Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

phát triển thị trường bảo hiểm việt nam dưới góc độ quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.2 KB, 107 trang )

1
Tóm lược
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục bảng biểu
c sơ đồ, hình vẽ
Danh mục từ viết tắ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
NGUYỄN HẢI NAM
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM
DƯỚI GÓC ĐỘ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN HÙNG
Hà Nội - 2012
i
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo Phó
Giáo sư, Tiến sỹ Trần Hùng người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình tôi
thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Tổng Giám đốc và các anh chị, các
bạn đồng nghiệp tại các Ban thuộc Tổng Công ty Bảo hiểm BIDV và nhiều bạn bè,
đồng nghiệp tại các Công ty bảo hiểm trên thị trường, các cơ quan quản lý nhà nước
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian tìm kiếm tài liệu, phân tích và
có những góp ý, phản biện quý báu để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn.
Gia đình luôn là nguồn động viên lớn đối với tôi. Vợ và con tôi luôn bên
cạnh, tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể hoàn thành luận văn này. Cảm ơn vợ, con
tôi rất nhiều vì những đóng góp thầm lặng của họ trong luận văn này.


ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i
MỤC LỤC ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ii
2.8.1.Thị trường bảo hiểm Châu Á – Thái Bình Dương 24
2.8.2.Thị trường bảo hiểm Trung Quốc 25
2.8.3.Thị trường bảo hiểm Thái Lan 26
2.8.4.Thị trường bảo hiểm Philipine 26
2.8.5.Thị trường bảo hiểm Đài Loan 27
4.3.1.Định hướng về xây dựng cơ chế chính sách 77
4.3.2.Hoàn thiện một số yếu tố về môi trường KDBH trong điều kiện hội nhập 78
4.3.3.Định hướng nâng cao năng lực cho các DNBH phi nhân thọ 79
4.3.4.Xác lập vị trí, vai trò của các DNBH PNT trong thị trường tài chính 79
KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
PHỤ LỤC 93
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số bảng Tên bảng Trang
3.1 Doanh thu phí BH gốc và tốc độ tăng trưởng năm 2010 so
với năm 2009 của các DNBH Phi nhân thọ
55
3.2 Thị phần các DNBH Phi nhân thọ 56
3.3 Tỷ trọng doanh thu trong ngành của các DNBH chuyên
ngành
67
3.4 Cơ cấu đầu tư của các DNBH phi nhân thọ VN năm 2010 69
3.5 Các qui định của Nhà nước về hạn chế đầu tư đối với
DNBH Phi nhân thọ
69

iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải
TTBH Thị trường bảo hiểm
PNT Phi nhân thọ
TCT Tổng Công ty
CP Cổ phần
TMCP Thương mại cổ phần
DNBH Doanh nghiệp bảo hiểm
BH Bảo hiểm
WTO World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới
DN Doanh nghiệp
KDBH Kinh doanh bảo hiểm
SPBH Sản phẩm bảo hiểm
NĐ Nghị định
QĐ Quyết định
TT Thông tư
HHBH Hiệp hội bảo hiểm
PNT Phi nhân thọ
TTBH PNT Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Đi đôi với sự phát triển của nền kinh tế, thị trường Bảo hiểm Việt Nam hiện
nay đang phát triển mạnh mẽ ở cả hai lĩnh vực nhân thọ và phi nhân thọ. Tuy nhiên,
so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới thì bảo hiểm ở Việt Nam vẫn
là một ngành kinh tế non trẻ và còn nhiều tiềm năng.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là ngành dịch vụ tài chính mang tính quốc tế
sâu sắc. Điều đó xuất phát từ bản chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo

nguyên tắc phân bổ rủi ro và trong điều kiện rủi ro luôn vận động, không chỉ giới
hạn trong một quốc gia mà có thể “di chuyển” đến một nước hoặc nhiều nước khác,
có liên quan đến quyền lợi của các tổ chức và cá nhân thuộc nhiều quốc tịch, sự
phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam không thể tách rời và
đứng ngoài xu thế hội nhập quốc tế.
Trước sự phát triển không ngừng của ngành tài chính nói chung, ngành bảo
hiểm ở Việt Nam cũng phát triển mạnh mẽ. Điều đó thể hiện ở số lượng các Công
ty bảo hiểm đang hoạt động tại thị trường Việt Nam và sự tăng trưởng doanh thu
phí bảo hiểm. Hiện nay, tại Việt Nam có 29 Công ty bảo hiểm phi nhân thọ và 15
Công ty bảo hiểm nhân thọ đang hoạt động và tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo
hiểm bình quân hàng năm toàn thị trường khoảng 30%. Sự phát triển mạnh mẽ của
thị trường bảo hiểm đặt ra cho các nhà quản lý vĩ mô bài toán làm sao để quản lý,
kiểm soát và thúc đẩy thị trường phát triển lành mạnh. Bên cạnh đó, tính đến thời
điểm này, Việt Nam đã thực hiện mở cửa và hội nhập một cách đầy đủ đối với thế
giới trong lĩnh vực bảo hiểm. Do vậy, các nhà quản lý vĩ mô cũng cần có những kế
hoạch, chính sách kiểm soát, hành lang pháp lý và điều chỉnh phù hợp để ngành bảo
hiểm Việt Nam tiếp tục phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh để các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam có thể đứng vững trước sự cạnh tranh khốc liệt từ các
Công ty bảo hiểm nước ngoài.
2
Ngoài ra, như trên đã đề cập, việc phát triển nhiều công ty bảo hiểm như vậy
trong thời gian ngắn (thời điểm ra đời nhiều công ty bảo hiểm bắt đầu nở rộ từ năm
1998) việc đảm bảo yếu tố chất lượng dịch vụ đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách
hàng là vấn đề còn cần được kiểm chứng. Việc các doanh nhân đua nhau thành lập
Công ty Bảo hiểm có thể tạo nên sự phát triển bong bóng nếu như không có các cơ
chế chính sách vĩ mô điều chỉnh kịp thời.
1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề cần nghiên cứu trong đề tài
Việc phát triển thị trường bảo hiểm “nóng” như hiện nay, tình trạng cạnh
tranh gay gắt thiếu lành mạnh ắt phải đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà nước bài
toán quản lý để đảm bảo yếu tố hiệu quả và giúp thị trường phát triển lành mạnh.

