kỷ trước, điện
ảnh cũng như một số ngành nghệ thuật khác rơi vào tình trạng khủng hoảng,
các lĩnh vực sản xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim không còn được
Nhà nước bao cấp, nên dẫn đến tình trạng sản xuất phim bị đình trệ, rạp chiếu
phim đóng cửa hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng, nạn video đen hoành
hành Tuy nhiên, kể từ khi ban hành Nghị định số 48/1995/NĐ-CP ngày 17
tháng 7 năm 1995 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động điện ảnh cho đến
nay, tổ chức và hoạt động của ngành điện ảnh đã có bước phát triển, mang
theo một diện mạo mới. Các đơn vị điện ảnh bước đầu được củng cố, một số
cơ sở điện ảnh tư nhân được thành lập; hoạt động sản xuất, xuất, nhập khẩu,
phổ biến và lưu trữ phim dần dần ổn định; nhiều thành phần kinh tế tham gia
1
vào hoạt động điện ảnh, trong đó bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước
ngoài và các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Cùng với sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, hoạt động điện ảnh ngày càng phát triển mạnh mẽ
nhưng đồng thời cũng xuất hiện nhiều vấn đề mới phức tạp nảy sinh cần có sự
quản lý của nhà nước và được điều chỉnh bằng pháp luật như: điều kiện hoạt

động của các doanh nghiệp sản xuất phim tư nhân, doanh nghiệp nhập khẩu
phim gắn với với việc phát triển hệ thống rạp chiếu phim hiện đại ; vấn đề
quản lý và sản xuất phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước cho phù hợp
với việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động điện ảnh; nâng cao chất
lượng của các tác phẩm điện ảnh; giải quyết mối quan hệ giữa điện ảnh với
truyền hình để bảo đảm việc sản xuất và phát sóng phim truyện Việt Nam trên
truyền hình đạt hiệu quả.
Hiện nay, nước ta đã tham gia tích cực vào một số tổ chức khu vực và
quốc tế, đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta
ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, trong đó hoạt động điện ảnh-
truyền hình đang từng bước thực hiện xã hội hoá. Do đó, cần tăng cường vai
trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động điện ảnh sao cho phù hợp với
thông lệ quốc tế trong điều kiện hội nhập của nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên,
hiện nay vai trò quản lý của nhà nước trong hoạt động điện ảnh và phát thanh-
truyền hình vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như các văn bản pháp luật hiện
hành về hoạt động điện ảnh còn thiếu các quy định về hợp tác, liên doanh với
tổ chức, cá nhân nước ngoài để sản xuất phim, hoạt động điện ảnh có yếu tố
nước ngoài; tỷ lệ chiếu phim Việt Nam với phim nước ngoài trong hệ thống
chiếu bóng, phát sóng trên truyền hình cũng cần được điều chỉnh để có tính
khả thi, đáp ứng trong tình hình mới Những vấn đề nêu trên gây ra vướng
mắc và khó khăn nhất định cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham
2
gia hoạt động điện ảnh trên đất nước ta, chưa tạo sự khuyến khích đối với các
thành phần kinh tế tham gia vào việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt
động điện ảnh, hạn chế khả năng phát triển của nền điện ảnh nước nhà.
Để sớm khắc phục những hạn chế và bất cập trên đây, nhằm thúc đẩy
hoạt động điện ảnh phát triển phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, đồng thời
khẳng định vai trò và bản sắc của điện ảnh Việt Nam. Là một cán bộ công tác
trong ngành truyền hình, với mong muốn vận dụng kiến thức đã được học vào
thực tiễn và có những đóng góp thiết thực cho ngành, tôi chọn đề tài "Vai trò