Vấn đề nghiên cứu của đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng hiện nay của thị
trường bảo hiểm Việt Nam, các cơ hội và thách thức, các nhân tố ảnh hưởng từ
quốc tế để từ đó đưa ra được các công cụ, cơ chế, chính sách quản lý hữu hiệu nhằm
đưa thị trường Việt Nam phát triển bền vững và hiệu quả.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Phát triển thị trường bảo hiểm Việt
Nam dưới góc độ quản lý nhà nước” được chọn để thực hiện luận văn thạc sĩ.
1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, TTBH phi nhân thọ mới được hình thành từ năm 1994. Ngành
bảo hiểm thương mại nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng còn rất non trẻ,
nhìn chung còn là lĩnh vực mới mẻ. Do đó, chưa có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về vấn đề này, mới chỉ dừng lại ở một số chuyên đề, hội thảo ở một lĩnh
vực nhất định của TTBH phi nhân thọ. Một vài luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu về
thị trường bảo hiểm Việt Nam, tuy nhiên mới chỉ nghiên cứu trên lĩnh vực
Maketing, lịch sử kinh tế, cạnh tranh… và cũng chỉ trong một vài lĩnh vực cụ thể.
Chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể đặc biệt là
nghiên cứu trên góc độ quản lý nhà nước đối với thị trường bảo hiểm.
Luận văn Thạc sỹ với đề tài: Giải pháp để phát triển thị trường bảo hiểm Việt
Nam của tác giả Trần Trung Tính (2002), nghiên cứu trong lĩnh vực maketing của
TTBH nói chung. Luận văn Thạc sỹ với đề tài: Quá trình phát triển thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam giai đoạn 1995-2004 - thực trạng và giải pháp, của
3
tác giả Trịnh Thị Xuân Dung (2005), nghiên cứu trong lĩnh vực lịch sử kinh tế và
cũng chỉ tập trung nghiên cứu những DNBH lớn trong điều kiện thực tế của thời
gian nghiên cứu. Nguyễn Minh Dũng (2004), “Kinh nghiệm hội nhập thị trường bảo
hiểm Quốc tế và bài học đối với Việt Nam”, thông tin tài chính số 4 – tháng 2/2004
cũng chỉ hạn chế trong việc đưa ra những cơ hội và thách thức của các DNBH Việt
Nam trước ngưỡng cửa mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam. Nhìn chung các
nghiên cứu này chỉ nghiên cứu đến một khía cạnh nhỏ của thị trường bảo hiểm Việt
Nam chưa nghiên cứu đến tổng thể toàn bộ thị trường bảo hiểm và xem xét dưới
góc độ quản lý nhà nước.

Điểm khác biệt của luận văn là nghiên cứu toàn diện, tổng thể TTBH phi
nhân thọ dưới góc độ quản lý nhà nước và đặt nó trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
1.4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu thực trạng hiện nay của thị trường bảo hiểm (cạnh tranh, chất
lượng, yếu tố nước ngoài…): tác giả sẽ nghiên cứu kỹ thực trạng thị trường bảo
hiểm Việt Nam hiện nay về tình hình cạnh tranh, chất lượng dịch vụ, các yếu tố ảnh
hưởng từ nước ngoài, cơ hội và thách thức khi Việt Nam mở cửa thị trường bảo
hiểm theo lộ trình cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế.
- Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý của nhà nước đối với thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam: thị trường bảo hiểm có phát triển đúng hướng,
theo kịp các nước trong khu vực và thể giới hay không phụ thuộc rất nhiều vào công
tác quản lý của nhà nước. Vì vậy, tác giả đi sâu nghiên cứu các cơ chế chính sách,
công cụ quản lý mà nhà nước đang áp dụng đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Ngoài ra, khi Việt Nam đã mở cửa hoàn toàn đối với thế giới trong lĩnh vực bảo
hiểm, hội nhập sâu rộng vào thị trường bảo hiểm thế giới thì nhà nước đã có các cơ
chế, chính sách như thế nào và định hướng phát triển thị trường ra sao đó là mục
tiêu mà tác giả cần nghiên cứu
- Nghiên cứu sự cần thiết khách quan phải phát triển thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ: Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định cuộc sống và sản
xuất cho những người tham gia bảo hiểm và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh
4
tế và xã hội. Các DNBH bồi thường những tổn thất, thiệt hại cho người tham gia
bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, giúp họ ổn định tài chính và đời sống khi
không may gặp rủi ro. Từ đó góp phần ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh,
thúc đẩy kinh tế phát triển. Cũng cần thấy rằng, sự phát triển kinh tế xã hội có tác
động tích cực đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường
BHPNT nói riêng. Giữa phát triển thị trường bảo hiểm và phát triển kinh tế xã hội
có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy nhau phát triển, bởi lẽ:
+ Kinh tế - xã hội càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người

dân càng cao thì nhu cầu về bảo hiểm càng lớn. Điều đó đã trở thành quy luật, và
như vậy sự phát triển của thị trường bảo hiểm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã
hội.
+ Kinh tế phát triển, thu nhập của người lao động được nâng cao, mọi nhu
cầu của con người càng phát triển, trong đó có nhu cầu đảm bảo cho cuộc sống, sức
khỏe, tài sản. Hay nói cách khác khả năng và điều kiện để tham gia các loại hình
bảo hiểm càng nhiều.
+ Kinh tế phát triển, chính trị ổn định thì hệ thống pháp lý pháp lý được
hoàn thiện, tạo nên môi trường kinh doanh tốt. Đó cũng là điều kiện làm cho bảo
hiểm thương mại nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng kinh doanh có hiệu
quả và phát triển.
+ Kinh tế - xã hội phát triển thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển, các hoạt
động trong đời sống văn hóa, nghệ thuật phong phú… thúc đẩy các nghiệp vụ bảo
hiểm mới ra đời, làm phong phú, đa dạng thêm hoạt động bảo hiểm.
+ Kinh tế phát triển, cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế làm cho thị
trường BHPNT cũng mở rộng thị trường không chỉ trong nước mà cả quốc tế.
- Nghiên cứu vai trò của TTBH phi nhân thọ trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế: BH PNT là một dịch vụ tài chính, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là
một bộ phận cấu thành không thể thiếu của thị trường tài chính. Vì vậy, TTBH nói
chung và TTBH phi nhân thọ nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn
thiện và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong đó có thị trường tài chính. Đây
là điều kiện và cơ sở để thúc đẩy nhanh hơn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thị
5
trường BH phi nhân thọ đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước
ngoài. Một mặt nó là một trong những yếu tố quan trọng của môi trường đầu tư
nước ngoài nói chung. Mặt khác, cơ sở hạ tầng và các yếu tố của TTBH phi nhân
thọ phát triển sẽ thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực
KDBH phi nhân thọ. Từ đó, thúc đẩy KTXH phát triển.
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
cũng góp phần tích cực trong việc nâng cao năng lực về mọi mặt của các DNBH.

Đồng thời tạo cho các DNBH trong nước có điều kiện và nhiều cơ hội để mở rộng
phạm vi hoạt động ra nước ngoài.
Trong quá trình hội nhập, TTBH phi nhân thọ đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho xã hội, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách
nhà nước. Đồng thời nó tạo ra cơ sở và điều kiện để các DNBH PNT nước ngoài
đầu tư tích cực và hiệu quả vào nền kinh tế.
Tự do hóa thương mại dịch vụ, trong đó có dịch vụ bảo hiểm là xu thế chung
của thế giới mà Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Mặt khác trong quá trình hội
nhập quốc tế, tất yếu sẽ diễn ra phân công lao động quốc tế, sự giao lưu về mọi mặt
kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật…quá trình này đòi hỏi phải có hệ thống dịch vụ
tài chính đi kèm, trong đó không thể thiếu dịch vụ về bảo hiểm. Vì vậy, phát triển
TTBH phi nhân thọ là yêu cầu và xu thế chung của thế giới.
Để đẩy nhanh quá trình hội nhập và thực hiện phân công lao động quốc tế
một cách có hiệu quả. Một trong những yêu cầu cấp thiết là phải hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường, trong đó nội dung quan trọng là xây dựng và phát triển đồng bộ
các loại thị trường. TTBH phi nhân thọ là một bộ phận của thị trường tài chính. Do
đó, phát triển TTBH phi nhân thọ là do đòi hỏi của sự phát triển đồng bộ các loại thị
trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình hội nhập, phát triển TTBH phi nhân thọ góp phần thu hút
vốn đầu tư nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực KDBH phi nhân thọ nói riêng.
Nó không chỉ tạo nên một xã hội an toàn, ổn định, tạo thêm nhiều việc làm cho xã
hội mà còn tạo cho nền kinh tế một nguồn vốn đầu tư phát triển không nhỏ. Từ đó
6
tạo ra thu nhập cho nền kinh tế, hay nói cách khác nó góp phần làm tăng trưởng
kinh tế quốc dân.
Quá trình toàn cầu hoá và quốc tế hóa đã tạo ra cho toàn thế giới trở thành
một ngôi nhà chung mà biên giới sẽ chỉ là “đường biên giới mềm”. Mặt khác khi
kinh tế xã hội càng phát triển thì các nhu cầu về đảm bảo đời sống, tài sản, tính
mạng ngày càng cao, việc xây dựng một thế giới an toàn, ổn định theo một chuẩn
mực quốc tế là nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong điều kiện hội nhập. Hơn thế

nữa, bảo hiểm phi nhân thọ là một ngành dịch vụ tài chính mang tính toàn cầu, rủi
ro bảo hiểm không giới hạn trong phạm vi một nước, các DNBH phải thực hiện liên
kết đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm để phân tán rủi ro và cùng nhau gánh chịu tổn thất
xảy ra. Do vậy TTBH các nước chịu tác động lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh
với nhau. Vì vậy phát triển TTBH phi nhân thọ là đòi hỏi khách quan của quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảo hiểm là một trong những nội dung quan trọng trong đàm phán và thực
hiện các cam kết hội nhập quốc tế trong quá trình tự do hoá thương mại nói chung
và dịch vụ tài chính, bảo hiểm nói riêng (ở Việt Nam đó là những cam kết trong
quan hệ thương mại song phương và đa phương của Việt Nam với các nước trong
khối ASEAN, hiệp định thương mại Việt Mỹ, các cam kết về dịch vụ tài chính của
Tổ chức thương mại quốc tế WTO ). Vì vậy, rất cần thiết phải phát triển TTBH
cho phù hợp với thông lệ, các cam kết và tiêu chuẩn quốc tế.
Bảo hiểm phi nhân thọ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo toàn vốn đầu
tư, đảm bảo tính mạng và tài sản khác, cũng như nghĩa vụ trước pháp luật cho các
nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, nó là yếu tố không thể thiếu trong môi trường đầu tư
nước ngoài. Vì vậy, muốn tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và hoàn thiện cần thiết
phải phát triển TTBH, trong đó có TTBH phi nhân thọ.
Tóm lại: TTBH phi nhân thọ và sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau
cùng phát triển. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế
quốc tế, cần thiết phải phát triển TTBH một cách toàn diện, vững chắc và phù hợp
với các chuẩn mực quốc tế. Có như vậy, bảo hiểm phi nhân thọ mới thực sự là “tấm
7
lá chắn” hữu hiệu cho mọi cá nhân tổ chức, đồng thời là một kênh huy động vốn
đáng kể cho nền kinh tế và là một yếu tố quan trọng trong môi trường đầu tư nước
ngoài trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
- Nghiên cứu vai trò của quản lý nhà nước đối với thị trường bảo hiểm phi
nhân thọ
+ Việc phát triển quá nóng của thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ dẫn đến