Nhà nước trong xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam " để viết luận văn thạc
sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị.
II. Tổng quan về tình hình nghiên cứu:
Trên phạm vi cả nước, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu
chủ yếu dưới dạng các bài báo, các tham luận hội thảo bàn luận về chủ trương
XHH hoạt động truyền hình ỏ Việt Nam. Có thể khái quát một số bài báo điển
hình sau đây:
- “Truyền hình và câu chuyện xã hội hóa…” của Nguyễn Kim Trạch,
đăng trên Báo Văn nghệ trẻ, Tạp chí hồn Việt(22/06/2009). Bài báo bình luận
và chỉ rõ, gần đây, một số báo có bài viết về “Xã hội hóa truyền hình”, coi đó
là xu thế chung tất yếu nhưng đồng thời cũng nêu lên tình hình thực tế trên
màn ảnh nhỏ cả nước rằng “tư nhân đang thao túng, thống trị nhiều kênh
truyền hình”, các đài truyền hình “bán sóng” cho các công ty kinh doanh
chỉ lo kiếm lợi nhuận, còn người thiệt thòi là khán giả. Vậy thực chất câu
chuyện này là thế nào?
- “Ngành truyền hình đang được tư nhân hóa quyết liệt?”Bài báo đăng
trên trang Web, Chủ nhật, 25/07/2010. Bài báo bình luận, bây giờ đầu tư kinh
doanh sóng truyền hình được xem vừa thức thời, khuếch trương thanh thế,
vừa chứng tỏ “đẳng cấp” doanh nghiệp. Trên thực tế, với danh nghĩa xã hội
3
hóa truyền hình, đã có rất nhiều kênh truyền hình do các đơn vị tư nhân thực
hiện toàn bộ nội dung phát sóng. Ai trong nghề cũng biết!
- “Nhiều kênh truyền hình: Xã hội hóa hay tư nhân hóa? ”bài của Như
Hoa- Khánh Duy đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng. Bài báo đã phản ánh
hiện nay các kênh truyền hình đang trong xu thế “nở rộ” đã đặt ra nhiều vấn
đề đáng quan tâm không chỉ của cơ quan quản lý mà còn là của khán giả xem
truyền hình. Điều bức xúc nhất vẫn là: kênh truyền hình thì nhiều, nhưng chất
lượng chưa như mong đợi
- “Thử thách từ xã hội hóa truyền hình” của Xuân Thái Chủ nhật,
15/08/2010 Bài báo nhấn mạnh, Truyền hình ngày càng khẳng định vai trò

của mình, tỏ rõ ưu thế vượt trội trong lĩnh vực truyền thông đại chúng. Do yêu
cầu khách quan của giai đoạn mới mà truyền hình phải tăng tốc phát triển và
xã hội hóa chính là con đường đúng đắn để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của ngành truyền hình.
- “Xã hội hóa truyền hình: Nên đưa vào Luật Báo chí”, của Nguyên Tấn,
đăng trên TBKTSG số ra ngày 5-8-2010. Bài báo đã đề cập đến vấn đề xã hội
hóa trong lĩnh vực truyền hình. Bài viết đã phân tích Xã hội hóa truyền hình
dưới góc nhìn pháp lý.
- “AVG là ai?” của Huy Thọ và Thu Hà, đăng trong mục Sự kiện & dư
luận trên báo Tuổi trẻ ngày 16-12-2010. Bài báo đưa thông tin trong vài
tháng gần đây, làng truyền thông VN xôn xao bàn tán về sự xuất hiện của
AVG, một công ty hoạt động trong lĩnh vực truyền thông mới xuất hiện, chưa
có sản phẩm nào “trình làng”, nhưng được dự báo sẽ là một gương mặt đáng
gờm với bất cứ ai, cho dù đó là Đài truyền hình quốc gia! Bài báo khẳng định
đây là công ty tư nhân đầu tiên được truyền dẫn phát sóng ở nước ta .v.v…
Song cho đến hiện nay, vẫn còn rất ít đề tài, tài liệu đề cập đến Vai trò
Nhà nước trong xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam. Đặc biệt dưới góc nhìn
4
của chuyên ngành kinh tế chính trị, vì vậy đề tài mà tác giả lựa chọn là có tính
cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn đồng thời không trùng lặp với các
công trình đã được công bố.
III. Mục đích, nhiệm vụ khoa học của đề tài luận văn
1. Mục đích của luận văn
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của Nhà nước
trong công tác xã hội hoá truyền hình, qua đó vận dụng vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam thông qua khảo sát, đánh giá về thực trạng và đưa ra những đề
xuất, kiến nghị nhằm phát huy vai trò của các cơ quan QLNN các cấp để phát
triển lành mạnh, đúng hướng công tác xã hội hoá truyền hình.
2. Nhiệm vụ khoa học của đề tài luận văn
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về truyền hình và vai trò