hậu quả gì.
+ Mối quan hệ giữa công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước và các quy định
quản lý của từng doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay.
+ Thực trạng về hiệu lực của công tác quản lý nhà nước đối với thị trường
bảo hiểm hiện nay.
1.5. Các câu hỏi đặt ra trong quá trình nghiên cứu
− Tại sao thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam luôn được coi là tiềm
năng nhưng sự phát triển của thị trường vẫn chưa tương xứng với tiềm năng đó?
− Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam tính đến cuối năm 2010 có
phát triển theo đúng chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm của nhà nước không?
− Các cơ chế, chính sách và công cụ quản lý của nhà nước đã thể hiện được
vai trò điều tiết, kiểm soát và thúc đẩy thị trường bảo hiểm phi nhân thọ phát triển
chưa? Đã tạo ra được môi trường kinh doanh lành mạnh cho các DNBH hoạt động
chưa?
− Về góc độ quản lý, Nhà nước cần phải có những biện pháp gì để đưa thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam phát triển bền vững và theo kịp các nước
trong khu vực?
− Việt Nam đã cam kết mở cửa hoàn toàn thị trường bảo hiểm, vậy nhà
nước đã có những sự chuẩn bị và chính sách gì để định hướng thị trường bảo hiểm
giúp các DNBH nắm bắt cơ hội và đương đầu với thách thức?
1.6. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về nội dung, tác giả chỉ dừng lại nghiên cứu thị trường bảo hiểm Việt Nam
dưới góc độ quản lý nhà nước và chỉ nghiên cứu trong lĩnh vực bảo hiểm thương
8
mại phi nhân thọ, không nghiên cứu bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm tiền gửi.
Về không gian, tác giả chỉ nghiên cứu trên khía cạnh quản lý nhà nước tức là
chỉ nghiên cứu về tác động của các biện pháp, công cụ quản lý của nhà nước hiện
nay đang được áp dụng, các điểm đã thực hiện được và những vấn đề còn tồn tại
cần sửa đổi bổ sung.

Về thời gian, tác giả tìm kiếm sử dụng và phân tích số liệu chủ yếu từ giai
đoạn 2005-2012 và đề xuất một số các giải pháp để phát triển thị trường bảo hiểm
đến năm 2020 dưới góc độ quản lý nhà nước.
1.7. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp thu thập các tài liệu, văn bản, những nghiên
cứu đã có (dự liệu thứ cấp) và khảo sát thực tế bằng các hình thức phỏng vấn và gửi
phiếu điều tra (dự liệu sơ cấp) để có những đánh giá phân tích cho đề tài luận văn
mà tác giả nghiên cứu
1.8. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
− Về mặt lý luận: Nghiên cứu nhằm làm rõ một số cơ sở lý luận về phát
triển thị trường bảo hiểm Việt Nam dưới góc độ quản lý nhà nước.
− Về thực tiễn: Nghiên cứu thực trạng tìm ra những vấn đề cần phải giải
quyết để phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam, định hướng sự phát triển của thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. Đưa ra được các biện pháp, công cụ quản
lý thị trường hiệu quả.
1.9. Kết cầu của đề tài nghiên cứu
Nội dung chính của đề tài nghiên cứu gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài.
Chương 2: Một số vấn lý luận về phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam
dưới góc độ quản lý nhà nước.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng
phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam dưới góc độ quản lý nhà
nước.
9
Chương 4: Đề xuất một số giải pháp về quản lý nhà nước để phát triển thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam.
10
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM
VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

2.1. Một số định nghĩa và khái niệm cơ bản
a) Khái niệm về bảo hiểm
Mặc dù ra đời từ khá sớm, song cho đến này vẫn chưa có một khái niệm
thống nhất về bảo hiểm, bởi vì người ta đã đưa ra khái niệm ở nhiều góc độ khác
nhau. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả xin trích ra một số khái niệm về
bảo hiểm được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau trong Giáo trình bảo hiểm
của Trường đại học kinh tế Quốc dân năm 2008 do PGS, TS Nguyễn Văn Định
làm chủ biên.
− Dưới góc độ tài chính: Bảo hiểm là một hoạt động tài chính nahwmf
phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi
− Dưới góc độ pháp lý, giáo sư Hermard đư ra khái niệm: “Bảo hiểm là
một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một
khoản tiền cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong trường hợp
có rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên khác là người
bảo hiểm, người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại
theo Luật thống kê”
− Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm, các công ty, tập đoàn bảo hiểm
thương mại trên thế giới lại đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ
chế này một người, doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho
công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn
thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những
người được bảo hiểm”
Có thể nói, các khái niệm trên ít nhiều đã lột tả được bản chất của bảo
hiểm trên các khía cạnh về rủi ro, sự chuyển giao rủi ro giữa người được bảo
hiểm và người bảo hiểm thông qua phí bảo hiểm, số tiền bồi thường hoặc chi trả
khi người được bảo hiểm gặp phải rủi ro tổn thất. Cũng trên cơ sở các khía cạnh
11
đó, khái niệm về bảo hiểm có thể được hiểu như sau: “Bảo hiểm là một hoạt
động dịch vụ tài chính, thông qua đó một cá nhân hay tổ chức có quyền được
hưởng bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm nếu rủi hay sự kiện bảo hiểm xảy ra

nhờ vào khoản tiền đóng góp phí abor hiểm cho mình hay cho người thứ ba.
Khoản tiền bồi thường hoặc chi trả này do một tổ chức đảm nhận, tổ chức này có
trách nhiệm trước rủi ro hay sự kiện bảo hiểm và bù trừ chúng theo quy luật
thống kê”.
b) Bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm thì:
− Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người
được bảo hiểm sống hoặc chết.
− Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm
dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ.
c) Khái niệm về thị trường bảo hiểm
Theo thuật ngữ bảo hiểm, thị trường bảo hiểm là nơi mua và bán các sản
phẩm bảo hiểm. Sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm dịch vụ đặc biệt; là loại sản
phẩm vô hình không thể cảm nhận được hình dáng, kích thước, màu săc… Sản
phẩm bảo hiểm là sản phẩm không được bảo hộ bản quyền; là sản phẩm mà
người mua không mong đợi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với mình để được bồi
thường hay trả tiền bảo hiểm (trừ bảo hiểm hưu trí và bảo hiểm nhân thọ)
2.2. Đặc điểm của thị trường bảo hiểm
− Thị trường bảo hiểm có đối tượng khách hàng rất rộng, đối tượng bảo
hiểm rất đa dạng, bao gồm tài sản, trách nhiệm, con người, công trình, sức khỏe, tín
dụng…
− Thị trường bảo hiểm là thị trường dịch vụ tài chính: cũng như thị
trường chứng khoán, thị trường tiền tệ… thị trường bảo hiểm cũng chịu sự kiêm tra,
kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước. Nhà nước có thể can thiệp khá sâu vào hoạt động
của các DNBH. Nhà nước không những xét duyệt biểu phí, xác định mức trách
nhiệm phải bồi thường của một số loại hình bảo hiểm mà còn quyết định hình thức
12
triển khai các loại hình bắt buộc hay tự nguyện. Chỉ có bảo hiểm mới có hình thức
bắt buộc đối với người tham gia.
− Thị trường bảo hiểm ra đời muộn hơn so với các thị trường khác như

thị trường hàng hóa, lao động…Sự ra đời thị trường bảo hiểm lại phụ thuộc vào
nhiều điều kiện như: điều kiện kinh tế - xã hội phát triển đến một mức độ nhất định;
thu nhập của người dân được nâng cao; trình độ học vấn nhận thức được cải thiện;
môi trường pháp lý tương đối phát triển và quan trọng là các thị trường khác đã
hình thành (thị trường tài chính, đầu tư, bất động sản…)
− Thị trường bảo hiểm là thị trường cung cấp sản phẩm liên quan đến rủi
ro, đến sự bấp bênh. Nguồn gốc của bảo hiểm là sự tồn tại của những rủi ro bất ngờ
không thế dự đoán được. Những rủi ro bất ngờ có thể gây ra những thiệt hại về tài
sản, con người. Trước thực tế đó, bảo hiểm cung cấp những sản phẩm nhằm bồi
thường về tài chính cho những tổn thất do tai nạn, rủi ro bất ngờ.
− Thị trường bảo hiểm mang tính toàn cầu hóa sâu rộng. Điều này bắt
nguồn từ vấn đề chia sẻ rủi ro, tái bảo hiểm. Một DNBH dù lớn đến đâu cũng không
thể gánh chịu được những tổn thất lớn đặc biệt là những tổn thất mang tính chất
thảm họa, do vậy, họ phải tìm cách chia sẻ bớt rủi ro. Và việc phân tán rủi ro không
chỉ diễn ra ở thị trường trong nước mà còn phải chia sẻ với các Công ty tái bảo hiểm
nước ngoài. Hiện nay, tất cả các DNBH trên thế giới đều thực hiện chia sẻ rủi ro với
các nhà tái bảo hiểm quốc tế.
− Quy luật số đông: Qui luật “số đông bù số ít” là qui luật đặc thù của
TTBH phi nhân thọ. Qui luật này mang tính tương trợ, cùng nhau san sẻ rủi ro
của những người tham gia BH. Bởi lẽ, bảo hiểm phi nhân thọ là một hệ thống
qua đó một số người đồng ý góp vào một quỹ chung (với số phí tương đối nhỏ),
được dùng được chia sẻ các chi phí tổn thất của số ít người gặp rủi ro (có thể rất
lớn). Đây cũng là biểu hiện của qui luật “phân tán rủi ro” trong hoạt động BH.
Hai qui luật này phải được tận dụng triệt để trong KDBH. Nếu các qui luật này
không phát huy tác dụng thì hoạt động bảo hiểm không tồn tại, hay nói cách
khác, các DNBH sẽ phá sản. Ngược lại, nếu các qui luật này được vận hành tốt,
là điều kiện để các DNBH phi nhân thọ giảm giá (phí bảo hiểm), mở rộng quyền
13
lợi cho người mua BH. Đây là điều kiện tiên quyết để chiếm lĩnh thị trường có
hiệu quả nhất.

2.3. Các chủ thể tham gia vào thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
Chủ thể tham gia trao đổi trên thị trường bảo hiểm bao gồm nhiều loại tổ
chức và cá nhân, trước hết là những chủ thể bán bảo hiểm; chủ thể mua bảo hiểm và
các trung gian bảo hiểm.
− Chủ thể mua bảo hiểm: là cá nhân hay tổ chức kinh tế - xã hội có nhu
cầu được đảm bảo về mặt tài chính trước rủi ro. Họ mua sản phẩm bảo hiểm bằng
quan hệ trực tiếp với tổ chức bán bảo hiểm hoặc thông qua trung gian bảo hiểm.
Bản thân doanh nghiệp bảo hiểm cũng có thể coi là một loại chủ thể mua bảo hiểm
trong các giao dịch tái bảo hiểm.
− Chủ thể bán bảo hiểm: là các tổ chức, doanh nghiệp bảo hiểm được
phép hoạt động trên cơ sở luật pháp của Nhà nước sở tại. Có một số loại tổ chức
bán bảo hiểm, đó là:
+
Doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp: Doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp bán
sản phẩm bảo hiểm trực tiếp với các tổ chức cá nhân mua bảo hiểm. Trong quan hệ
hợp đồng bảo hiểm, người bảo hiểm chấp nhận yêu cầu bảo hiểm bằng việc giao kết
hợp đồng bảo hiểm, cấp cho bên mua bảo hiểm hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng
chứng về hợp đồng bảo hiểm, có những nghĩa vụ và quyền theo thoả thuận của hợp
đồng bảo hiểm.
+
Doanh nghiệp tái bảo hiểm: là bên bán bảo hiểm của các giao dịch tái
bảo hiểm - cung cấp dịch vụ tái bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm có nhu
cầu nhượng tái bảo hiểm. Bên cạnh các doanh nghiệp bảo hiểm thông thường kinh
doanh cả bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm (bao gồm nhượng và nhận tái bảo hiểm)
cùng các hoạt động khác, trên thị trường bảo hiểm còn có những doanh nghiệp
chuyên kinh doanh tái bảo hiểm, đó là các doanh nghiệp tái bảo hiểm.
+
Công ty bảo hiểm (hoặc tái bảo hiểm) nội bộ: là dạng công ty con thuộc
quyền sở hữu của tập đoàn, nhóm công ty không kinh doanh bảo hiểm, được thành
lập với mục đích chuyên biệt và trước hết là nhằm bảo hiểm cho các rủi ro của chủ