của nhà nước trong xã hội hoá truyền hình
- Khảo sát, đánh giá thực trạng vai trò của nhà nước trong công tác xã
hội hoá truyền hình ở Việt Nam thời gian qua
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò
Nhà nước trong công tác xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam thời gian tới.
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
1. Về đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý luận chung về vai trò
của nhà nước trong xã hội hoá truyền hình .
2. Về phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn lấy Đài TH Việt nam VTV và Đài TH kỹ thuật số VTC làm
thực tiễn để khảo sát về thực trạng và đưa ra những đề xuất, kiến nghị.
- Về thời gian: Luận văn đề cập tới vai trò của quản lý nhà nước trong
công tác xã hội hoá truyền hình từ khi có chủ trương của Đảng và Nhà nước
về thực hiện xã hội hoá truyền hình đến nay.
5
V. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp trừu tượng
hoá, kết hợp sử dụng nhiều phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích
và tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh, kết hợp với khảo sát thực tế, thu
thập thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu làm sáng tỏ cho chủ đề
của luận văn.
VI. Những đóng góp của luận văn:
- Góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận về xã hội hoá và xã hội hoá
truyền hình. Về vai trò của nhà nước trong công tác xã hội hoá truyền hình .
- Đánh giá thực trạng vai trò của nhà nước trong công tác xã hội hoá
truyền hình ở Việt Nam trên cả 2 mặt: Thành tựu, tồn tại và nguyên nhân của
những thành tựu, tồn tại đó.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò quản

lý của nhà nước trong công tác xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam trong thời
gian tới
VII. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò nhà nước trong xã
hội hoá truyền hình ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng vai trò nhà nước trong xã hội hoá truyền
hình ở Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai
trò nhà nước trong xã hội hoá truyền hình ở Việt Nam .
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ
NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH
Ở VIỆT NAM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRUYỀN HÌNH VÀ XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH
1.1.1. Truyền hình và vai trò của

truyền hình
1.1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của ngành truyền hình
Lịch sử ra đời và phát triển của ngành truyền hình trên thế giới luôn gắn
liền với sự phát triển của công nghệ truyền hình. Trong quá trình phát triển
công nghệ truyền hình có thể được thực hiện trên 2 phạm vi: các phát triển
trên phương diện cơ học và điện tử học, và các phát triển hoàn toàn trên điện
tử học. Sự phát triển thứ hai là nguồn gốc của các tivi hiện đại, nhưng những
điều trên không thể thực hiện nếu không có sự phát hiện và sự thấu hiểu từ hệ
thống cơ khí.
Năm 1885 một sinh viên người Đức tên là Paul Gottlieb Nipkow đã đưa
ra phát kiến hệ thống tivi cơ điện tử đầu tiên. Thiết kế quay đĩa của Nipkow