sở hữu. Công ty bảo hiểm nội bộ hiện đã phát triền thành nhiều dạng như: công ty
14
bảo hiểm của một tập đoàn, hiệp hội được sở hữu bởi một tập đoàn công nghiệp,
thương mại hoặc dịch vụ phục vụ lợi ích của các thành viên tập đoàn, hiệp hội; công
ty bảo hiểm nội bộ thuộc quyền đồng sở hữu của nhiều công ty, được thành lập để
đáp ứng các nhu cầu bảo hiểm chung; công ty bảo hiểm nội bộ đại lý thuộc quyền
sở hữu của một tổ chức đại lý bảo hiểm hoặc môi giới bảo hiểm - thông qua công ty
đó có thể tái bảo hiểm một phần rủi ro của khách hàng; công ty bảo hiểm nội bộ cho
thuê - công ty bảo hiểm nội bộ có cung cấp các phương tiện chuyển giao rủi ro kiểu
“bảo hiểm nội bộ” với mục đích thu phí dịch vụ
Hình thức thể chế pháp lý của công ty bảo hiểm nội bộ được luật pháp nhiều
nước thừa nhận và điểm đáng chú ý trong giám sát bảo hiểm là có những nguyên
nhân đặc thù của việc hình thành và phát triển của công ty bảo hiểm nội bộ như là
bên cạnh các lợi ích như: khoản tiền phí được giữ lại trong phạm vi tổ chức và
mang lại lợi ích kinh tế cho tổ chức, giá vốn sẽ thấp hơn việc sử dụng nguồn tài
chính từ bên ngoài thì lý do thuế và tài chính cũng đã giữ một vai trò quan trọng
trong sự gia tăng bột phát các công ty bảo hiểm nội bộ - khoản phí bảo hiểm chuyển
cho công ty bảo hiểm nội bộ được khấu trừ trong cơ sơ tính thuế đối với tập đoàn,
công ty mẹ Hơn nữa, thu nhập đầu tư từ nguồn vốn đó có thể được miễn thuế đối
với một số công ty bảo hiểm nội bộ có trụ sở ở nước ngoài. Đó thường là những nơi
có các chính sách có lợi cho hoạt động của công ty bảo hiểm nội bộ. Chính vì thế
mà hàng nghìn công ty bảo hiểm nội bộ của nhiều nước trên thế giới được đặt tại thị
trường Bermuđa, sau đó là các địa điểm khác như Cayman, Luxembourg…
+
Tổ chức bảo hiểm tương hỗ: là loại tổ chức bảo hiểm do một số thành
viên cùng nhau thành lập để bảo hiểm cho chính họ. So với các loại hình doanh
nghiệp bảo hiểm thông thường, tổ chức bảo hiểm tương hỗ có nhiều điểm khác
biệt. Mục đích của các tổ chức bảo hiểm tương hỗ là cung cấp sản phẩm bảo hiểm
với giá thấp cho các thành viên, chứ không phải là thực hiện lợi nhuận. Mỗi thành
viên của tổ chức có tư cách vừa là người bảo hiểm, lại vừa là người được bảo hiểm.

Mỗi thành viên ngoài nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm, trong trường hợp tổ chức mất
khả năng thanh toán, người được bảo hiểm với tư cách thành viên phải chịu trách
nhiệm đối với các khoản nợ của tổ chức. Ngoài quyền theo hợp đồng bảo hiểm (ví
15
dụ: yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm), thành viên của tổ chức bảo hiểm tương
hỗ còn có những quyền đặc biệt khác mà người được bảo hiểm của các loại hình
doanh nghiệp bảo hiểm khác không có, đó là quyền quyền sở hữu tổ chức, quyền
kiểm soát, quyền tham dự, quyền đối với tài sản của tổ chức trong trường hợp tổ
chức bị giải thể.
− Các tổ chức trung gian bảo hiểm
+
Môi giới bảo hiểm
Môi giới bảo hiểm là các cá nhân hay tổ chức đại diện và bảo vệ quyền lợi
cho khách hàng (bên mua bảo hiểm). Một môi giới bảo hiểm không có trách nhiệm
đối với công ty bảo hiểm mà nhà môi giới bảo hiểm đã thay mặt khách hàng của
mình liên hệ để thu xếp mua bảo hiểm.
Ở các thị trường bảo hiểm phát triển, có một ngoại lệ đối với nguyên tắc
chung nêu trên (nhà môi giới bảo hiểm hoạt động thay mặt khách hàng, chứ không
thay mặt công ty bảo hiểm) là trường hợp nhà môi giới hoạt động theo thỏa thuận
về giấy chứng nhận bảo hiểm tạm thời mà công ty bảo hiểm đó cho phép môi giới.
Các nhà môi giới bảo hiểm có thể đạt được một thẩm quyền chứng nhận bảo hiểm
tạm thời với một công ty bảo hiểm nào đó mà theo đó nhà môi giới được công ty
bảo hiểm trao quyền ký nhận hợp đồng bảo hiểm thay mặt công ty bảo hiểm.
Các dịch vụ môi giới có thể cung cấp cho khách hàng rất đa dạng như: thu
xếp hợp đồng bảo hiểm; tư vấn thường xuyên cho khách hàng; quản lý khiếu nại bồi
thường, trả tiền bảo hiểm; tư vấn quản lý rủi ro; tư vấn kiểm soát tổn thất; tư vấn hỗ
trợ kỹ thuật (phạm vi bảo hiểm/luật pháp ); tư vấn thiết kế chương trình bảo hiểm
cho khách hàng;
Có thể chia hoạt động môi giới bảo hiểm thành hai loại là môi giới bảo hiểm
gốc và môi giới tái bảo hiểm. Môi giới bảo hiểm gốc là hoạt động mà người môi