được xem là chuyển đổi hình ảnh thành các chấm điểm. Tuy nhiên, phải tới
năm 1907, sự phát minh của công nghệ ống phóng đại mới giúp các thiết kế
thành hiện thực. Trong thời điểm đó Constatin Perskyi đề xuất từ tivi trong
một xuất bản tại Viện điện tử quốc tế ở Hội chợ Quốc tế ở Paris vào 25 tháng
8 năm 1900. Các xuất bản của Perskyi tóm tắt lại công nghệ cơ điện tử, đề cập
đến thành quả của Nipkow và các đồng sự.
Năm 1911, Boris Rosing và học trò của ông là Vladimir Kosma
Zworykin thành công trong việc tạo ra hệ thống tivi sử dụng bộ phân hình
gương để phát hình, theo Zworykin, "các hình rất thô" qua các dây tới ống
7
điện tử Braun (ống cathode) trong đầu nhận. Các hình chuyển động là không
thể, bởi vì bộ phân hình, có "độ nhạy cảm không đủ và các phân tử selen quá
chậm". Rosing bị Stalin đày đến Arkhangelsk năm 1931 và qua đời năm 1933,
nhưng Zworykin sau đó quay lại làm việc cho RCA để xây dựng tivi điện tử,
thiết kế này sau đó bị phát hiện là vi phạm bản quyền của Philo Farnsworth,
người đã công bố hệ thống phát hình đầu tiên từ năm 1928 trước đó.
Năm 1920, hai nhà khoa học Mỹ Charles Francis Jenkins và nhà khoa
học Anh John Logie Baird đã tạo ra vật mẫu thành công đầu tiên của chiếc
TV. Năm 1927, một người Mỹ trẻ tuổi là Philo Taylor Farnsworth đã phát
triển thành công phiên bản thương mại ống tia cực âm nhằm phát tín hiệu
truyền hình điện tử và đây là bước đột phá trong nghệ truyền hình của nhân
loại. Năm 1930, một vài tiêu chuẩn của công nghệ TV cùng xuất hiện và cạnh
tranh để thống trị thị trường non trẻ này. Một trong những sản phẩm chiếm ưu
thế là chiếc EMI-Marconi. Năm 1950 có thể chạy 25 khung hình trên một
giây và khá phổ biến tại Anh. Một tiêu chuẩn TV khác có thể chạy 30 khung
hình trên giây và chủ yếu phát triển tại Mỹ. Chiếc TV thương mại thành công
đầu tiên bắt đầu xuất hiện tại các showroom ở Mỹ vào đầu những năm 1950.
Ngay khi nhận thấy nội dung trên TV có giá trị khai thác, các công ty lập tức
lao vào chạy đua trong ngành truyền hình. Thực tế này dẫn đến sự cần thiết
phải có quy định về tần số phát sóng của các kênh. Sức mạnh của TV là việc

phát trực tiếp những bước đi lịch sử của nhà du hành Mỹ Neil Amstrong trên
mặt trăng, ngày 20/1/1969. Nỗ lực phát triển TV màu xuất hiện từ đầu những
năm 1950 và chiếc đầu tiên được hãng RCA giới thiệu năm 1954. Nhưng phải
đến những năm 1960 việc bán các TV màu mới bắt đầu sinh lợi. Tới năm
1974 thì TV màu đã trở thành biểu tượng cho các gia đình giàu có tại Mỹ.
Năm 1959, hãng Philco đưa vào thị trường chiếc TV chỉ có màn hình rộng 2
inch và có thể thu cả sóng radio. Năm 1980, ngành truyền hình Mỹ do 3 mạng
8
lưới chính thống trị, trong khi khán giả tại các nước châu Âu và châu Á bị
giới hạn trong các lựa chọn chương trình.
1.1.1.2. Vai trò của truyền hình đối với đời sống xã hội Việt Nam
Đài THVN (VTV), là một tổ chức thông tin, truyền thông hàng đầu ở
Việt Nam, Đài THVN luôn giữ vai trò tích cực trên mặt trận tư tưởng văn hoá
quốc gia thông qua việc tuyên truyền thông tin tới mọi tầng lớp nhân dân
trong cả nước và kiều bào tại nước ngoài, cung cấp các chương trình khoa học
giáo dục và các chương trình giải trí cho các nhóm khán giả. Bên cạnh đó, Đài
còn là một kênh giao lưu hiệu quả cho hơn 50 dân tộc sinh sống trên đất nước
Việt Nam cũng như giữa Việt Nam và thế giới. Hoạt động của Đài VTV đã
chứng minh được ảnh hưởng ngày càng tăng của truyền hình tới đời sống tinh
thần, văn hoá và giải trí của người Việt Nam. Vai trò của hoạt động truyền hình
đối với đời sống xã hội được thể hiện rõ ở một số mặt chủ yếu sau đây:
- Trong sự nghiệp xây dựng đất nước: Truyền hình đã đồng hành với dân
tộc, đấu tranh không khoan nhượng với cái trì trệ, cái ác, cái xấu; nhưng luôn
luôn cổ vũ động viên kịp thời các phong trào hành động cách mạng, những tổ
chức,cá nhân gương mặt điển hình tiên tiến trong tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa ,xã hội và nhiều lĩnh vực liên quan khác…
- Trong lĩnh vực tuyên truyền :Truyền hình thực hiện tuyên truyền tới tất
cả đồng bào trong cả nước và kiều bào nước ngoài những chủ trương, chính
sách của Đảng, trong lĩnh vực chính trị an ninh Quốc phòng được ổn định,
Những chính sách kinh tế được khuyến khích phát triển hành lang pháp lý mở