giới đứng ra đàm phán, thu xếp các vấn đề về bảo hiểm giữa các tổ chức, cá nhân
mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm gốc. Môi giới tái bảo hiểm là hoạt động
của người môi giới đứng ra đàm phán, thu xếp các vấn đề về nhượng và nhận tái
bảo hiểm giữa các doanh nghiệp bảo hiểm.
16
Nhìn chung, luật pháp các nước đều có những quy định pháp luật để điều
chỉnh hoạt động của môi giới như các quy định về: cấp giấy phép hoạt động; quyền
và nghĩa vụ của môi giới bảo hiểm
Để bảo vệ khách hàng bảo hiểm trong trường hợp có những thiệt hại do lỗi
của người môi giới gây ra, luật pháp ở nhiều quốc gia đã có các quy định như: các
cá nhân hành nghề môi giới phải có chứng chỉ hành nghề thích hợp; môi giới bảo
hiểm bắt buộc phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; nghiêm cấm môi giới
bảo hiểm thực hiện những hành vi như; khuyến mại khách hàng dưới hình thức hứa
hẹn cung cấp các quyền lợi bất hợp pháp để xúi giục khách hàng giao kết hợp đồng
bảo hiểm, xúi giục bên mua bảo hiểm hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm hiện có để mua
hợp đồng bảo hiểm mới ,
+
Đại lý bảo hiểm
Thông thường, đại lý bảo hiểm là đại diện cho doanh nghiệp bảo hiểm, làm
việc cho doanh nghiệp bảo hiểm trong phạm vi ủy quyền trong hợp đồng đại lý.
Đại lý bảo hiểm thông thường là cá nhân nhưng cũng có thể là tổ chức - một
tổ chức độc lập như một ngân hàng, văn phòng luật sư, một tổ chức ngành nghề,
thực hiện các giao dịch về bảo hiểm như là một dịch vụ bổ sung cho khách hàng của
họ hoặc một đơn vị hoạt động đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp. Dù đại lý là tổ chức
hay cá nhân thì hoạt động đại lý trực tiếp cũng thuộc về những cá nhân.
Ở các thị trường bảo hiểm phát triển, luật pháp chấp nhận nhiều loại đại lý
khác nhau như: đại lý độc quyền - những đại lý làm việc cho một công ty bảo hiểm
duy nhất; đại lý với quyền lựa chọn ưu tiên - đại lý độc quyền nhưng có thể được
bán một số sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm khác; đại lý phi độc quyền -
những đại lý có thể bán sản phẩm bảo hiểm cho nhiều công ty khác nhau; đại lý con

- đại lý làm việc bán thời gian với những đại lý chính của công ty bảo hiểm và đôi
khi họ cũng làm việc như những người giới thiệu các khách hàng tiềm năng; đại lý
xét nhận bảo hiểm.
Nội dung hoạt động của đại lý bao gồm giới thiệu, chào bán bảo hiểm, thu
xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm, thu phí bảo hiểm, thu xếp giải quyết bồi
17
thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm và thực hiện các hoạt động
khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
Trong quan hệ với doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm quyền và
nghĩa vụ của đại lý bảo hiểm được xác định theo hợp đồng đại lý và quy định chung
của pháp luật. Đại lý đại diện cho công ty bảo hiểm và công ty bảo hiểm phải chịu
trách nhiệm pháp lý đối với những hoạt động của các đại lý. Quyền chủ yếu của đại
lý bảo hiểm được tham dự các lớp đào tạo, được cung cấp thông tin cần thiết và các
điều kiện khác để hoạt động, hưởng hoa hồng và các lợi ích hợp pháp khác, Các
nghĩa vụ như: ký quỹ hoặc thế chấp tài sản cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thỏa
thuận, thực hiện các cam kết trong hợp đồng đại lý
Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm luôn có các quy định quản lý, giám sát
hoạt động đại lý như quy định: các điều kiện áp dụng đối với cá nhân hoạt động đại
lý bảo hiểm; nghiêm cấm đại lý bảo hiểm thông tin quảng cáo sai sự thật, tranh
giành khách hàng, khuyến mại bất hợp pháp, ; quy định trách nhiệm bồi hoàn cho
doanh nghiệp bảo hiểm các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường
cho người được bảo hiểm trong trường hợp đại lý gây thiệt hại đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người được bảo hiểm.
Mạng lưới trung gian bảo hiểm – môi giới bảo hiểm và đại lý bảo hiểm là bộ
phận không thể thiếu trong cấu trúc của thị trường bảo hiểm. Giám sát bảo hiểm đối
với hoạt động của môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm cũng rất cần thiết và phức tạp
vì nhiều rủi ro đặc thù và sự tác động đến sự ổn định kinh doanh của doanh nghiệp
bảo hiểm liên quan cũng như toàn thị trường bảo hiểm.
Bên cạnh những loại chủ thể cơ bản nói trên, tham gia trên thị trường bảo
hiểm còn có những tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh bảo hiểm

như các tổ chức giám định tổn thất hoặc trên các thị trường bảo hiểm phát triển có
cả các quỹ đầu tư, ngân hàng, loại định chế tài chính chuyên dụng SPV (tiếng Anh:
special purpose vehicle) tham gia vào quá trình giao dịch các sản phẩm tài
chính/bảo hiểm phức tạp như: trái phiếu thiên tai, vốn cam kết, hoán chuyển rủi ro
tín dụng
2.4. Phân loại các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ
18
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, do
vậy, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà có những cách phân loại khác nhau.
Sau đây tác giả xin giới thiệu một số cách phân loại phổ biến hiện nay.

Căn cứ theo hình thức tham gia bảo hiểm
Căn cứ theo tiêu chí này thì bảo hiểm phi nhân thọ có hai loại hình là: bảo
hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Phần lớn các sản phẩm bảo hiểm phi nhân
thọ là bảo hiểm tự nguyện, các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc đa phần là các sản
phẩm bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm. Bảo hiểm tự nguyện là loại hình bảo
hiểm tùy thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người dân, doanh nghiệp mà họ quyết
định có nên mua hay không. Các DNBH đáp ứng được nhu cầu mua bảo hiểm hay
không cũng tùy thuộc vào khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của doanh
nghiệp đó. Trong khi đó, bảo hiểm bắt buộc bao gồm các sản phẩm bảo hiểm mà
pháp luật qui định các tổ chức cá nhân phải tham gia bảo hiểm và tất cả các DNBH
hoạt động tại thị trường Việt Nam không được từ chối bán bảo hiểm bắt buộc khi
người dân hoặc tổ chức yêu cầu DNBH cung cấp dịch vụ. Hiện nay ở Việt Nam có
một số loại bảo hiểm bắt buộc như: Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba và hành khách trên xe, Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt
động tư vấn pháp luật, bác sĩ, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp
môi giới bảo hiểm, chứng khoán, bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, bảo hiểm TNDS chủ
tàu…