cửa , xã hội được quan tâm phát triển, và nhiều các điều kiện thuận lợi trên
nhiều lĩnh vực mà Đảng và nhà nước luôn luôn hướng tới.
- Trong lĩnh vực thông tin: Truyền hình luôn luôn đem đến đầy đủ những
thông tin đối với tất cả các lĩnh vực như thể thao, văn hóa , kinh tế ,xã hội và
các lĩnh vực khác như dự báo thời tiết rất cần thiết để phục vụ cho nhiều lĩnh
vực liên quan, các diễn biến kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế…
9
- Trong lĩnh vực giải trí: Truyền hình đem đến cho đông đảo khán giả
những hoạt động thể thao như các trận bóng đá, bơi , điền kinh… trong và
ngoài nước, , các hoạt động văn hóa như chương trình ca nhạc, hoạt động
nghệ thuật điện ảnh, các bộ phim tâm lý tình cảm xã hội, các phim tài liệu có
giá trị cao về mặt cuộc sống, lịch sử…, trong lĩnh vực giải trí này, Truyền
hình giải trí nói chung được khán giả đánh giá như là món ăn tinh thần không
thể thiếu được trong đời sống hàng ngày.
Ngoài những lĩnh vực nêu trên thì các clip quảng cáo trên truyền hình
cũng đã góp phần không nhỏ trong đời sống, quảng cáo trên truyền hình đã
đem lại cho khán giả những lựa chọn cho mình những sản phẩm tốt, những
dịch vụ tốt…để phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. Hiện nay ngoài những
lĩnh vực chính như kể trên thì truyền hình còn đóng một vai trò như truyền
hình trực tiếp các thông tin về kinh tế như thị trường chứng khoán, vàng
(kênh ViTV; FBNC)…, mua bán trực tiếp trên truyền hinh (Homeshoping ;
TV Shopping:) và tường thuật trực tiếp nhiều sự kiện kinh tế, chính trị xã hội
quan trọng khác…
1.1.2. Quan niệm về xã hội hoá và xã hội hoá truyền hình
1.1.2.1. Khái niệm xã hội hóa :
Ở Việt Nam những năm qua, có một thực tế là thuật ngữ “xã hội hoá”
được đề cập trong nhiều văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước cũng
như trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng cho đến nay chưa có
một khái niệm (định nghĩa) thống nhất về “xã hội hoá”, chính xác hơn là
chưa có sự giải nghĩa đầy đủ về nội hàm của thuật ngữ này. Hiện nay,

chúng ta thường dùng nhiều khái niệm theo nghĩa khác hẳn nghĩa thông
thường của nó và xem đó là một hiện tượng không xa lạ nó đã có từ xa xưa,
đó chính là sự phát triển tự nhiên trong cuộc sống, trong ngôn ngữ và cũng
có thể còn do nhiều lý do khác.
10

×