Căn cứ theo đối tượng bảo hiểm

Nếu căn cứ theo đối tượng được bảo hiểm thì sản bảo hiểm phi nhân thọ
được chia thành:
- Bảo hiểm tài sản:
Là sản phẩm bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là các loại tài sản. Hiện nay, ở
Việt nam có rất nhiều các sản phẩm bảo hiểm tài sản, xin liệt kê dưới đây một số
sản phẩm bảo hiểm phổ biển ở Việt Nam:
+ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu; BH hàng hóa vận chuyển nội địa.
+ BH thân tàu (tàu biển, tàu hoạt động nội thủy)
+ Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới.
19
+ Bảo hiểm thân máy bay.
+ Bảo hiểm mọi rủi ro trong xây dựng; Bảo hiểm lắp đặt.
+ Bảo hiểm tài sản trong vận chuyển dầu, thăm dò khai thác dầu khí.
+ Bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt.
+ Bảo hiểm nông nghiệp (cây trồng vật nuôi).
+ Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
+ Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản
+ Một số nghiệp vụ khác: bảo hiểm tiền trong két, nhà tư nhân,trộm cắp, tín
dụng …
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự:
Bảo hiểm Trách nhiệm dân sự sản phẩm bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là
trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm dân sự, nó phát sinh do Người được bảo hiểm vô
tình vi phạm nghĩa vụ dân sự. Bảo hiểm Trách nhiệm dân sự có hai loại: Trách
nhiệm dân sự theo hợp đồng và Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Dưới đây là
một số sản phẩm bảo hiểm Trách nhiệm dân sự phổ biến ở Việt Nam:
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 và
hành khách trên xe.
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với hàng hóa vận chuyển
trên xe.
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển.

+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ hãng hàng không
+ Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm.
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ thầu đối với người thứ ba trong xây
lắp.
Đặc trưng cơ bản của bảo hiểm trách nhiệm dân sự: đối tượng bảo hiểm
trong Bảo hiểm trách nhiệm dân sự mang tính trìu tượng, khi thiết lập hợp đồng thì
đối tượng bảo hiểm chưa xuất hiện. Nó chỉ biểu hiện cụ thể khi có sự cố xảy ra làm
phát sinh nghĩa vụ bồi thường.
- Bảo hiểm con người phi nhân thọ:
20
Đây là các sản phẩm bảo hiểm cho các rủi ro liên quan đến sức khỏe của con
người như ốm đau, bệnh tạt, tai nạn. Nhóm sản phẩm này lại được chi tiết thành bảo
hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật; bảo hiểm học sinh, bảo hiểm khách du lịch, bảo
hiểm tai nạn con người…
Đặc trưng của BH con người PNT: đối tượng của bảo hiểm con người phi
nhân thọ là tính mạng, sức khỏe của người tham gia bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm
được ấn định trước trên hợp đồng bảo hiểm. Khi có sự kiện bảo hiểm, các khoản
tiền bảo hiểm được thanh toán mang tính chất khoán chứ không phải là bồi thường
thiệt hại.
Ngoài ra, còn rất nhiều cách phân loại các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ
khác như: phân loại sản phẩm bảo hiểm theo kênh phân phối, theo nhóm khách
hàng, theo kết cấu sản phẩm. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ không
đi sâu vào các hình thức phân loại này. Việc phân loại như trên sẽ thuận lợi hơn cho
công tác nghiên cứu và phát triển các sản phẩm bảo hiểm khác nhau. Mặt khác, nó
giúp các DNBH quản lý tốt nghiệp vụ và tiến hành tổ chức kinh doanh khoa học và
có hiệu quả cao hơn, giúp các cơ quan quản lý nhà nước quản lý thị trường rễ dàng
và hiệu quả hơn.
2.5. Nội dung của quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm
Theo điều 120, chương VII, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 của Quốc
hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quy định rất rõ.

“Nội dung quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm bao gồm:
1. Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về kinh
doanh bảo hiểm; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát
triển thị trường bảo hiểm Việt Nam;
2. Cấp và thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo
hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; giấy phép đặt văn phòng đại diện của
doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam;
3. Ban hành, phê chuẩn, hướng dẫn thực hiện quy tắc, điều khoản, biểu phí,
hoa hồng bảo hiểm;
21
4. Áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm bảo đảm các
yêu cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm;
5. Tổ chức thông tin và dự báo tình hình thị trường bảo hiểm;
6. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm;
7. Chấp thuận việc doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
hoạt động ở nước ngoài;
8. Quản lý hoạt động của văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm,
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam;
9. Tổ chức việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn,
nghiệp vụ về bảo hiểm;
10. Thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm; giải quyết khiếu nại,
tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm”.
2.6. Vai trò của quản lý nhà nước đối với thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
Nhà nước bao quát toàn bộ hoạt động kinh doanh bảo hiểm và đóng vai quan
trọng, quyết định sự phát triển của TTBH. Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô
(luật pháp, cơ chế hoạt động) nhà nước quản lý và kiểm soát TTBH để đảm bảo thị
trường bảo hiểm phát triển đúng định hướng mà nhà nước đã đề ra.
*) Nhà nước tạo lập môi trường pháp lý:
Nhà nước ban hành hệ thống chính sách pháp luật, cơ chế hoạt động về hoạt
động KDBH. Xây dựng chiến lược và qui hoạch phát triển TTBH. Thanh tra, kiểm

tra việc chấp hành pháp luật của các DNBH, Công ty môi giới bảo hiểm. Áp dụng
các biện pháp cần thiết để DNBH đảm bảo các yêu cầu về tài chính và thực hiện các
cam kết với người được bảo hiểm, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh góp phần
thúc đẩy TTBH phát triển.
*) Nhà nước tạo ra môi trường kinh tế xã hội:
Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển của TTBH bởi kinh tế xã hội càng phát triển thì nhu cầu về bảo hiểm càng
tăng.

×